Khi tôi được gọi đi

khi-toi-duoc-goi-di

Chúng ta muốn sống mãi mãi – dĩ nhiên rồi. Hoặc ít nhất, nếu điều đó không thực sự khả thi (và ai biết được), thì cũng phải sống qua một thế kỷ.

Chúng ta muốn sống mãi mãi – dĩ nhiên rồi. Hoặc ít nhất, nếu điều đó không thực sự khả thi (và ai biết được), thì cũng phải sống qua một thế kỷ.

Nhưng dù ta có mong muốn đến đâu, sẽ có lúc, có lẽ sớm hơn ta nghĩ, ta cũng được gọi lên đường. Sự gọi ấy có thể nhẹ nhàng: nó có thể bắt đầu bằng một câu chẳng mấy đáng ngại, kiểu như: "Chỉ là có vài điều cần khám thêm qua kết quả xét nghiệm máu của anh/chị..." Bạn bè, gia đình có thể sẽ kiên quyết không chấp nhận phán quyết và thử mọi cách đến phút cuối cùng. Luôn có hy vọng về một khám phá bất ngờ ở giờ chót. Nhưng rồi – như bao tổ tiên của ta, kể cả những người từng ngỡ rằng họ may mắn về sức khỏe – ta cũng sẽ đứng bên bờ vực, chỉ còn một hướng để đi...

Hans Holbein, Detail from The Body of the Dead Christ in the Tomb, 1520-22

Cảm xúc mà ta thường được mời gọi để cảm thấy là nỗi bi ai; như thể một điều khủng khiếp sắp xảy ra, một điều hoàn toàn trái ngược với tất cả, một sự sỉ nhục, một điều bất công.

Không phải để giảm bớt nỗi buồn, mà để nhẹ nhàng nhắc nhở chúng ta về lòng biết ơn, sự thanh thản, và triết lý sống, có thể ta cần lùi lại đôi chút.

Ta đã lên chiếc thang máy này từ khi sinh ra. Ta đã bắt đầu chết kể từ khi chào đời. Chỉ là tốc độ thay đổi theo thời gian mà thôi.

Hãy đặt mình trong bối cảnh lịch sử. Nếu đã ba mươi tuổi, ta đã sống lâu hơn phần lớn mọi người trong thời Trung cổ ở Châu Âu – bao gồm cả các thánh, vua chúa, nhà tiên tri, và những nhà toán học, thi sĩ tài ba nhất. Đó vẫn là một cuộc sống, ngay cả khi nó ngắn hơn mong muốn.

Ta có thể nghĩ mình còn nhiều điều chưa làm, chưa nói, nhưng những người ta yêu thương cơ bản đều biết ta yêu họ – ngay cả khi ta chưa lặp lại đủ lần. Dù không hoàn thành tất cả những gì trong khả năng, thì trí tưởng tượng của ta vẫn luôn vượt qua thực tế. Ta sẽ ra đi với những cuốn tiểu thuyết dang dở, những mối tình chưa trọn vẹn, những sự thức tỉnh nằm mãi trong tim.

Nếu đã chạm đến tuổi năm mươi, ta đã trải qua 438.000 giờ; đã thở 1,96 tỷ lần và đi vệ sinh 15.980 lần. Ta đã có đủ cơ hội để nói và làm những điều thực sự quan trọng.

Nếu sống đến sáu mươi lăm ở một đất nước phát triển, ta có thể đã đi ăn nhà hàng cả nghìn lần, du lịch nước ngoài sáu mươi chuyến. Nếu đến bảy mươi, ta có thể đã xem 6.240 bộ phim, đọc 1.320 cuốn sách và ăn 12.900 gói bánh quy.

Bao nhiêu là đủ? Có thể ta vẫn muốn nhìn tận mắt mũi đất phía Nam New Zealand hay những bảo tàng thú vị ở Genoa, nhưng đến lúc này, chẳng phải ta cũng đã nắm được đại ý của cuộc đời rồi sao? Chẳng phải rõ ràng cuộc đời là như thế nào rồi sao?

Phải chăng nỗi sợ chết chỉ là vỏ bọc cho một nỗi lo khác – thực sự hơn, đáng quan tâm hơn? Có thể vấn đề không phải ở thời gian, mà là ta chưa biết cách trân quý cuộc sống, bất kể nó dài hay ngắn?

Ta có thể sống thêm hai mươi năm nữa, có thể – bằng cách ăn chay, chỉ uống nước lọc hoặc ăn rau củ hữu cơ – kéo dài thêm ba mươi năm, nhưng liệu vấn đề có nằm ở đó?

Những “tiên tri” về sức khỏe có thể khiến ta mê mẩn với lời hứa kéo dài tuổi thọ thêm mười hay hai mươi năm, nhưng nếu năm mươi tuổi còn chưa đủ, thì có lẽ không gì là đủ cả. Những lời khuyên về tim mạch hay năng lực phổi không thể thay thế cho sự nhận thức và lòng biết ơn.

Lời phàn nàn về cái chết cuối cùng là sự thừa nhận rằng ta chưa học được cách sống. Mục tiêu không phải là kéo dài thời gian, mà là biết sẵn sàng rời đi bất cứ khi nào sau bốn mươi năm ở hành tinh này; có thể buồn nhưng không bi lụy hay phẫn nộ. Ta sẽ học được cách sống – và xứng đáng với món quà đã được ban tặng – khi biết cách nói một lời tạm biệt không quá đắng cay, không quá bi kịch, nhưng lại thấm đượm sự thấu hiểu và một nụ cười nhẹ nhàng.

Nguồn: WHEN I AM CALLED TO DIE

menu
menu