5 cách chúng ta âm thầm khiến mình kém thông minh hơn mỗi ngày

5-cach-chung-ta-am-tham-khien-minh-kem-thong-minh-hon-moi-ngay

Những thói quen thường nhật lặng lẽ làm cùn não bộ và cách để dừng lại.

NHỮNG ĐIỂM CHÍNH

  • Tư duy cố định kìm hãm sự phát triển của não bộ; hãy nuôi dưỡng tư duy tăng trưởng.
  • Thiếu ngủ làm suy giảm rõ rệt thời gian phản xạ và khả năng ra quyết định.
  • Ngay cả việc sử dụng rượu ở mức độ vừa phải cũng có thể để lại những tổn hại lâu dài cho cấu trúc não.
  • Môi trường xã hội và tinh thần định hình “mặt bằng” năng lực nhận thức của chúng ta.

Khi nói đến tâm lý học, chúng ta thường chính là kẻ thù tệ nhất của mình, và điều đó càng đúng hơn khi xét đến chỉ số IQ hiệu quả của ta. Khái niệm này không mấy bận tâm đến những con số trừu tượng, mà tập trung hoàn toàn vào việc: chúng ta thật sự sử dụng bộ não của mình được bao nhiêu.

Đó là một sự hòa trộn thực tiễn giữa hiệu suất nhận thức, chức năng điều hành, trí thông minh linh hoạt và khả năng đem trí tuệ ấy áp dụng vào đời sống thực, gợi nhớ đến điều mà Sternberg từng gọi là “trí thông minh thành công”. Khi ta nhìn thẳng vào những lựa chọn hằng ngày, những lựa chọn có thể mài sắc hoặc làm cùn tư duy, ta mới thấy rõ rằng phần lớn kết quả nằm ngay trong tay mình.

Tự phá hoại bản thân vốn không phải chuyện mới. Và hành trình dẫn mình đến những thói quen thông minh hơn luôn bắt đầu bằng việc gọi tên những điều đang kéo ta lùi lại. Ở nghĩa đó, tự nhận thức chính là liều thuốc giải tốt nhất. Vì vậy, ở đây, chúng ta sẽ cùng nhau dạo một vòng qua “phòng trưng bày” những sai lầm tinh thần quen thuộc, bắt đầu với năm “kẻ tái phạm” phổ biến nhất, những điều đang ngăn ta trở thành phiên bản tốt nhất của chính mình.

Image: Lyubov Levitskaya/Shutterstock 

5 sai lầm tinh thần lớn mà quá nhiều người trong chúng ta mắc phải

1. Chúng ta không xem não bộ như một cơ bắp cần được rèn luyện

Thói quen làm suy giảm năng lực nhiều nhất, vượt xa mọi thói quen khác, chính là việc đối xử với não bộ như một thứ cố định, bất biến. Trong tâm lý học, điều này được gọi là thuyết thực thể về trí thông minh, niềm tin rằng năng lực là bẩm sinh và không thể thay đổi.

Ngược lại, một cách nhìn hiệu quả hơn, còn gọi là tư duy tăng trưởng, xem trí thông minh như thứ có thể được xây dựng thông qua nỗ lực và chiến lược. Một minh chứng ấn tượng cho điều này đến từ nghiên cứu của Blackwell và cộng sự: họ dạy cho học sinh trung học rằng trí thông minh có thể phát triển như một cơ bắp. Suốt năm học đó, điểm toán của những em này tăng dần đều, trong khi những bạn giữ tư duy cố định thì gần như đứng yên.

Vẫn là những bộ não ấy, vẫn là cùng một chương trình học. Khác biệt duy nhất nằm ở cách những bộ não đó “nói chuyện” với chính mình về tiềm năng của bản thân. Thật đáng kinh ngạc khi kịch bản nội tâm mà ta lặp đi lặp lại có thể thay đổi hẳn quỹ đạo thành tích của ta trong đời thực.

Càng buồn hơn khi rất nhiều người trong chúng ta vẫn hành xử như thể trần năng lực của mình đã đóng kín, dù cánh cửa cải thiện đang mở toang trước mắt, mà ta thì hoàn toàn không nhận ra.

2. Chúng ta tước đi giấc ngủ mà não bộ cần

Hàng chục năm nghiên cứu đã chỉ ra rằng giấc ngủ không chỉ là khoảng nghỉ đơn thuần hay trò đếm cừu mỗi đêm. Nó mang một giá trị tiến hóa sâu xa, xuất hiện ngay cả ở những dạng sống đơn giản nhất, như loài sứa lộn ngược (Cassiopea), sinh vật vẫn ngủ dù không hề có não.

Với con người, giấc ngủ là lúc não bộ ôn luyện, sửa chữa và tái kết nối những gì đã học trong ngày. Khi bỏ qua giấc ngủ, hiệu suất của ta suy giảm một cách rõ rệt: chức năng điều hành trở nên ì ạch, khả năng ra quyết định chao đảo.

Trong một nghiên cứu EEG, Zing và cộng sự phát hiện rằng chỉ 24 giờ thiếu ngủ đã làm tăng đáng kể độ trễ và thời gian phản xạ, một dấu hiệu rõ ràng của sự “ma sát” nhận thức. Những nghiên cứu khác cho thấy, ngay cả việc cắt giảm giấc ngủ ở mức vừa phải mỗi đêm cũng làm suy yếu sự chú ý, trí nhớ làm việc, tâm trạng và khả năng phán đoán.

Vì thế, không có gì lạ khi giấc ngủ đóng vai trò thiết yếu đối với sự khỏe mạnh của vô số loài. Não bộ chúng ta được lập trình theo nhịp điệu của một chiếc đồng hồ sinh học bên trong, và cuộc sống của ta hẳn sẽ nhẹ nhàng, sáng suốt hơn rất nhiều nếu ta biết sống thuận theo nhịp điệu ấy.

3. Chúng ta uống rượu

Rượu có lẽ là hình thức tự phá hoại bản thân dễ thấy nhất. Bất kỳ ai từng uống quá một ly vang đều cảm nhận được cách tư duy thay đổi dưới tác động của cồn, nhưng những tổn hại mà nó gây ra có thể sâu xa hơn rất nhiều so với ta tưởng.

Những phát hiện gần đây của Justo và cộng sự cho thấy: việc tiêu thụ từ tám ly đồ uống có cồn trở lên mỗi tuần có liên quan đến những dấu hiệu rõ ràng của tổn thương não. Trong một nghiên cứu quy mô lớn dựa trên khám nghiệm tử thi của 1.781 người, những người uống rượu nhiều có nguy cơ xuất hiện các tổn thương mạch máu não, như xơ cứng tiểu động mạch hyaline, cao hơn 133% so với người không uống. Ngay cả những người từng uống nhiều trong quá khứ cũng có nguy cơ cao hơn 89% so với người không uống rượu.

Các đám rối protein tau, dấu ấn đặc trưng của bệnh Alzheimer, xuất hiện nhiều hơn 41% ở người uống rượu nặng, và nhiều hơn 31% ở những người từng uống nặng. Tất cả những điều này cho thấy: ngay cả việc uống rượu ở mức độ tưởng chừng “vừa phải” cũng có thể âm thầm bào mòn lợi thế nhận thức của bạn về lâu dài.

Nếu bạn thật sự trân trọng sự minh mẫn của tâm trí và tuổi thọ tinh thần, thì việc giảm bớt, hoặc chí ít là cân nhắc kỹ xem mình đang đánh đổi điều gì để lấy cảm giác lâng lâng, có thể là một trong những lựa chọn khôn ngoan nhất bạn từng đưa ra.

4. Chúng ta không trao cho não bộ một cấu trúc rõ ràng

Não bộ của chúng ta phát triển mạnh mẽ khi có cấu trúc, mục đích và thời hạn. Khi thiếu vắng những điều đó, ta dễ trôi dạt trong trạng thái mơ hồ, đánh mất sự tập trung và vô tình dập tắt chính những tia sáng sáng tạo mà ta mong muốn khơi lên.

Một nghiên cứu năm 2021 của Rinaldi và cộng sự cho thấy: những sinh viên đại học báo cáo mức độ trì hoãn cao hơn cũng thể hiện sự suy giảm có thể đo lường được trong chức năng điều hành, điều này được xác nhận bằng các bài kiểm tra thần kinh–tâm lý học chuẩn mực. Phát hiện ấy như một cú chạm mạnh vào tất cả những ai từng khổ sở vì thói trì hoãn, đồng thời gợi mở rằng: ngay cả những bộ óc xuất sắc nhất cũng cần một cấu trúc kỷ luật để vận hành ở công suất tối đa.

Những trang giấy trắng có thể truyền cảm hứng, nhưng để thực sự làm được việc, ta cần động lượng và những mốc thời gian rõ ràng. Hãy để lại những “đường mở” để ngày mai còn tiếp nối, xây dựng sự liền mạch để não bộ thức dậy khi đã ở giữa hành trình, thay vì đứng lặng, nhìn chằm chằm vào khoảng trống vô định.

5.Chúng ta đặt bộ não của mình vào môi trường không lành mạnh.

Cuối cùng, có những lúc, chính ta lại bỏ mặc bộ não của mình ở bên cạnh những “người bạn” tệ hại nhất có thể.

Đó giống như để kẹo ngay trên bàn khi bạn đang ăn kiêng: bạn có thể chống cự một lúc, nhưng sớm muộn hàng rào cũng sụp đổ. Với tâm trí cũng vậy. Đặt nó trong dòng chảy liên tục của thông tin độc hại, buôn chuyện, phẫn nộ và xao nhãng lặt vặt, rồi nó sẽ thích nghi theo chiều đi xuống.

Bối cảnh có ảnh hưởng rất lớn đến cách não bộ vận hành. Các nghiên cứu tâm lý học phát triển cho thấy ngay cả cảm xúc cũng có thể “lây lan” trong mạng lưới xã hội. Trong một phân tích theo thời gian, tâm trạng của thanh thiếu niên dần trở nên giống với nhóm bạn xung quanh, và đặc biệt, cảm xúc tiêu cực là thứ lan nhanh nhất (Eyre, House, Hill & Griffiths, 2017). Nói cách khác, “mặt bằng tinh thần” của bạn lặng lẽ dịch chuyển để phù hợp với chế độ cảm xúc mà bạn hấp thụ mỗi ngày.

Điểm chung của những thói quen hại não này là gì?

Nhìn từ xa, ta sẽ thấy cả năm cái bẫy ấy đều chung một gốc rễ: chúng lớn lên trong sự thiếu vắng tự nhận thức. Khi không để ý đến những gì đang diễn ra trong tâm trí mình, ta sẽ lặp lại các khuôn mẫu ấy trên chế độ tự động, tưởng như vô tận. Và dù nhận thức thôi chưa đủ để giải quyết tất cả, đó vẫn là điểm khởi đầu duy nhất.

Khi đã gọi tên được những thói quen làm cùn trí não, công việc thật sự mới bắt đầu. Bảo vệ giấc ngủ, chọn lọc môi trường xung quanh, đặt ra deadline, hay thay đổi cách ta tự nói với mình về trí thông minh, mỗi điều đều là một công cụ mạnh mẽ để dẫn dắt não bộ đến trạng thái làm việc tốt nhất của nó.

Tác giả: T. Alexander Puutio Ph.D.

References

Blackwell, Lisa S.; Trzesniewski, Kali H.; Dweck, Carol Sorich (January 2007). "Implicit Theories of Intelligence Predict Achievement Across an Adolescent Transition: A Longitudinal Study and an Intervention". Child Development. 78 (1): 246–263

Sternberg, R. J. (1997). Successful intelligence: How practical and creative intelligence determine success in life. Simon & Schuster.

Nath, R. D., Bedbrook, C. N., Abrams, M. J., Basinger, T., Bois, J. S., Prober, D. A., Sternberg, P. W., Gradinaru, V., & Goentoro, L. (2017). The jellyfish Cassiopea exhibits a sleep-like state. Current Biology, 27(19), 2984–2990.e3

Ren Z, Mao X, Zhang Z, Wang W. The impact of sleep deprivation on cognitive function in healthy adults: insights from auditory P300 and reaction time analysis. Front Neurosci. 2025 Apr 9;19:1559969. doi: 10.3389/fnins.2025.1559969. PMID: 40270765; PMCID: PMC12014645.

Alberto Fernando Oliveira Justo et al. Association Between Alcohol Consumption, Cognitive Abilities, and Neuropathologic Changes A Population-Based Autopsy Study. Neurology, 2025.

Rinaldi AR, Roper CL, Mehm J. Procrastination as evidence of executive functioning impairment in college students. Appl Neuropsychol Adult. 2021 Nov-Dec;28(6):697-706. doi: 10.1080/23279095.2019.1684293. Epub 2019 Nov 4. PMID: 31679406.

Eyre, R. W., House, T., Hill, E. M., & Griffiths, F. E. (2017). Spreading of components of mood in adolescent social networks. Royal Society Open Science, 4(9), 170336.

Nguồn: 5 Ways We Make Ourselves Less Intelligent Every Day | Psychology Today

menu
menu