Những niềm vui bé nhỏ trong cuộc sống có thể mang đến những khoảnh khắc ngất ngây

nhung-niem-vui-be-nho-trong-cuoc-song-co-the-mang-den-nhung-khoanh-khac-ngat-ngay

Ngất ngây là một niềm hoan lạc vừa hướng ta đến thế giới bên ngoài, vừa đưa ta trở về với chính mình, mở ra một cảm giác tự do thuần khiết.

Một ngày tuần trước, tôi thức dậy sau một giấc ngủ sâu. Cả ngày hôm ấy hoàn toàn tự do, khiến tôi có cảm giác thời gian giãn nở vô tận trước mặt. Ngoài trời rét buốt, nhưng ánh nắng mùa đông lại rực rỡ, tràn qua khung cửa sổ khi tôi kéo rèm lên. Không rõ vì lý do gì, hoặc có lẽ chẳng vì lý do gì cả, tôi bỗng có một thôi thúc mãnh liệt muốn nghe nhạc. Thế là sau khi pha một tách cà phê, tôi bật bản Ngũ tấu Piano giọng Mi giáng trưởng, Op. 44 của Schumann. Rồi, muốn tìm một giai điệu dịu dàng hơn, tôi chuyển sang khúc Prélude à l’après-midi d’un faune của Debussy, và từ đó lại quay về với bài thơ đã truyền cảm hứng cho bản nhạc này – ‘L’après-midi d’un faune’ (1876) của Mallarmé.

Thơ của Mallarmé, như phần lớn những sáng tác khác của ông, tràn ngập nhạc điệu, cảm giác, dư vị của ngôn ngữ Pháp. Nó khơi gợi một thứ khoái cảm rất đỗi tinh tế – cũng chính là chủ đề cốt lõi của bài thơ. Suốt buổi sáng hôm ấy, tôi chìm đắm trong từng câu chữ, để chúng từ từ thấm vào tôi theo cách riêng của chúng. Tôi thực sự có cảm giác ấy – như thể từng con chữ đang ngấm vào da thịt mình.

Photo by Jonas Bendiksen/Magnum

Những giờ phút đó, tôi gọi là những khoảnh khắc ngất ngây. Chúng xoay quanh những tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời, nhưng tôi không cho rằng chỉ có nghệ thuật mới có thể mang đến sự ngất ngây. Có muôn vàn cách để ta chạm đến trạng thái ấy, và phần lớn lại nằm trong những điều nhỏ bé của đời sống – như chính ánh nắng mùa đông huy hoàng buổi sáng hôm ấy, cũng là một phần không nhỏ của cảm xúc tôi lúc đó.

Hẳn có nhiều cách để lý giải cảm giác ngất ngây, như bất kỳ trải nghiệm phức tạp nào của con người. Nhưng với tôi, ít nhất như một khởi điểm để suy ngẫm, ngất ngây là một dạng khoái cảm đặc biệt, vừa đưa ta hoàn toàn hòa vào thế giới bên ngoài, vừa nâng ta lên một trạng thái ý thức sâu sắc hơn về chính mình. Và khi ấy, ta chạm đến một sự giải phóng, một cảm giác tự do.

Minh họa rõ ràng nhất cho điều này có lẽ là sự buông bỏ hoàn toàn trong tình yêu thể xác – niềm hoan lạc sâu sắc nhất của con người. Trong những khoảnh khắc ân ái, ta chìm đắm trong người kia, để mặc mình trôi theo niềm vui sướng khi được gần gũi họ; nhưng đồng thời, ta cũng nhận thức rất rõ về chính mình – về bản thân đang trải nghiệm niềm vui đó.

John Berger, trong tiểu thuyết tuyệt vời G. (1972), đã diễn tả điều này thật đẹp khi viết về khoảnh khắc nhân vật G. bên Beatrice:
"Sự khác biệt của nàng tựa như một tấm gương. Bất cứ điều gì chàng nhận ra hay chăm chú vào ở nàng, đều làm tăng thêm ý thức về bản thân chàng, mà không hề làm chệch hướng sự chú ý của chàng khỏi nàng."

Trong những khoảnh khắc như thế, ta được giải thoát khỏi những gánh nặng của bản thân – những lo âu, tổn thương, những nỗi băn khoăn, những ngớ ngẩn mà ta thường mang theo bên mình.

Có lẽ chính sự kết hợp kỳ diệu giữa việc chú tâm vào người khác mà cũng là chú tâm vào chính mình đã giúp ta lý giải được sự chìm đắm mãnh liệt trong tình yêu thể xác. Bởi vậy, Berger mới viết: "Bài thơ duy nhất có thể viết về ái ân chính là – ở đây, ở đây, ở đây, ở đây – ngay lúc này."

Cảm giác ngây ngất mà tôi trải qua sáng hôm ấy, khi đắm mình trong âm nhạc và ngôn từ của Mallarmé, dù có vẻ rất xa so với trải nghiệm nhục cảm – và trên nhiều phương diện, dĩ nhiên là như thế – nhưng kỳ thực, nó cũng mang cùng một bản chất: sự toàn tâm hướng về đối tượng, khi tôi tan vào những thanh âm và câu chữ, để rồi đồng thời ý thức sâu sắc về chính mình, về niềm vui sướng thuần khiết khi được lắng nghe, được cảm nhận. Và như tôi đã nói, điều cốt lõi trong những khoảnh khắc ngây ngất này chính là cảm giác được giải phóng: đó là những giây phút ta thoát ra khỏi những lo âu thường nhật, khỏi những tổn thương và bất an, khỏi những dại khờ vụn vặt – thứ dại khờ muôn thuở của kiếp người.

Ta cũng thoát khỏi thứ mà Virginia Woolf gọi là lớp "bông gòn" của cuộc sống – những việc vặt vãnh lấp đầy đời ta. Những khoảnh khắc ngây ngất chính là những “khoảnh khắc hiện hữu” mà Woolf từng nhắc đến, những khoảnh khắc rực sáng giữa dòng chảy phẳng lặng của đời thường, mở ra cho ta một sự viên mãn lạ lùng.

Woolf nói đúng. Phần lớn cuộc sống – ít nhất là với những ai may mắn sống ở những vùng đất có sự ổn định chính trị và xã hội, một điều hiếm hoi trong lịch sử loài người – bị chiếm trọn bởi những điều như thế này:
“Một người bước đi, ăn uống, nhìn ngắm, làm những việc cần làm; sửa chiếc máy hút bụi bị hỏng; đặt bữa tối; gửi đơn hàng cho Mabel; giặt giũ; nấu ăn; đóng sách.”

Những công việc ấy, nếu may mắn, ta có thể tạm quên đi; nếu không, chúng vắt kiệt ta, nghiền nát ta. Thật trớ trêu khi xã hội hiện đại, theo cách gọi của Theodor Adorno, một “xã hội bị quản trị”, lại khiến đời sống ta mất dần ý nghĩa, như thể nó chẳng còn một điểm đến hay một kết luận nào cả. Đây chính là vấn đề của con người hiện đại: một cái tôi mất đi sự thiêng liêng, bị giản lược vào những khái niệm thuần túy tự nhiên – ít nhất là với những ai không còn tin vào những hứa hẹn của tôn giáo xưa cũ.

Có lẽ vì thế mà xã hội phương Tây ngập chìm trong những cơn nghiện vô tận – từ ma túy, phim khiêu dâm, đến internet, điện thoại thông minh hay truyền hình thực tế, nơi ta nhìn vào đó và thấy phản chiếu sự tẻ nhạt của chính mình. Ta lao vào những cuộc tìm kiếm vô vọng, khao khát một cơn ngây ngất để thoát khỏi sự vô vị của đời sống. Nhưng ta cũng biết, những lối thoát này chỉ là những phiên bản suy đồi của thứ ta thực sự mong muốn, để rồi sau cùng, chúng chỉ để lại trong ta một nỗi trống rỗng sâu hơn trước.

Ngay cả trước cảnh tượng khủng khiếp của sự tuyệt chủng hàng loạt, trước hiện thực không thể chối cãi của biến đổi khí hậu, ta vẫn chẳng mảy may xúc động. Như triết gia Michael McGhee đã viết trong Spirituality for the Godless(2021):
"Không phải ngẫu nhiên mà hình ảnh một ngôi nhà đang cháy lại trở thành biểu tượng của khủng hoảng khí hậu. Và tất cả chúng ta đều đang ở bên trong: phần lớn những người ở thế giới phương Tây vẫn mải mê, bị ru ngủ, bị kiểm soát, đắm chìm trong những trò tiêu khiển của mình."

Như McGhee nói, nếu có bất kỳ sự thay đổi nào, thì nó phải bắt đầu từ bên trong, bởi, như ông viết: "Không có ai ở ngoài kia với những lựa chọn hấp dẫn hơn." Ở điểm này, ông đứng cùng những tâm hồn cao quý nhất của thời hiện đại – những người nổi dậy chống lại tình trạng vô định của thế giới hôm nay, và mang đến cho ta niềm hy vọng về những khoảnh khắc ngây ngất không bị băng hoại.

Một trong những con người ấy chắc chắn là Virginia Woolf, người đã có một cái nhìn huyền nhiệm về sự hòa hợp của vạn vật đằng sau những lớp vỏ bề ngoài, được thể hiện trong nhiều tiểu thuyết của bà – đặc biệt là The Waves (1931). Từ đó, có lẽ ta có thể học cách nhìn thế giới bằng một đôi mắt tươi mới.

Petit lại cho ta thấy một góc nhìn khác: sự ngây ngất có thể song hành với hiểm nguy. Và ông biến hiểm nguy ấy thành niềm hân hoan và hoan lạc của chính mình.

Tôi nghĩ đến Philippe Petit – người đi dây, nghệ sĩ tung hứng, kẻ móc túi, ảo thuật gia, người đi xe một bánh, thợ mộc, kỵ sĩ và nhà văn – nổi tiếng nhất với màn đi dây giữa hai tòa tháp đôi của Trung tâm Thương mại Thế giới vào ngày 7 tháng 8 năm 1974. Trong bộ phim tài liệu Man on Wire (2008), khi được phỏng vấn, ông nói:

“Với tôi, mọi chuyện thật đơn giản: cuộc sống phải được sống ở ranh giới của nó. Bạn phải tập nổi loạn. Phải từ chối trói mình vào những quy tắc. Phải từ chối thành công của chính mình. Phải từ chối lặp lại bản thân. Phải nhìn mỗi ngày, mỗi năm, mỗi ý tưởng như một thách thức thực sự. Và như thế, bạn sẽ sống đời mình trên một sợi dây căng.”

Petit cho ta thấy sự ngây ngất có thể gắn liền với hiểm nguy – trong trường hợp của ông, là một hiểm nguy tột bậc. Nhưng điều quan trọng không phải là chúng ta cũng nên làm như ông – dù có thể. Sự ngây ngất không nhất thiết phải dữ dội hay mạo hiểm, mà có thể tĩnh lặng, trầm tư, như chính trải nghiệm của tôi sáng hôm ấy. Không phải là bắt chước Petit, mà là tìm thấy trong chính cuộc đời mình một chút tinh thần ngây ngất mà ông đã sống trọn vẹn, tạo không gian cho những khoảnh khắc thăng hoa, và có lẽ, tự xoay chuyển chính mình một chút từ bên trong để sống gần hơn với tinh thần ấy.

Vậy nên, có lẽ sự giúp đỡ từ bên ngoài vẫn tồn tại. Dù sao đi nữa, tôi luôn nghĩ về Petit theo cách này: ông đánh thức trong ta một điều gì đó tốt đẹp hơn, một sự rộng mở trước những khoảnh khắc thăng hoa của cuộc sống. Ở điều này, ông đồng điệu với nhiều tâm hồn khác – Woolf, Nietzsche, Camus, D. H. Lawrence, George Orwell… “Ta nên nhảy múa trong ngây ngất vì ta đang được sống, đang có một thân xác, đang là một phần của vũ trụ hữu hình và sinh động,” Lawrence viết trong Apocalypse (1931). Cùng một tinh thần ấy, Orwell, khi viết về Shakespeare vào năm 1947, đã nói:

“Shakespeare không phải là một triết gia hay một nhà khoa học, nhưng ông có lòng hiếu kỳ, ông yêu bề mặt của trái đất và quá trình của sự sống – mà điều đó… không giống với việc chỉ muốn vui vẻ và sống càng lâu càng tốt.”

Orwell là một con người rất khác với Lawrence, nhưng cả hai đều chia sẻ tình yêu với “bề mặt của trái đất và quá trình của sự sống”. Dù ở những sắc thái khác nhau, họ đều mang đến cho ta một nhận thức về sự ngây ngất đơn thuần khi được tồn tại, chỉ cần ta biết mở lòng đón nhận.

Có một sự rộng mở với sức sống và năng lượng của đời sống trong những con người này, và chắc chắn trong nhiều người khác nữa. Đó là một sự rộng mở đầy thăng hoa. Không phải vì họ luôn chìm đắm trong trạng thái ngây ngất – điều đó hẳn sẽ là một suy nghĩ ngây thơ, bởi đời họ không hề như vậy. Dù sao đi nữa, để mãi sống trong trạng thái ấy, ngay cả khi có thể, cũng sẽ vô cùng kiệt sức. Cuộc sống cần có sự đa dạng. Điều quan trọng là họ đã sống với tinh thần ngây ngất, để toàn bộ cuộc đời được nhuộm màu bởi ý niệm ấy.

Dù thế nào, sẽ là sai lầm nếu ta nhìn vào những tư tưởng ấy và cố gắng đuổi theo những khoảnh khắc thăng hoa. Cũng như việc mải mê kiếm tìm hạnh phúc chỉ khiến nó càng xa khỏi tầm tay, sự ngây ngất cũng vậy. Điều quan trọng là ta biết rộng mở trước những khả thể. Và điều này, không nghi ngờ gì, phần lớn là một vấn đề của cảm thức, của cách ta trui rèn sự nhạy cảm với cuộc đời.

Nietzsche, người tự ví mình như thuốc nổ, người mà cái tên thường gắn với hình ảnh “triết lý bằng chiếc búa”, thực ra lại dành rất nhiều suy tư cho những điều nhỏ bé – những khoảnh khắc thường nhật có thể biến đời ta thành một niềm vui, hoặc một vực sâu. Ông khuyên rằng ta nên bắt đầu mỗi ngày bằng câu hỏi: mình có thể làm gì để khiến hôm nay trở nên dễ chịu hơn? Và ông cho rằng điều đó phần lớn phụ thuộc vào cách ta tiếp cận và sắp xếp những điều nhỏ nhặt trong cuộc sống – ăn gì, uống gì, khi nào nghỉ ngơi, đọc gì, khi nào đi dạo… Ông đang nhắc nhở ta hãy chậm lại, hãy để ý, hãy quan sát.

Ông hoàn toàn đúng. Phần lớn chúng ta đều vội vã lướt qua đời mình, bỏ lỡ những khoảnh khắc dịu dàng mà sự chú tâm có thể mang lại. Con người, nói chung, rất kém trong việc nhận ra điều gì thực sự tốt cho mình và càng kém hơn trong việc sống theo điều đó. Tôi cũng chẳng giỏi giang hơn ai trong việc ấy. Nhưng tôi vẫn nghe thấy giọng nói của Nietzsche, của những người tôi đã nhắc đến – và của nhiều người khác nữa, như Montaigne chẳng hạn – luôn nhẹ nhàng kéo tôi trở lại với những suy nghĩ và cảm xúc tốt đẹp hơn. Họ nhắc ta nhớ về những nguồn vui trong cuộc đời – về những khả thể thăng hoa vẫn luôn hiện hữu. 

Nguồn: The small pleasures in life can produce moments of rapture | Psyche.co

menu
menu