Đánh giá các phương pháp học tập – Scientific American Mind
Nhìn chung giáo dục thường tập trung vào nội dung học tập, chẳng hạn đại số, các nguyên tố trong bảng tuần hoàn hay cách chia động từ. Nhưng tìm hiểu cách học cũng là điều quan trọng không kém, đi kèm nhiều lợi ích lâu dài.
Các tác giả: John Dunlosky, Katherine A. Rawson, Elizabeth J. Marsh, Mitchell J. Nathan & Daniel T. Willingham
Hình minh hoạ của Celia Johnson
Duy Đoàn chuyển ngữ
Nhìn chung giáo dục thường tập trung vào nội dung học tập, chẳng hạn đại số, các nguyên tố trong bảng tuần hoàn hay cách chia động từ. Nhưng tìm hiểu cách học cũng là điều quan trọng không kém, đi kèm nhiều lợi ích lâu dài. Điều đó có thể dạy bạn cách thu thập kiến thức nhanh và hiệu quả hơn cũng như cho phép bạn giữ được thông tin suốt nhiều năm thay vì trong nhiều ngày.
Hơn 100 năm nay, những nhà tâm lí học tri nhận và giáo dục đã phát triển và đánh giá vô số kĩ thuật, từ việc đọc lại tài liệu cho đến tóm tắt lại để tự kiểm tra bản thân. Một số chiến lược phổ biến rõ ràng có cải thiện thành tích của học viên, trong khi số khác lại tốn thời gian và không hiệu quả. Tuy vậy những thông tin này thường không được đưa vào áp dụng ở lớp học. Các giáo viên ngày nay không được cho biết những kĩ thuật học tập nào được các chứng cứ thực nghiệm hậu thuẫn, còn học viên thì không được dạy cách dùng những kĩ thuật đó sao cho hiệu quả. Thực tế, hai cách trợ giúp học tập mà các học viên đang dựa vào nhiều nhất lại không hiệu quả. Một trong hai cách này thậm chí còn làm suy giảm thành tích học tập.
Một nguyên do tiềm tàng chính là việc có quá nhiều nghiên cứu khiến chúng ta choáng ngợp, làm cho các nhà giáo dục và các học viên khó xác định những phương cách học tập thực tiễn và ích lợi nhất. Để đáp ứng thách thức này, chúng tôi điểm lại hơn 700 bài báo khoa học bàn về 10 kĩ thuật học tập thường được sử dụng nhất. Chúng tôi tập trung vào những chiến lược trông có vẻ dễ sử dụng và đạt mức hiệu quả rộng khắp. Chúng tôi cũng có cái nhìn sát sao hơn về một số phương pháp các học viên thường dùng.
Để được chúng tôi đưa ra giới thiệu ở đây, kĩ thuật đó phải hữu ích ở nhiều hoàn cảnh học tập khác nhau, chẳng hạn lúc học viên học một mình hay học chung nhóm. Nó phải trợ giúp học viên ở nhiều lứa tuổi khác nhau, có những năng lực khác nhau và những cấp độ hiểu biết ban đầu khác nhau – và nó phải được kiểm tra trong lớp học hoặc trong tình huống ngoài thế giới thực. Các học viên có thể dùng phương pháp đó để tinh thông nhiều môn khác nhau, và việc học tập của họ phải được hưởng lợi từ phương pháp đó bất kể trải qua loại hình kiểm tra gì. Những cách tiếp cận tốt nhất cũng phải dẫn đến những cải thiện dài lâu về mặt kiến thức và khả năng lĩnh hội.
Bằng cách dùng những tiêu chuẩn này, chúng tôi định ra hai phương pháp tối ưu rõ ràng. Chúng tạo ra những kết quả vững chắc, ổn định và thích hợp cho nhiều tình huống. Chúng tôi cũng đưa ra ba phương pháp khác để dự phòng những tình huống khác, và năm phương pháp – trong đó có hai cách trợ giúp học tập phổ biến – không được chúng tôi khuyến nghị, vì chúng chỉ hữu ích trong một số hoàn cảnh hạn chế nhất định hoặc vì chưa đủ chứng cứ để có thể đánh giá chúng cao hơn. Chúng tôi khuyến khích các nhà nghiên cứu khảo sát sâu thêm một số kĩ thuật chưa được kiểm nghiệm, nhưng học viên và giáo viên nên cẩn trọng khi dựa vào những kĩ thuật đó.
Những kĩ thuật vàng
1. Tự kiểm tra (self-testing)
Ra bài kiểm tra chính bản thân mình sẽ giúp đạt điểm cao
Cách hoạt động: Không như bài kiểm tra đánh giá kiến thức, đây là những bài kiểm tra thực hành do học viên tự mình thực hiện lấy, bên ngoài lớp học. Những phương pháp thực hiện có thể bao gồm dùng thẻ flashcard (bằng giấy hay bằng phiên bản điện tử) để kiểm tra trí nhớ hoặc bao hàm việc trả lời những câu hỏi mẫu ở cuối mỗi chương sách. Mặc dù hầu hết các học viên thích thực hiện càng ít bài kiểm tra càng tốt, nhưng hàng trăm thí nghiệm chứng tỏ rằng việc tự kiểm tra sẽ cải thiện được chuyện học tập và khả năng nhớ.
Theo một nghiên cứu, người ta yêu cầu sinh viên ghi nhớ những cặp từ, một nửa số cặp từ này sau đó được đưa vào bài kiểm tra trí nhớ. Một tuần sau, các học viên đó nhớ được 35% số cặp từ mà họ được kiểm tra lúc trước, so với chỉ 4% ở những học viên không được kiểm tra. Trong một thí nghiệm khác, các học viên được đưa xem những cặp từ theo hai ngôn ngữ Swahili-Anh, sau đó cho họ làm kiểm tra thực hành hoặc ôn lại. Đối với những phần được cho kiểm tra liên tục thì người học có thể nhớ tới 80%, so với chỉ có 36% đối với những phần không được ôn lại. Các nhà khoa học đưa ra giả thuyết rằng việc thực hiện bài kiểm tra thực hành sẽ làm cho trí óc lục soát phần kí ức dài hạn, điều này làm kích hoạt những thông tin có liên hệ, hình thành nhiều con đường kí ức khiến cho việc truy cập thông tin đó dễ dàng hơn.
Phạm vi hoạt động: Bất kì người nào từ lứa tuổi mẫu giáo đến sinh viên y khoa năm tư cho đến những người trung niên đều có thể được lợi từ phương pháp kiểm tra thực hành. Nó có thể được dùng cho toàn bộ những loại thông tin dữ kiện (factual information), bao gồm việc học từ ngữ tiếng nước ngoài, lập ra những danh sách chính tả và ghi nhớ các bộ phận của hoa. Nó còn cải thiện được khả năng nhớ đối với những người mắc phải bệnh Alzheimer. Nói ngắn gọn, những bài kiểm tra thường xuyên là cách hiệu quả nhất, đặc biệt khi người làm kiểm tra nhận được phản hồi cho những đáp án đúng.
Việc kiểm tra thực hành đạt hiệu quả thậm chí khi hình thức kiểm tra có khác với hình thức kiểm tra thật sự. Những tác động có lợi có thể kéo dài nhiều tháng cho đến nhiều năm – đây là tin rất tuyệt, nếu xét đến việc học tập bền bỉ là điều cực kì quan trọng.
Nó có thực tế? Có. Phương pháp này không tốn nhiều thời giờ và gần như không cần rèn luyện gì.
Cách thực hiện: Các học viên có thể tự kiểm tra bằng thẻ flashcard hoặc dùng phương thức Cornell: trong quá trình ghi chú ở lớp, hãy tạo một cột ở rìa trang giấy để có thể điền vào đó những thuật ngữ hoặc những câu hỏi then chốt. Bạn có thể tự kiểm tra mình sau đó bằng cách che đi phần ghi chú và trả lời những câu hỏi (hoặc giải thích những từ then chốt) ở ngoài lề giấy.
Mức đánh giá: Hiệu năng cao. Việc kiểm tra thực hành hoạt động hiệu quả ở rất nhiều hình thức, nội dung, lứa tuổi học viên và thậm chí cũng hiệu quả khi được thực hiện theo nhiều khoảng thời gian cách quãng khác nhau (tức là mức hiệu quả càng cao khi thời gian cách quãng giữa hai lần kiểm tra càng dài, điều này tương ứng với phương pháp thực hành phân bổ mà ta sẽ đề cập ngay sau đây).
2. Thực hành phân bổ (distributed practice)
Để có kết quả tốt nhất, hãy trải rộng thời gian học của bạn.
Cách hoạt động: Học viên thường “ôm dồn” việc học – nói cách khác, họ hay có thói quen nhồi nhét. Nhưng phân bổ thời gian học là phương pháp học hiệu quả hơn nhiều. Trong một thí nghiệm kinh điển, các học viên học những từ tiếng Anh tương đương với những từ bên tiếng Tây-ban-nha, sau đó ôn lại bài học trong sáu buổi. Một nhóm thực hiện các buổi ôn tập liền kề nhau, nhóm khác có những buổi ôn tập cách nhau một ngày, còn nhóm thứ ba có những buổi ôn cách nhau 30 ngày. Các học viên trong nhóm 30-ngày nhớ được bài tốt nhất. Trong một phân tích về 254 nghiên cứu có sự tham gia của hơn 14,000 người, người ta thấy học viên nhớ được nhiều hơn sau khi có những khoảng thời gian học tập cách quãng (đạt được 47% tổng thể) hơn là học theo kiểu dồn lại (37%).
Phạm vi hoạt động: Trẻ em từ ba tuổi cho đến sinh viên và người già đều có thể được lợi từ phương pháp này. Thực hành phân bổ mang lại hiệu quả cho việc học từ vựng tiếng nước ngoài, các định nghĩa từ, và thậm chí các kĩ năng khác như toán, nhạc và giải phẫu.
Nó có thực tế? Có. Mặc dù các cuốn sách giáo khoa thường nhóm các vấn đề lại với nhau theo chủ đề, nhưng bạn có thể rải rác chúng ra theo cách riêng mình. Bạn phải đặt kế hoạch trước và phải vượt qua khuynh hướng hay chần chừ mà người học thường mắc phải.
Cách thực hiện: Khoảng thời gian học trải ra càng dài thì hiệu quả nhìn chung sẽ càng cao. Trong một nghiên cứu, khoảng cách kéo dài 30 ngày giúp cải thiện hiệu suất hơn so với chỉ một ngày. Trong một nghiên cứu dựa trên Internet về chuyện học các thông tin sự kiện (trivia learning), hiệu suất cao nhất xuất hiện khi các buổi học cách nhau khoảng 10 đến 20 phần trăm khoảng thời gian ghi nhớ. Để nhớ điều gì đó trong một tuần, các buổi học nên cách nhau 12 đến 24 giờ; để nhớ điều gì đó trong năm năm, người học nên cách khoảng những lần học từ 6 đến 12 tháng. Mặc dù dường như có vẻ không thực vậy, nhưng bạn thật sự có thể nhớ được thông tin thậm chí suốt những khoảng thời gian dài, và bạn nhanh chóng học lại được những gì mình đã quên. Những lần trì hoãn dài giữa hai thời điểm học là điều lí tưởng để nhớ được những khái niệm nền tảng vốn là những thứ hình thành nên cơ sở cho kiến thức cao cấp.
Mức đánh giá: Hiệu năng cao. Thực hành phân bổ đem lại hiệu quả cho những học viên thuộc nhiều lứa tuổi khác nhau theo học nhiều loại tài liệu khác nhau và suốt những khoảng thời gian trì hoãn dài. Phương pháp này dễ thực hiện và đã được sử dụng thành công ở nhiều nghiên cứu thực tế trong lớp học.
Những kĩ thuật hạng hai
Dù cho những kĩ thuật này trông hứa hẹn, nhưng chúng không đạt, trong nhiều trường hợp bởi vì chưa tập hợp đủ chứng cứ để hậu thuẫn cho việc sử dụng chúng. Một số kĩ thuật, chẳng hạn tra vấn chi tiết (elaborative interrogation) và tự giải thích (self-explanation), chưa được đánh giá đầy đủ ở bối cảnh giáo dục thực tế bên ngoài. Một phương pháp mới nổi khác là thực hành đan xen (interleaved practice) vừa mới bắt đầu được khảo sát có hệ thống. Tuy thế, những kĩ thuật này cho thấy chúng có đủ tiềm năng để chúng tôi có thể khuyến nghị việc sử dụng trong những tình huống được mô tả ngắn gọn ở đây.
3. Tra vấn chi tiết (elaborative interrogation)
Hướng đến đứa trẻ bốn tuổi trong con người bạn
Cách hoạt động: Chúng ta về bản tính là tò mò, bao giờ cũng muốn tìm kiếm những lời giải thích cho thế giới xung quanh. Có khá nhiều chứng cứ cho thấy rằng gợi các học viên trả lời câu hỏi “Tại sao?” cũng là cách giúp ích cho việc học tập.
Với kĩ thuật này, được gọi là tra vấn chi tiết, học viên tạo ra những lời giải thích cho những sự kiện, chẳng hạn “Tại sao điều này có nghĩa là…?” hoặc “Tại sao điều này lại đúng?” Trong một thí nghiệm, chẳng hạn, các học viên đọc những câu văn như “người đàn ông đói bụng kia chui vào xe hơi”. Những người trong nhóm tra vấn chi tiết được yêu cầu giải thích tại sao, trong khi những người khác được cung cấp cho lời giải thích, chẳng hạn như “người đàn ông đói bụng kia chui vào xe hơi để tới quán ăn”. Nhóm thứ ba chỉ đơn giản đọc từng câu. Khi được yêu cầu nhớ lại người đàn ông nào thực hiện hành động gì (“Ai chui vào xe?”), thì nhóm tra vấn chi tiết trả lời đúng khoảng 72%, so với khoảng 37% ở hai nhóm còn lại.
Nên sử dụng lúc nào? Khi bạn đang học những thông tin về dữ kiện – đặc biệt nếu bạn đã biết điều gì đó về chủ đề này. Kiến thức sẵn có sẽ làm tăng thêm sức mạnh cho kĩ thuật này; các học viên Đức được lợi từ tra vấn chi tiết hơn khi họ học về các bang của Đức so với lúc học về các tỉnh của Canada, chẳng hạn vậy. Có thể kiến thức sẵn có cho phép học viên tạo ra được nhiều lời giải thích phù hợp hơn về nguyên do tại sao một sự kiện nào đó lại đúng.
Những kết quả của kĩ thuật này có vẻ vững chắc ở mọi lứa tuổi, từ học sinh lớp bốn cho đến sinh viên đại học. Tra vấn chi tiết rõ ràng cải thiện trí nhớ về sự kiện, nhưng liệu nó có thể nâng cao khả năng lĩnh hội hay không vẫn còn là điều không mấy chắc, và chưa có thông tin kết luận nào cho biết những lợi ích học tập từ kĩ thuật này sẽ kéo dài trong bao lâu.
Nó có thực tế? Có. Nó chỉ cần rèn luyện ở mức tối thiểu và đòi hỏi lượng thời gian hợp lí. Trong một nghiên cứu, một nhóm tra vấn chi tiết cần 32 phút thực hiện một tác vụ mà một nhóm ngồi đọc thông tin cần 28 phút để làm xong.
Mức đánh giá: Hiệu năng trung bình. Kĩ thuật này hoạt động ở phạm vi rộng thuộc nhiều chủ đề nhưng có thể không hữu ích đối với dạng tài liệu phức tạp hơn là một danh sách dữ kiện. Những lợi ích đạt được từ kĩ thuật này có thể bị hạn chế đối với những học viên không có sẵn kiến thức từ trước. Người ta cần tiến hành nghiên cứu thêm để xác minh liệu tra vấn chi tiết có phổ biến được ở nhiều dạng tình huống khác nhau và nhiều loại thông tin khác nhau hay không.
4. Tự giải thích (self-explanation)
Làm sao tôi biết được?
Cách hoạt động: Các học viên hình thành lời giải thích cho những điều họ học được, điểm lại quá trình tư duy với những câu hỏi như “Câu này cung cấp cho bạn thông tin mới gì?” và “Nó liên quan ra sao đến những điều bạn đã biết?”Tương tự với cách tra vấn chi tiết, tự giải thích có thể giúp tích hợp thông tin mới với kiến thức sẵn có từ trước.
Nên sử dụng lúc nào? Phương pháp này ích lợi cho trẻ mẫu giáo cho đến sinh viên đại học và giúp ích trong việc giải các bài toán và những trò lí giải logic, trong việc học hỏi từ các văn bản truyện kể và thậm chí còn giúp tinh thông các chiếc lược cờ tàn. Ở trẻ nhỏ, phương pháp tự giải thích có thể giúp chúng có được những ý tưởng căn bản như học các con số hoặc các khuôn hình. Kĩ thuật này giúp cải thiện trí nhớ, cách lĩnh hội và giải quyết vấn đề – ấn tượng là nó có nhiều kết quả khác nhau. Hầu hết các nghiên cứu tuy vậy đều chỉ đo lường các tác động trong vòng vài phút, và chưa biết được liệu kĩ thuật này đạt mức hiệu quả kéo dài lâu hơn ở những người có trình độ kiến thức cao hay lâu hơn ở những người trình độ thấp.
Nó có thực tế? Chưa rõ. Một mặt, hầu hết các học viên chỉ cần hướng dẫn rất ít và gần như không cần thực hành chi hết, mặc dù có một cuộc thử nghiệm dành cho học sinh lớp chín đã chứng tỏ rằng các học viên không rèn luyện sẽ có xu hướng diễn giải lại thay vì đưa ra lời giải thích. Mặt khác, một vài nghiên cứu báo cáo rằng kĩ thuật này hao tốn thời gian, làm tăng lên 30 đến 100% lượng thời gian cần thiết.
Mức đánh giá: Hiệu năng trung bình. Tự giải thích hoạt động hiệu quả ở nhiều chủ đề khác nhau và ở rất nhiều lứa tuổi. Các nghiên cứu thêm sau này phải xác minh được liệu những tác động này có lâu bền hay không và liệu việc tiêu tốn thời gian có xứng đáng hay không.
5. Thực hành đan xen (interleaved practice)
Trộn táo và cam lẫn vào nhau.
Cách hoạt động: Các học viên có xu hướng học theo từng mảng, hoàn thành chủ đề này hay loại vấn đề này rồi mới sang chủ đề kế tiếp. Nhưng nghiên cứu gần đây chứng tỏ được những ích lợi khi thực hiện cách học đan xen, trong đó học viên thay đổi luân phiên các loại thông tin hay vấn đề khác nhau. Chẳng hạn theo một nghiên cứu, các sinh viên học cách tính thể tích của bốn loại vật thể khác nhau. Ở nhóm thực hành theo mảng, họ hoàn tất hết các bài toán ở một dạng vật thể rồi mới chuyển sang vật thể kế tiếp. Ở nhóm thực hành đan xen, các bài toán được trộn vào nhau. Khi được kiểm tra một tuần sau đó, nhóm thực hành đan xen trả lời chính xác hơn 43%. Đan xen như thế cho phép học viên thực hành việc chọn ra phương pháp đúng và khuyến khích họ đối chiếu những dạng vấn đề khác nhau.
Nên sử dụng lúc nào? Khi các dạng vấn đề tương tự nhau, có lẽ vì khi đặt chúng kế bên sẽ khiến ta dễ thấy được sự khác biệt giữa chúng. Thực hành theo mảng – tức làm liên tiếp tất cả những thứ thuộc một hạng mục – có thể hiệu quả hơn khi các vấn đề không giống nhau nhiều lắm bởi vì lúc đó nó sẽ nhấn mạnh những điểm chung giữa các vấn đề.
Có thể do thực hành đan xen chỉ có lợi cho những ai có sẵn khả năng suy xét theo lí trí. Các kết quả đạt được cũng lẫn lộn tốt xấu lung tung đối với những dạng nội dung khác nhau. Nó giúp cải thiện hiệu suất khi gặp những bài toán đại số và hiệu quả lúc rèn luyện sinh viên y khoa cách diễn giải tín hiệu điện để chẩn đoán những rối loạn tim mạch. Tuy thế hai nghiên cứu về việc học từ ngữ nước ngoài đã chứng tỏ cách học đan xen này không hiệu quả. Dù vậy, với việc nhiều sinh viên gặp khó khăn trong chuyện học toán thì đây có thể vẫn là chiến lược có giá trị dành cho môn học này.
Nó có thực tế? Dường như có. Học viên có động lực có thể dễ dàng dùng cách đan xen mà không cần chỉ dẫn. Giáo viên cũng có thể dùng kĩ thuật này trong lớp học: Sau khi giới thiệu một loại vấn đề (hay chủ đề), việc thực hành đầu tiên tập trung vào vấn đề đó. Một khi loại vấn đề tiếp theo được đưa ra, nó được trộn lẫn với những ví dụ của các chủ đề trước. Phương pháp này có thể mất nhiều thời gian hơn chút ít so với phương pháp thực hành theo mảng, nhưng chậm như vậy có thể đáng giá, nó phản ánh những tiến trình tri nhận làm tăng hiệu suất học tập.
Mức đánh giá: Hiệu năng trung bình. Thực hành đan xen cải thiện chuyện học và ghi nhớ các kiến thức toán học và tăng cường những kĩ năng tri nhận khác. Tuy thế hiện không có nhiều văn liệu về phương pháp thực hành đan xen này, và số văn liệu này lại có những kết quả tiêu cực đủ để dấy lên mối bận tâm. Có thể là kĩ thuật này không hoạt động hiệu quả một cách nhất quán, hoặc có lẽ không phải lúc nào người ta cũng sử dụng phương pháp này một cách phù hợp – đây là những chủ đề cho nghiên cứu trong tương lai.
Những điều chúng ta học được
Tại sao các học viên không dùng những kĩ thuật học tập hiệu quả hơn? Dường như họ không được dạy cho biết những chiến lược tốt nhất, có lẽ vì bản thân giáo viên cũng không được đào tạo những chiến lược đó. Trong khảo sát của chúng tôi về sáu cuốn sách giáo khoa về tâm lí học giáo dục, chỉ có một kĩ thuật – “nhớ từ khoá” – được đề cập đến trong mọi cuốn sách. Không cuốn sách nào cung cấp nhiều hướng dẫn về cách dùng, tính hiệu quả hay những giới hạn của những cách thức học tập khác nhau.
Vấn đề thứ nhì có thể là trong hệ thống giáo dục, người ta chú trọng dạy cho học viên các kĩ thuật và nội dung mang tính tư duy phê phán. Chuyện dạy cách học không được dành nhiều thời gian bằng. Kết quả có thể là học viên có kết quả tốt trong những năm đầu, khi việc học được giám sát chặt chẽ, nhưng có thể phải gắng sức rất nhiều một khi họ được mong đợi phải điều tiết chính việc học của mình ở trường phổ thông hoặc ở đại học.
Vẫn còn đó một số vấn đề cần nghiên cứu thêm, chẳng hạn lứa tuổi phù hợp nhất để học viên có thể bắt đầu dùng một kĩ thuật nào đó và họ sẽ cần rèn luyện hay gợi nhắc với mức độ thường xuyên ra sao. Nhưng thậm chí bây giờ các giáo viên có thể đưa những cách tiếp cận hiệu quả nhất vào kế hoạch giảng dạy để học viên có thể tự mình thực hiện lấy. Ví dụ, khi chuyển sang phần mới, giáo viên có thể bắt đầu bằng cách hỏi học viên làm bài kiểm tra thực hành bao hàm những ý quan trọng từ phần bài học trước và giáo viên sẽ có ý kiến phản hồi ngay lập tức. Các học viên có thể đan xen những vấn đề mới với những vấn đề liên quan từ những bài học trước. Giáo viên có thể khai thác phương pháp thực hành phân bổ bằng cách giới thiệu lại những khái niệm trọng yếu trong suốt khoá học ở nhiều buổi học. Họ có thể thu hút học viên vào việc đặt câu hỏi có tính chất giải thích bằng cách khiến học viên nghĩ xem thông tin đó mới mẻ đối với họ ra sao hoặc tại sao nó có thể đúng.
Những kĩ thuật học tập này không phải chìa khoá vạn năng. Chúng chỉ đem lại lợi ích cho những ai có động lực và có thể dùng chúng. Dù vậy, chúng tôi kì vọng rằng các học viên sẽ đạt được những thành tựu có ý nghĩa trong quá trình học tập trên lớp, khi làm bài kiểm tra kiến thức và trong suốt cuộc đời mình.
Phụ lục: Những kĩ thuật học tập không hiệu quả
Những kĩ thuật này được đánh giá có hiệu năng thấp vì chúng không hiệu quả hoặc chỉ mang lại lợi ích chỉ trong những loại hình học tập nhất định và chỉ bảo lưu được trí nhớ trong những khoảng thời gian ngắn ngủi. Hầu hết các sinh viên báo cáo việc đọc lại tài liệu và làm nổi bật đoạn văn, tuy vậy những kĩ thuật này không nhất quán trong việc tăng cường hiệu suất, và chúng làm học viên xao lãng khỏi những chiến lược có năng suất hơn. Những phương pháp khác được đề cập bên dưới đây chỉ là những phương pháp hao tốn thời gian quá nhiều mà thôi.
Làm nổi bật đoạn văn
Các học viên thường cho biết họ hay gạch dưới, tô màu lên hoặc đánh dấu trong tài liệu. Cách này đơn giản và nhanh – nhưng nó hầu như không giúp cải thiện hiệu suất học tập. Trong những nghiên cứu có đối chứng (controlled study) phương pháp làm nổi bật này không giúp ích được cho những tân binh của Không lực Hoa-kì trong khoá huấn luyện, trẻ em và các học viên yếu kém, cũng như cho những sinh viên bình thường. Gạch dưới không đạt được hiệu quả bất kể độ dài đoạn văn và chủ đề thế nào, cho dù nó có về khí động lực học, các trường phái Hi-lạp cổ hay về Tanzania.
Thực tế, phương pháp này có thể làm tổn hại hiệu suất ở một số tác vụ cao cấp hơn. Một nghiên cứu về các chuyên ngành giáo dục phát hiện ra rằng việc gạch dưới làm giảm khả năng rút ra suy luận từ cuốn sách lịch sử. Nó có thể là do việc gạch dưới thu hút sự tập trung vào những mục đơn lẻ thay vì tập trung vào những nối kết xuyên suốt các mục trong sách.
Nên làm gì khác: Tô đậm hay gạch dưới có thể hữu ích nếu nó là khởi đầu cho cuộc hành trình – nếu thông tin được đánh dấu kia sau đó chuyển thành những thẻ ghi chú hoặc những bài tự kiểm tra bản thân. Nếu các học viên cứ tiếp tục dùng kĩ thuật phổ biến này, thì nghiên cứu trong tương lai nên nhắm đến việc dạy cho học việc cách tô đậm hiệu quả hơn – tức làm điều đó thận trọng hơn (hầu hết các sinh viên đều đánh dấu các đoạn văn quá mức cần thiết) và nên kết hợp thông tin đó với kĩ thuật học tập hữu ích hơn.
Đọc lại tài liệu
Trong một khảo sát các sinh viên đại học tại một trường đại học danh giá, 84 phần trăm cho biết họ đọc lại sách giáo khoa hay các ghi chú trong suốt quá trình học. Cách này không cần rèn luyện gì, lại đòi hỏi không nhiều thời giờ, và đã cho thấy có một số lợi ích cho việc nhớ lại và cho những bài kiểm tra điền-vào-chỗ-trống.
Tuy thế chứng cứ hãy còn mập mờ ở chỗ việc đọc lại có tăng cường khả năng lĩnh hội hay không, và điều đáng buồn là người ta vẫn chưa khảo sát đúng mức chuyện liệu những tác động của cách làm này phụ thuộc vào cấp độ hiểu biết hay năng lực bản thân. Hầu hết các lợi ích của việc đọc lại có vẻ do từ việc đọc lại lần thứ nhì, với mức sinh lợi giảm dần từ những lần đọc lại tiếp theo. Chưa có nghiên cứu thực nghiệm nào đánh giá cách này bằng việc dùng những tài liệu những những khoá học thực thụ – đây quả là điều mỉa mai khi đây là một trong những chiến lược được các học viên báo cáo lại nhiều nhất.
Nên làm gì khác: Đừng phí thời gian của bạn – ở những đối chiếu trực tiếp nhau, việc đọc lại kém thế hơn so với những chiến lược chủ động hơn như tra vấn chi tiết, tự giải thích và kiểm tra thực hành.
Có ba kĩ thuật học ít phổ biến hơn cũng đạt kết quả kém trong quá trình đánh giá của chúng tôi. “Hình ảnh thay chữ” cần nhiều chứng cứ hơn trước khi được đem ra khuyến nghị, trong khi phương pháp “tóm tắt” và “ghi nhớ từ khoá” có vẻ thiếu hiệu quả và tốn thời gian.
Ở phương pháp tóm tắt, các học viên xác định mấy điểm chính của đoạn văn, loại trừ những thông tin không quan trọng. Chuyện nó có hiệu quả hay không cũng khó mà trả lời, do người ta thực hiện phương pháp này bằng nhiều cách khác nhau. Không rõ liệu tóm tắt những đoạn nhỏ trong văn bản hay cả một đoạn lớn sẽ hiệu quả hoặc liệu rằng độ dài, tính dễ đọc và cách tổ chức văn bản trong tài liệu có đóng vai trò quan trọng nào không.
Với phương pháp ghi nhớ từ khoá, hình ảnh được dùng tới để nâng cao trí nhớ: chẳng hạn, khi học từ tiếng Pháp la dent (cái răng), người ta có thể dùng từ tiếng Anh có âm giống vậy là “dentist” để tạo nên hình ảnh trong đầu về một người nha sĩ cầm lấy một chiếc răng hàm lớn. Cách ghi nhớ này dường như giúp ích được khi học từ nước ngoài, các định nghĩa từ và các thuật ngữ y khoa, nhưng những tác động chưa được chứng tỏ là sẽ kéo dài, và cuối cùng nỗ lực liên quan đến việc tạo từ khoá không thể là cách dùng thời gian hiệu quả.
Một kĩ thuật khác dùng những hình ảnh trong đầu là cách dùng hình cho việc học, trong đó các học viên được yêu cầu hãy tạo ra những hình ảnh cho mỗi đoạn văn họ đọc được. Nghiên cứu đã tiết lộ cho thấy một mảng chấp vá của những kết quả không nhất quán vốn chưa từng được chứng tỏ là sẽ duy trì được suốt thời gian dài. Giáo viên có thể xem xét việc dạy học sinh cố dùng cách này với những đoạn văn thân thiện với hình ảnh, nhưng phương pháp này cần thêm chứng minh để cho thấy nó hữu hiệu.
Sơ lược về những tác giả bài viết:
- John Dunlosky là giáo sư tâm lí học tại Kent State University.
- Katherine A. Rawson là phó giáo sư tâm lí học tại trường Kent State.
- Elizabeth J. Marsh là phó giáo sư tâm lí học và khoa học thần kinh ở Duke University.
- Mitchell J. Nathan là giáo sưu tâm lí học, tâm lí học giáo dục, và tham gia giảng dạy tại University of Wisconsin-Madison.
- Daniel T. Willingham là giáo sư tâm lí học ở University of Virginia.
Nguồn:
Dulosky, John, Katherine A. Rawson, Elizabeth J. Marsh, Mitchell J. Nathan & Daniel T. Willingham. “What works, what doesn’t.” Scientific American Mind, 9-10/2013: 47-53.
https://chiecnon.wordpress.com/2013/09/08/scientific-american-mind-danh-gia-cac-phuong-phap-hoc-tap/