Liều xoa dịu hiện sinh khi ta nhìn mình như một động từ, không phải một danh từ

lieu-xoa-diu-hien-sinh-khi-ta-nhin-minh-nhu-mot-dong-tu-khong-phai-mot-danh-tu

Trong phòng trị liệu, tôi đã thấy rằng việc nghĩ lại về ta là gì và về ý nghĩa của việc “chết” có thể làm nhẹ bớt những nỗi sợ của chúng ta.

Tôi luôn cố giữ cuộc trò chuyện ban đầu thật ngắn gọn. Nếu ai đó muốn làm việc cùng tôi, và tôi còn chỗ để tiếp nhận thêm một người trong phòng trị liệu của mình, tôi thường đề nghị chúng tôi kết nối qua điện thoại để có một cuộc thăm dò sơ bộ về mức độ phù hợp. Sau ngần ấy năm, tôi thường có thể nhận ra khá nhanh liệu sự kết nối này có ổn hay không. Phép lịch sự cơ bản và một chút háo hức là những dấu hiệu tốt. Có khiếu hài hước thì càng đáng quý. Tôi gần như luôn mở đầu cuộc gọi bằng chính câu hỏi mà giờ đây tôi hỏi John: “Làm thế nào tôi có thể giúp anh?”

“À, Eric,” John bắt đầu, giọng nhỏ nhẹ và hiền lành sau một quãng im lặng ngắn, “tôi 53 tuổi rồi, và tôi nghĩ là chưa từng nói điều này với ai. Nhưng tôi không nghĩ mình đã từng ngủ một mạch suốt đêm kể từ năm bảy tuổi, khi tôi biết từ cậu Phil rằng cái chết là có thật, và nó sẽ đến với tất cả chúng ta. Một phần nào đó trong tôi vẫn mãi là đứa trẻ bảy tuổi ấy. Tôi nghĩ đã đến lúc tôi quay mặt lại đối diện với điều này.” Chúng tôi hẹn nhau vào thứ Năm, lúc mười hai giờ trưa.

Vào một ngày khác, khi đứng trong bếp nhìn ra ngoài cửa sổ, qua làn mưa lất phất, tôi thấy một con quạ, đứng yên như sương giá trên hàng rào gỗ tuyết tùng phủ rêu. Một cảm giác rất lạ trỗi lên trong tôi, một cảm giác tôi loay hoay không sao hiểu được.

Chúng ta cảm nhận cùng lúc rất nhiều điều. Hiếm khi có một từ đơn lẻ nào diễn tả nổi những chuyển động cảm xúc chồng lớp của một khoảnh khắc, và khoảnh khắc này cũng vậy. Khi chú ý thật kỹ, tôi có thể phân tách được vài sắc thái: trong sự đầy đặn giản dị của giây phút ấy, có sự bình yên; trong vẻ đẹp của nó, có điều gì đó hơn cả sự ngợi khen nhưng lại chưa phải là niềm vui; trong khả năng nhận ra vẻ đẹp ấy, có sự tự mãn; trong việc nhận ra sự tự mãn của chính mình, lại có xấu hổ và thất vọng; trước sự thật trần trụi, không thể chối cãi về sự ngang hàng của tôi với con quạ, có khiêm nhường và cảm giác thuộc về; và trong khoảng cách không sao bắc cầu giữa chúng tôi, có cô đơn. Và rất rõ ràng, có nỗi buồn, có cả sự ganh tỵ. Buồn vì điều gì? Và tôi ganh tỵ với con quạ này ở điểm nào?

Tôi không thể gọi tên chính xác, và trong những ngày sau đó, lúc lái xe, lúc rửa bát, một cách ngẫu nhiên (vì mọi ý nghĩ đều đến như thế), tâm trí tôi cứ quay về khoảng cách giữa tôi và con quạ. Con quạ thuộc về một cõi, còn tôi thuộc về một cõi khác.

Tôi chỉ là một kẻ ghé qua, một người lạ trên miền đất lạ, một kẻ xen ngang tạm bợ.

Rồi trong một buổi trị liệu, một thân chủ kể về việc nghe tiếng chim loon vang vọng qua mặt hồ ở Vermont, âm thanh rờn rợn ấy, theo lời cô, kéo cô trở về không chỉ với tuổi thơ, mà “về tận khởi nguyên của vạn vật”.

Đó rồi: con quạ của tôi, tôi chợt thấy, dường như đã ở đây từ khởi đầu của mọi thứ, vẫn ở đây, và sẽ luôn ở đây. Nó không chỉ sống trong thế giới; nó là một phần của thế giới. Còn tôi chỉ là một vị khách, một người lạ nơi đất lạ, một kẻ xen vào tạm thời, đứng thoáng chốc giữa hai vô hạn của hư vô. Con quạ sẽ sống mãi, còn tôi sẽ chết, và tôi biết điều đó.

Nhưng ngay khi ý nghĩ ấy kết tinh, sự nhận ra tính phi lý của nó cũng lập tức theo sau. Sự so sánh này là sai lạc: con quạ duy nhất trên hàng rào kia, tôi nhìn thấy trước hết như một dòng “quạ-quạ” bất tận; còn bản thân mình, tôi lại nhìn như một cá thể tách rời, bị nguyên tử hoá, một “vật” mang tên “Eric”. Việc quạ sống và kêu là một hiện tượng tự nhiên, vĩnh cửu, mầu nhiệm; còn “Eric” là một thứ đã được sinh ra trong thế giới này và rồi, quá sớm, sẽ rời khỏi nó.

Vì sao tôi lại nhìn mình như một thực thể cố định, trong khi nhìn con quạ như một tiến trình tự nhiên đang mở ra? Điều gì ngăn tôi nhìn bản thân dưới cùng một ánh sáng ấy? Tôi đã trao cho con quạ quyền gì về sự vĩnh hằng mà lại từ chối trao cho chính mình?

Photo by HumanizerAV/Getty

Biết bao rắc rối tan biến khi tôi có thể nhìn mình như cách tôi nhìn con quạ.

Đúng mười hai giờ trưa thứ Năm, tôi mở cửa phòng chờ để chào đón John. (Câu chuyện của John được xây dựng lỏng lẻo từ một thân chủ có thật; một số chi tiết đã được thêm vào và thay đổi.) Ngay lập tức, tôi biết mình sẽ rất dễ dành cho ông sự mến thương và cảm thông. Ngay cả khi đang ngồi trên ghế, ông vẫn toát lên vẻ rắn rỏi: ở tuổi 53, thân người có lẽ dày dặn hơn thuở trước, nhưng rõ ràng vẫn mạnh mẽ và đầy sinh lực. Ông đứng bật dậy, nhanh và có phần bối rối, như thể tôi vừa bắt gặp ông đang làm điều gì đó, và tôi nhận ra ông cao hơn tôi vài phân, mái tóc xám dày, áo thun và quần jean, đôi mắt lớn hiền hậu mà phảng phất buồn.

Chúng tôi bắt tay nhau ấm áp. Tôi cảm nhận được bàn tay ông mạnh thế nào, và cũng cảm nhận rất rõ cách ông kiềm lại để không siết tay tôi quá mức. Điều đó gợi lên cả một đời sống trong đó ông luôn ý thức về sức mạnh tự nhiên của mình, cùng một trái tim tử tế.

“Chào mừng anh,” tôi nói. “Mời vào trong.”

Tôi cảm thấy một sự đồng điệu gần như tức thì với John, đến mức dường như không cần mấy lời xã giao hay những câu mở đầu nhẹ nhàng mà tôi thường dùng khi bắt đầu một mối quan hệ trị liệu mới. Tôi ra hiệu cho ông ngồi xuống ghế dài, rồi ngồi vào chỗ của mình, vẫn mỉm cười, và đi thẳng vào vấn đề.

Giống như tắt một ngọn đèn trong căn phòng mà không ai quay lại nữa.

“Vậy hãy kể cho tôi nghe về cái chết đi, John.”

Ông bật cười khẽ. “Chắc là mình lao thẳng vào luôn rồi hả?”

“Hay là ta nói chuyện về đội Yankees trước?” tôi đùa.

“Ha, chắc là không rồi,” ông nói, rồi nhìn ra ngoài cửa sổ chừng nửa phút. Tôi thấy ông nhanh chóng thả lỏng. “Đúng là cái lão Phil chết tiệt. Lúc nào ông ấy cũng nhét vào đầu tôi nhiều hơn khả năng tôi có thể nuốt nổi.”

Im lặng thêm một lần nữa. Tôi mời ông tiếp tục.

“Lúc đó tôi bảy tuổi,” ông bắt đầu, giọng thấp và chậm. “Tôi ghét đi ngủ. Chết tiệt, tới giờ vẫn ghét. Đó là tối thứ Bảy. Bố mẹ tôi và cậu Phil đang xem bộ The Love Boat. Mẹ tôi cố dụ tôi đi về phòng ngủ còn tôi thì mè nheo đủ kiểu. Rồi cậu Phil nói: ‘Có gì đâu nhóc, khả năng cao là sáng mai cháu sẽ thức dậy thôi.’ Tôi không hiểu. Nên tôi hỏi cậu ấy ý là sao. ‘Ý cậu là con chỉ lên giường ngủ thôi nhóc con, đâu phải xuống mồ. Thế nào sáng mai đèn cũng bật lại. Cậu sẽ làm bánh pancake cho con.’ Rồi cậu quay lại xem The Love Boat, như thể cậu vừa không đá toang một cái cửa sập mở ra cơn ác mộng trong đầu tôi vậy. Tôi nghĩ đêm đó mình không hề nhắm mắt. Làm sao tôi biết được là sáng mai đèn sẽ bật lại chứ? Và trời ơi, sau ngần ấy năm, có vợ, có con, có một cơ nghiệp thành công, mà vẫn có một phần trong tôi đang nằm trên chiếc giường đó, run sợ trước thứ đang đợi mình.”

“Có gì đang chờ anh, John?” tôi hỏi. “Cái chết trông như thế nào?”

John lại nhìn ra ngoài cửa sổ. “Giống như tắt một ngọn đèn trong căn phòng mà chẳng ai bước vào nữa.”

Tôi đang ở dưới tầng hầm nhà mình, lục tìm viên pin D mà tôi biết chắc là mình có đâu đó. Cảm giác này là gì khi tôi bất chợt bắt gặp một cuộn băng cassette từng được nâng niu? Nếu bạn ở một độ tuổi nhất định, hẳn bạn hiểu cảm giác ấy quá rõ. Không còn cách nào để phát lại món đồ kỷ niệm này, và hơn thế nữa, cũng không còn cách nào để trở lại làm chính con người mình đã từng là, khi nó từng có ý nghĩa nhất đời.

Trên nhãn băng ghi: A Case of Mistaken Identity – Alan Watts. Một bài giảng ông từng nói, tôi nghĩ vậy, từ ngôi nhà nổi của ông ở Sausalito, vào những năm 1960. Tôi nhớ mình đã lạc lối đến mức nào, bối rối rã rời ra sao, khi cuộn băng ấy bước vào đời tôi, một món quà từ cha của một cô bạn gái, nét chữ của ông trên nhãn băng vừa quen thuộc đến kỳ lạ, vừa xa xôi đến nao lòng.

Tôi không cần máy phát băng để một câu nói lập tức vọng về trong ký ức, bằng giọng khàn khàn, láu lỉnh quen thuộc của Watts: “Chúng ta không phải là những vật thể hành xử, mà là những tiến trình đang tiếp diễn.”

Nếu tôi không phải là một cái tôi cố định, có thể nắm bắt và gọi tên, thì tôi đã không thất bại trong việc trở thành nó.

Ôi, cảm giác nhẹ nhõm đến nhường nào! Lần đầu tiên nghe câu ấy, khi tôi đang lái chiếc Subaru của mình, phía tây thị trấn Tucumcari, không hướng đến đâu cụ thể, nó khớp vào tôi dễ chịu và trọn vẹn như một mảnh ghép. Một sự giải thoát tuyệt đẹp cho chàng trai trẻ đang rối bời ấy, người không chỉ đau đớn vì chẳng biết cách vận hành trong cỗ máy xã hội, mà còn, hơn thế, mang nỗi xấu hổ tột cùng vì không “trở thành ai” cả. Mô-típ này nghe quen thuộc nhưng rất đúng: một chàng trai nhiều suy tư, đã bước xuống chuyến xe mang tên “phát triển sự nghiệp”, rồi lang thang khắp thế gian để tìm chính mình, như thể cái tôi là một món đồ có thể nhặt được dưới tảng đá nào đó, ở một nơi xa nhà. Tôi là ai? Tôi là thứ gì? Chết tiệt thật, tôi chẳng hề biết.

Cách diễn đạt của Watts cho tôi một điều cấp tiến ngay trong sự giản dị của nó: khả năng rằng tôi вовсе không phải là một “thực thể” rắn chắc, tách biệt, mà là một sự mở ra, một chuyển động. Một diễn tiến đang xảy ra. Khi ấy tôi chưa nhận ra, nhưng ý niệm này vọng lại cả một dòng tư tưởng kéo dài, từ Heraclitus (“Không ai tắm hai lần trên cùng một dòng sông”), giáo lý vô ngã (anatta) của Phật giáo nguyên thủy, cho đến các nhà tư tưởng về tiến trình như Alfred North Whitehead (“Không có tự nhiên tại một khoảnh khắc đứng yên”) và William James, người trong The Principles of Psychology (1890) đã mô tả các sinh thể sống không phải như những bản chất cố định, mà như “những bó thói quen”.

Những hệ quả mà điều ấy mang lại cho tôi thật sự vô giá. Nếu tôi không phải là một cái tôi cố định, có thể gọi tên và nắm bắt, thì tôi cũng chẳng hề thất bại trong việc trở thành nó. Và nếu tôi là một sự kiện đang chuyển động – như làn gió, ngọn lửa hay con sóng – thì tôi đâu cần phải “tìm” mình ở đâu cả. Tôi có thể bắt đầu hình dung con người mình không phải như một vật thể, mà như một sự cuộn xoáy sống động của thân xác và hơi thở, ký ức và tâm trạng, của những dòng tư tưởng và tri giác không ngừng biến dịch, tất cả đan cài cùng phần còn lại của thế giới trong một hoa văn không bao giờ lặp lại lần thứ hai.

Cha, chồng, nhà tâm lý học: đó là những vai trò tôi hiện diện trong đó, và tôi cố gắng hiện diện một cách trọn vẹn, bởi như những phẩm tính nảy sinh từ đời sống đang diễn ra của tôi, chúng vẫn ở đó, chờ tôi mỗi ngày. Nhưng rốt cuộc, tôi là ai? Có lẽ, tôi là một tiến trình, đang tạm thời tiếp tục trôi đi.

Thật kỳ lạ khi chúng ta im lặng quanh cái chết đến vậy. Không phải theo nghĩa bề mặt – cáo phó, nghi lễ, thiệp chia buồn, mà là sự im lặng sâu hơn, thứ có thể gắn kết trải nghiệm của chúng ta lại: một ngôn ngữ chung luôn sẵn, dễ trao đi; một lối nhìn được chia sẻ, có thể giúp ta nhìn cái chết như một điều bình thường và tự nhiên. Ta hoặc huyền thoại hóa nó, hoặc bám víu vào sự phủ nhận tập thể được nuôi dưỡng bởi xao lãng, và với những cái tôi lớn hơn, là khái niệm về “di sản”. Phần nhiều, chủ đề này chỉ được bao phủ bởi im lặng; và khi im lặng bị phá vỡ, trong thiếu vắng một nền tảng tinh thần hay trí tuệ chung, thứ bật ra thường là nỗi sợ hoặc sự hoang mang.

Trong sự tĩnh lặng của phòng trị liệu, điều đó hiện lên bằng những cách rất nhỏ nhưng cấp bách. Một thân chủ sẽ ngập ngừng, hạ thấp giọng, rồi thú nhận, không chỉ là nỗi đau mất đi điều mình yêu quý, mà còn là một thứ kinh hoàng hiện sinh. Không phải về cái chết của người khác, mà về sự tan biến của chính họ vào khoảng không, toàn diện đến mức trí tưởng tượng cũng bị đoản mạch.

Đó chính là tâm điểm nỗi đau của John. Điều từng ám ảnh ông khi còn là một đứa trẻ tiếp tục ám ảnh ông khi đã trưởng thành, như nó vẫn ám ảnh rất nhiều người trong chúng ta: cảm giác ở một mình, mãi mãi, trong căn phòng không ánh sáng ấy. Với nhiều người, như John, ẩn dụ này hiện lên rất cụ thể; với nhiều người khác, đó là một ý niệm không thành lời, dai dẳng, gặm nhấm, một nỗi bất an sâu xa về một dạng trạng thái không-tồn-tại nào đó.

Tôi thường hỏi một thân chủ rằng họ sinh năm bao nhiêu. “1949,” họ sẽ nói. “Thế còn 1948?” tôi hỏi tiếp. “Năm đó thế nào?” Thường câu hỏi này sẽ mang lại một tiếng cười khẽ, và có khi là một cảm giác nhẹ nhõm thoáng qua. Nhưng với John, nó lại không hoàn toàn chạm tới.

Chúng ta không hề băn khoăn tự hỏi tia sét của ngày hôm qua đã đi đâu.

“Bây giờ thì khác rồi,” ông nói. “Bây giờ tôi biết là tôi tồn tại.”

Và thế là chúng tôi đi sâu hơn, không phải trực diện tìm sự an ủi, mà đi về phía sự sáng tỏ. Chính xác thì điều gì John tin rằng sẽ mất đi? “Thứ” mà ông gọi là chính mình ấy là gì, cái thực thể mà rồi một ngày nào đó sẽ “chết”?

Từng mảnh, từng mảnh một, “thứ” mà ông từng nghĩ mình là bắt đầu tan ra. Không tan vào hư vô, mà tan vào chuyển động. Thứ hiện lên thay thế là một dòng các tiến trình: ký ức, vai trò, cử chỉ, cách ông luôn kìm mình lại để không bóp chặt bàn tay người khác khi bắt tay. Một đời sống không phải là một vật thể, mà là một sự mở ra liên tục.

Khi công việc trị liệu tiếp tục, nỗi sợ của ông không biến mất. Nhưng hình dạng của nỗi sợ bắt đầu đổi khác, và cuối cùng trở nên nhẹ hơn. “Tôi vẫn sợ,” ông nói với tôi, “nhưng trước đây tôi nghĩ mình sẽ biến mất như một pho tượng bị xô khỏi vách đá. Giờ thì cảm giác giống như tôi sẽ chỉ ngừng xảy ra thôi. Như một làn gió.”

Ngôn ngữ về cái chết có thể vô cùng gây rối. “Bà đã chết,” ta nói vậy. Nhưng thực ra, không hẳn. Ngay lúc này, đơn giản chỉ là không còn nữa. Câu nói tự sụp đổ.

Chúng ta mô tả con người, và vì thế, nghĩ về con người, như những danh từ. “Bà” là một loại vật. Có bà ngồi trên ghế, rồi bà chết. Bà đi đâu? Tiền giả định về sự tồn tại liên tục của vật thể buộc chúng ta phải đặt bà ở một nơi nào đó: thiên đường, địa ngục, hay khoảng không.

Nhưng bà chưa bao giờ là một vật. Suốt cả quãng đời, bà là một động từ. Một sự hòa điệu kỳ diệu của các tiến trình, ăn uống, cười nói, chú ý, quên lãng, mà đến một ngày thì ngừng xảy ra. Chúng ta đâu có bận tâm tự hỏi tia sét của ngày hôm qua đã đi đâu.

Nhiều người trong chúng ta lầm tưởng cái chết là đối lập với sự sống: sống là một trạng thái, vậy chết hẳn cũng phải là một trạng thái. Nhưng cái chết không phải là đối nghịch của sự sống. Nó вовсе không phải là một trạng thái. Nó chỉ tồn tại như một điều ta tưởng tượng, như một khái niệm – tức là nó chỉ tồn tại bên trong sự sống. Nó không phải là một trải nghiệm ta có, mà là một danh từ do ta đặt ra để mô tả việc một động từ chấm dứt.

John đến với tôi vì sợ rằng mình rồi sẽ “chết”. Pho tượng bị xô khỏi vách đá vẫn tồn tại đâu đó, trong một trạng thái nào đó, dưới kia. Nhưng dần dần, ông bắt đầu nhìn ra rằng điều ông sợ đến thế thực chất là một trải nghiệm. Và rằng cái chết, sau cùng, thì không phải.

Và khi động từ mang tên sống kết thúc, khi làn gió lắng xuống, thì năm 1948 đã như thế nào?

Liều xoa dịu hiện sinh khi ta nhìn mình như một động từ, không phải một danh từ.

Tác giả: Eric Jannazzo là một nhà tâm lý học lâm sàng đã được cấp phép, hiện làm việc trong phòng khám tư tại Seattle, Hoa Kỳ. Ông viết một bản tin Substack xoay quanh cái chết, bản ngã, ý nghĩa cuộc sống, và cái nhiệm vụ kỳ lạ mang tên làm người.

Biên tập: Matt Huston

Nguồn: The existential balm of seeing yourself as a verb, not a noun | Tạp chí Psyche.co

menu
menu