Bạn có đang quá bám víu? Còn người ấy thì sao?

ban-co-dang-qua-bam-viu-con-nguoi-ay-thi-sao

... và 3 gợi ý giúp bạn xoay chuyển tình thế.

Dù tình yêu lãng mạn, từ Romeo và Juliet cho đến Fifty Shades of Grey – thường được miêu tả như một cơn lốc cuốn phăng mọi ranh giới giữa hai người, thì một mối quan hệ lành mạnh, bền vững và thực sự thân mật lại đòi hỏi cả hai phải vừa biết gắn bó với nhau, vừa có thể đứng vững một mình khi cần.

Có bằng chứng cho thấy sự gắn bó này không chỉ là hình ảnh ẩn dụ hay đơn thuần là cuộc sống đan xen nhau về mặt thực tế. Daniel Wegner và các cộng sự từng viết: “Chỉ cần nghe một cuộc trò chuyện đơn giản giữa hai người yêu nhau, ta có thể dễ dàng nhận ra rằng ngay cả suy nghĩ của họ cũng gắn bó mật thiết. Họ cùng nhau nghĩ theo những cách mà khi ở một mình, họ sẽ không nghĩ đến.”

Tuy nhiên, nghiên cứu cho thấy, chính những trải nghiệm thời thơ ấu đã định hình khả năng dựa vào người khác cũng như khả năng độc lập của ta theo những cách sâu sắc và lâu dài. Khi nói đến sự thân mật lành mạnh, thì xuất phát điểm của mỗi người không hề giống nhau. Những người có kiểu gắn bó an toàn – những ai lớn lên trong vòng tay yêu thương và che chở của cha mẹ, được lắng nghe và thấu hiểu, có người luôn hiện diện và quan tâm, thường thấy mình như ở nhà trong các mối quan hệ thân mật. Họ không cảm thấy cần phải níu kéo hay tránh né để tự bảo vệ. Giống như cô bé Goldilocks trong ngôi nhà của ba chú gấu, luôn dò tìm giữa quá to và quá nhỏ, quá nóng và quá lạnh, họ có khả năng sống ở mức “vừa đủ”, giữ được sự cân bằng giữa cái tôi trọn vẹn và sự hòa quyện gắn bó trong một mối quan hệ đôi lứa.

Nhưng không phải ai cũng có được may mắn đó khi còn nhỏ. Những khuôn mẫu gắn bó mà ta được truyền lại từ tuổi thơ thường âm thầm chi phối cách ta yêu, dù ta có ý thức về điều đó hay không, trừ khi ta chủ động tìm hiểu và thay đổi. Những hình ảnh về tình yêu ta cất giữ từ thuở bé ảnh hưởng đến hành vi một cách vô thức, khiến việc gắn bó trở nên khó khăn và không trọn vẹn, trừ khi ta dám đối diện, khám phá và tháo gỡ những lớp vỏ ấy.

“Em không muốn lúc nào cũng cảm thấy bất an trong các mối quan hệ,” Gayle, 32 tuổi, chia sẻ. “Nhưng bất kỳ người đàn ông nào em từng yêu cũng phàn nàn rằng em cần được trấn an mỗi ngày. Ai cũng bảo điều đó khiến họ mệt mỏi.”

Tim, 45 tuổi, mới ly hôn, tâm sự: “Tôi nghĩ mình không giỏi chuyện thân mật. Tôi cần không gian riêng. Tôi không thích phải chia sẻ suy nghĩ, và vợ cũ của tôi thì luôn kể lể mọi thứ, suốt ngày chỉ nói về cảm xúc. Điều tôi muốn chỉ là được yên. Cô ấy bảo tôi là người lạnh lùng, chắc là đúng.” Hóa ra Tim là con một trong một gia đình ly tán từ khi còn nhỏ, và anh luôn xem mình là người rất độc lập.

Tùy hoàn cảnh trong mỗi gia đình, trẻ em có kiểu gắn bó không an toàn sẽ thích nghi theo những cách khác nhau. Khi không có một nguồn chăm sóc ổn định và nhạy cảm, một số sẽ phát triển kiểu gắn bó lo âu – luôn bất an, khi thì bám víu, khi thì dè chừng, luôn cảm thấy mình không đủ tốt và không ngừng tìm kiếm tín hiệu xấu để tự phòng vệ. Số khác sẽ chọn cách xa cách với người chăm sóc thiếu yêu thương để bớt bị tổn thương, đó là kiểu gắn bó né tránh. Họ vẫn có thể bước vào một mối quan hệ, nhưng luôn giữ một phần mình ở bên ngoài. Họ có vẻ như đang “ở trong” mối quan hệ, nhưng thực chất lại không hoàn toàn. Một phần rất lớn trong họ bị ngắt kết nối, không thể chạm tới. Họ trân trọng sự độc lập và năng lực tự lập của mình.

Tất nhiên, những phân loại như “lo âu” hay “né tránh” chỉ là cái khung lớn. Con người phức tạp và đa dạng hơn nhiều. Một người có thể rất bám víu trong tình yêu nhưng lại độc lập và thành công trong công việc. Tương tự, người né tránh trong tình cảm vẫn có thể làm tốt trong những môi trường không đòi hỏi sự gần gũi hay không khơi lại những vết thương thời thơ ấu, như chốn công sở chẳng hạn.

Và nếu hai kiểu người này, một bên luôn muốn xóa nhòa mọi ranh giới, còn bên kia lại cố gắng dựng lên những bức tường, kết đôi với nhau, thì một mô thức độc hại kinh điển rất dễ xuất hiện: bên đòi hỏi – bên rút lui. Người này càng tiến đến, người kia càng lùi xa, và thế là cặp đôi rơi vào một vòng xoay bất tận. Dù một người bất an hay né tránh có kết đôi với người có nền tảng gắn bó an toàn, mô thức này vẫn có thể xuất hiện.

Nếu người ấy từng nói bạn quá bám víu, hay quá xa cách hoặc nếu bạn từng nghe điều đó từ những người khác, thì đã đến lúc bạn nên tự hỏi liệu đánh giá ấy có đúng không. Việc đối mặt với những thói quen phản ứng của chính mình không dễ dàng, nhưng đó là con đường giúp bạn tiến gần hơn đến điều mình mong mỏi: một mối quan hệ biết cân bằng giữa gắn bó và tự do. Chìa khóa nằm ở chỗ làm dịu đi phản ứng vô thức của chính bạn.

1. Quan sát những phản ứng của chính mình.

Vì phần lớn hành vi này nằm trong tiềm thức, bạn cần xem xét kỹ liệu phản ứng của mình có đang bị chi phối bởi những trải nghiệm trong quá khứ hay do cách bạn diễn giải vô thức về chúng. Ví dụ, một nghiên cứu của Lorne Campbell, Jeffry A. Simpson và các cộng sự cho thấy: những người có kiểu gắn bó lo âu thường có xu hướng cảm nhận mức độ xung đột trong mối quan hệ cao hơn mỗi ngày, dễ bị tổn thương, nhạy cảm hơn, và có cái nhìn tiêu cực hơn về tương lai của mối quan hệ so với những người không mang kiểu gắn bó này. Có vẻ như sự cảnh giác quá mức của người gắn bó lo âu khiến họ đọc quá nhiều vào các tình huống, gán ghép động cơ, và phóng đại sự kiện theo cách mà người khác không làm, thậm chí còn áp đặt những cảm xúc tiêu cực của mình lên đối phương.

Vậy nên, câu hỏi bạn cần tự đặt ra là: Liệu những “kịch bản tuổi thơ” có đang điều khiển cuộc đối thoại trưởng thành hằng ngày của bạn không?

2. Gắn bó hình thành cách ta phản ứng và định đoạt số phận các mối quan hệ

Phần lớn chúng ta thường nghĩ rằng điều giáng đòn chí mạng vào một mối quan hệ là sự lừa dối, đặc biệt là khi nó liên quan đến điều gì đó quan trọng. Nhưng nghiên cứu lại cho thấy điều ngược lại: chỉ khoảng 23% các mối quan hệ tan vỡ ngay sau khi phát hiện ra sự gian dối, và điều thật sự đóng vai trò quyết định lại là kiểu gắn bó của mỗi người.

Đó cũng là điều mà một nghiên cứu được thực hiện trên sinh viên đại học bởi Su Ahm Jang, Sandi W. Smith và Timothy R. Levine đã chỉ ra. Họ sử dụng một định nghĩa khá chặt chẽ về "sự lừa dối": một hành vi cố ý truyền tải thông điệp nhằm đánh lạc hướng người bạn đời về điều gì đó quan trọng đối với họ hoặc với mối quan hệ. Điều họ khảo sát không phải là những lời nói dối vô thưởng vô phạt, mà là những hành vi có chủ đích rõ ràng.

Có lẽ không ai ngạc nhiên khi những người có kiểu gắn bó an toàn thường trực tiếp đối diện với vấn đề cùng bạn đời, và nhờ vào những cuộc trò chuyện cởi mở đó, họ ít khi kết thúc mối quan hệ ngay lập tức. Nói chuyện một cách thành thật vẫn luôn là điều mang lại hy vọng. Những người gắn bó lo âu thì vòng vo quanh vấn đề, nhưng họ cũng hiếm khi bỏ đi ngay. Trong khi đó, những người gắn bó kiểu né tránh, khoảng 45% trong số họ là những người nói lời chia tay sớm nhất, khiến các nhà nghiên cứu kết luận rằng: “Người né tránh thường chấm dứt mối quan hệ nhiều hơn cả, bởi họ có xu hướng tránh né cảm xúc sau những rắc rối xảy ra trong tình cảm. Dường như điều quan trọng không phải là bạn nói gì, mà là bạn vẫn còn nói chuyện với nhau hay không sau khi phát hiện sự lừa dối.”

Vậy thì, kiểu gắn bó của bạn ảnh hưởng ra sao đến cách bạn phản ứng khi có khủng hoảng hay bị phản bội? Nó tác động thế nào đến khả năng bạn có thể kết nối và giao tiếp với người thương?

Dù nghiên cứu này chỉ phản ánh một khía cạnh trong cách các cặp đôi vượt qua khủng hoảng, vẫn có điều đáng lưu ý: dù người né tránh có xu hướng rút lui ngay lập tức cao hơn (45%, so với 14% người gắn bó an toàn và 23% người gắn bó lo âu), thì cuối cùng chỉ có 34% những người tiếp tục mối quan hệ sau khi phát hiện ra sự gian dối còn duy trì được nó. (Trong số 66% còn lại rời đi, họ cho biết còn nhiều lý do khác dẫn đến chia tay.)

3. Sự bám víu hay xa cách không phải là định mệnh bất biến

May mắn thay, chúng ta không phải bị trói buộc mãi mãi bởi những trải nghiệm thời thơ ấu trong mọi mối quan hệ. Tất nhiên, điều này không phải là một cuộc dạo chơi nhẹ nhàng trong công viên; như các nhà nghiên cứu chỉ ra, kiểu gắn bó không được hình thành từ một lần tương tác duy nhất với người chăm sóc, mà là vô vàn khoảnh khắc lặp lại trong thời gian dài, đến mức một can thiệp đơn lẻ gần như không thể thay đổi hoàn toàn mô hình đã ăn sâu.

Tuy vậy, giới khoa học vẫn không ngừng tìm kiếm những phương pháp có thể làm dịu đi phản ứng vô thức của những người gắn bó lo âu hoặc né tránh. Một trong số đó là khái niệm “gắn bó đạt được”, một kiểu kết nối được hình thành nhờ một mối quan hệ đủ mạnh (với người yêu, bác sĩ trị liệu, người đỡ đầu, hoặc ai đó thân thiết), giúp phá bỏ những hình ảnh tâm trí cũ kỹ và thay thế bằng cảm nhận về sự gắn kết an toàn.

Một nghiên cứu thú vị về “tác nhân kích hoạt” (priming) đã hé lộ cách thức quá trình này diễn ra. Trong khi một số thí nghiệm dùng từ ngữ hoặc hoàn cảnh gợi nhắc đến sự yêu thương và an toàn chỉ tạo ra ảnh hưởng ngắn hạn (kéo dài vài giờ), thì nghiên cứu của Katherine B. Carnelley và Angela C. Rowe lại cho thấy hiệu ứng của “gắn bó an toàn” có thể tồn tại nhiều ngày. Họ yêu cầu người tham gia hình dung một người khiến họ cảm thấy an toàn, viết về người đó trong hai lần khác nhau, và tưởng tượng ra một tình huống trong đó họ được những con người nhạy cảm giúp đỡ khi đối diện với một vấn đề mà họ không thể tự mình giải quyết.

Trong phần thảo luận, các nhà nghiên cứu cho rằng: chỉ riêng việc nghĩ về những trải nghiệm gắn bó an toàn cũng có thể giúp ích cho mọi người, bất kể kiểu gắn bó của họ ra sao—nhất là trong lúc căng thẳng. (Và theo trải nghiệm của tôi, điều này rất đúng.) Với những người gắn bó lo âu hay né tránh, việc hồi tưởng lại những người từng mang lại cảm giác trái ngược với tổn thương ban đầu có thể giúp củng cố hình ảnh tích cực về sự gắn kết, khiến chúng dễ dàng hiện diện hơn trong tâm trí khi cần. Hy vọng là, sau nhiều lần lặp lại, hình ảnh về một mối liên kết an toàn sẽ trở thành phản ứng đầu tiên khi ta đánh giá hay phản ứng trước một tình huống nào đó.

Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu cũng thành thật thừa nhận: “Dù việc kích hoạt lặp đi lặp lại có thể thay đổi nhận thức và suy nghĩ của con người về bản thân và các mối quan hệ, nhưng thay đổi phản ứng cảm xúc trước những tác nhân kích hoạt gắn bó lại khó khăn hơn rất nhiều.” Nói một cách thẳng thắn, đó là sự cảnh giác quá mức vô thức của những người lo âu hoặc né tránh, cùng cách đối phó tự động đã ăn sâu.

Dù vậy, chúng ta hoàn toàn có thể học cách sống khác đi, nếu có sự nỗ lực, hỗ trợ và đồng hành. Và tôi nghĩ, làm một con người đang dần hoàn thiện vẫn tốt hơn là mãi mãi đóng khung trong những khuôn mẫu cũ, bạn có đồng ý không? 

Tác giả: Peg Streep

Nguồn: Are You Too Clingy? Is Your Partner? | Psychology today

menu
menu