Khoảng cách đồng cảm đang đe dọa thế hệ tương lai

khoang-cach-dong-cam-dang-de-doa-the-he-tuong-lai

Để bảo vệ con cháu mình khỏi thảm họa, chúng ta cần vượt qua những rào cản cảm xúc khiến ta dễ dàng ngoảnh mặt làm ngơ.

Mary đang đi dạo quanh khu phố như thường lệ. Bất chợt, cô ho sặc sụa, hơi thở trở nên gấp gáp. Ngực cô như bị bóp nghẹt, buộc cô phải ngồi xuống chiếc ghế đá bên đường để trấn tĩnh lại.

Bây giờ, tôi sẽ thêm một chi tiết cuối cùng vào câu chuyện này: Mary đang sống vào năm 2050. Nỗi đau mà cô ấy chịu đựng không hề khác đi chỉ vì thời gian. Nhưng có lẽ, khi biết điều đó, bạn sẽ cảm thấy khó đồng cảm với cô ấy hơn một chút.

Những lời cảnh báo về hiểm họa trong tương lai – vốn sẽ ảnh hưởng đến những con người cụ thể như Mary – ngày càng xuất hiện nhiều hơn, và điều đó hoàn toàn có lý do. Khủng hoảng khí hậu đang dần nghiêm trọng hơn. Những đại dịch tàn khốc hơn COVID-19, nguy cơ chiến tranh hạt nhân, hay rủi ro từ trí tuệ nhân tạo đang ngày một cận kề. Các chuyên gia ước tính rằng, trong thế kỷ này, khả năng xảy ra một thảm họa có thể cướp đi sinh mạng của ít nhất 10% nhân loại trong vòng năm năm lên đến 20% – chẳng khác nào một canh bạc. Vậy nhưng, thế giới vẫn chưa dành đủ sự quan tâm cho những mối đe dọa nghiêm trọng nhất đối với tương lai của loài người.

Một công nhân khử trùng ghế rạp chiếu phim tại Quezon City, Philippines, ngày 16 tháng 10 năm 2021. Ảnh:  Lisa Marie David/Reuters

Làm thế nào để cân bằng giữa những vấn đề trước mắt và những nguy cơ xa xôi hơn? Đây thực sự là một câu hỏi khó. Nhưng nếu con người có thể dễ dàng đồng cảm hơn với thế hệ mai sau, áp lực từ công chúng trong việc đối phó với những rủi ro thảm khốc sẽ mạnh mẽ hơn. Điều này có thể khiến các chính sách bảo đảm an toàn được ưu tiên hơn trong chương trình nghị sự của các đảng phái chính trị. Những cơ quan chính phủ phụ trách các chính sách này cũng có thể nhận được nhiều ngân sách hơn để mở rộng nghiên cứu và nâng cao năng lực kiểm soát rủi ro.

Trong những năm qua, các lập luận triết học và dữ liệu thống kê đã dần lấp đầy các cuộc thảo luận, nhằm thúc đẩy hành động bảo vệ tương lai của nhân loại. Nhưng dù lý lẽ có thuyết phục đến đâu, con số có đáng lo ngại đến mức nào, thì chừng đó vẫn là chưa đủ. Để thay đổi nhận thức của các nhà hoạch định chính sách và toàn xã hội, chúng ta còn cần vượt qua những rào cản cảm xúc.

Chúng ta thường có ít sự đồng cảm hơn với những người chịu khổ đau trong tương lai

Nhiều người trong chúng ta còn khó mà quan tâm đến chính bản thân mình trong tương lai, chứ đừng nói đến những thế hệ sau. Không ít người chẳng tiết kiệm đủ cho tuổi già hay không tập thể dục đủ thường xuyên như họ nghĩ rằng mình nên làm, phần lớn là vì họ không thể đồng cảm đủ với chính con người mà họ sẽ trở thành. Định kiến thiên vị hiện tại có mặt ở khắp nơi. Và nếu vượt qua bài kiểm tra “kẹo dẻo” ở cấp độ cá nhân đã khó, thì để cả xã hội làm được điều đó lại càng khó hơn – vì ta không chỉ ưu ái hiện tại hơn tương lai, mà còn thiên vị chính mình hơn là người khác. Nếu muốn tạo dựng một tương lai tốt đẹp hơn cho nhân loại, ta cần chống lại khuynh hướng tâm lý này: khuynh hướng xem trọng bản thân ta ở hiện tại hơn là những con người xa xôi trong tương lai.

Nhiều học giả cho rằng không có sự khác biệt đạo đức nào giữa nỗi đau của một người ở hiện tại và trong tương lai. Để tìm hiểu xem con người thực sự cảm thấy thế nào khi nghĩ về sự đau khổ ở hai thời điểm khác nhau, tôi cùng David DeSteno đã tiến hành một loạt nghiên cứu. Chúng tôi thiết kế thí nghiệm đơn giản: những người tham gia được yêu cầu tưởng tượng một ai đó đang chịu đau đớn – chẳng hạn như mắc bệnh hô hấp hoặc bị gãy mắt cá chân. Một nhóm hình dung cảnh đó xảy ra ở hiện tại, nhóm còn lại tưởng tượng nó xảy ra ít nhất 25 năm sau. Những người tham gia chỉ được cung cấp một mô tả ngắn gọn về nỗi đau của nhân vật (giống như trường hợp của Mary), không có thêm thông tin nào khác.

Kết quả cho thấy, dù sự đau đớn được đánh giá là gần như ngang nhau ở cả hai nhóm, nhưng khi được hỏi về mức độ đồng cảm, người tham gia lại cho thấy sự chênh lệch rõ rệt: mức độ đồng cảm với những người đau khổ trong tương lai thấp hơn từ 8% đến 16%, tùy vào khoảng cách thời gian. Nói cách khác, có một sự lệch pha giữa nhận thức lý trí (rằng nỗi đau của một người là như nhau, dù ở hiện tại hay tương lai) và cảm xúc thật sự mà con người trải nghiệm khi nghĩ về nỗi đau ấy.

Trong cuộc sống hằng ngày, khi nhắc đến thế hệ tương lai, chúng ta thường nói về họ như một khái niệm rộng lớn, mơ hồ – điều này khiến việc đồng cảm càng trở nên khó khăn hơn. Bộ não con người có xu hướng dễ đồng cảm với một cá nhân cụ thể hơn là một nhóm người, có lẽ vì ta dễ dàng hình dung một cá nhân hơn. Do đó, khoảng cách đồng cảm giữa một con người ở hiện tại và một đám đông nào đó trong tương lai có lẽ còn lớn hơn những gì chúng tôi tìm thấy trong nghiên cứu này.

Dù sự đồng cảm thúc đẩy ta giúp đỡ người khác, các nhà tâm lý học từ lâu đã cảnh báo rằng nó cũng khiến ta thiên vị những người mà ta quen biết hoặc cảm thấy giống mình, đôi khi là với cái giá phải trả của những người xa lạ. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy sự thiếu hụt đồng cảm không chỉ tồn tại giữa các khoảng cách về địa lý hay xã hội, mà còn tồn tại giữa các thế hệ – một khoảng cách xuyên thời gian.

 Khoảng cách đồng cảm này có thực sự quan trọng không, xét trên phương diện thực tế? Câu trả lời là có. Chúng tôi phát hiện ra rằng mức độ đồng cảm thấp hơn đối với những con người trong tương lai dẫn đến những hệ quả rõ ràng trong đời sống.

Trong một nghiên cứu, chúng tôi giới thiệu về Clean Air Task Force – một tổ chức phi lợi nhuận hoạt động vì biến đổi khí hậu – theo hai cách khác nhau. Một nhóm được cho biết tổ chức này đang giúp đỡ con người trong hiện tại, nhóm còn lại được thông báo rằng tổ chức đang hỗ trợ những người sẽ sống cách đây 200 năm. Kết quả cho thấy, so với nhóm đầu tiên, nhóm thứ hai quyên góp ít hơn 6%. Sự khác biệt này xuất phát từ mức độ đồng cảm thấp hơn với những người chưa ra đời. Dù con số 6% nghe có vẻ không lớn, nhưng nếu xét đến hàng trăm tỷ đô la được quyên góp mỗi năm ở Mỹ, tác động của nó là không hề nhỏ.

Tất nhiên, việc ủng hộ những vấn đề cấp bách trong hiện tại không có gì sai. Thế giới vẫn còn quá nhiều đau khổ cần được xoa dịu ngay lúc này. Nhưng thực tế rằng chỉ cần nhấn mạnh rằng người được hưởng lợi là những người đang sống hôm nay cũng đủ để tác động đến quyết định quyên góp cho thấy một chiến lược tiềm năng cho các tổ chức phi lợi nhuận hướng về tương lai: Nếu họ nhấn mạnh lợi ích của mình đối với con người trong hiện tại, những người quyên góp có thể sẽ cảm thấy nhiều đồng cảm hơn, và từ đó sẵn lòng hỗ trợ hơn.

May mắn thay, lòng đồng cảm không phải là một thứ cố định. Nó có thể được mở rộng, có thể hướng đến những người mà ta vốn không dễ dàng quan tâm. Trong nghiên cứu cuối cùng của mình, chúng tôi thử nghiệm một cách đơn giản: yêu cầu những người tham gia dành 30 giây để tưởng tượng một người nào đó đang đau khổ trong tương lai, càng chi tiết càng tốt. Trước khi đọc về tình cảnh của một người như Mary, họ được đề nghị hình dung nét mặt, cử chỉ, thậm chí là âm thanh người đó có thể phát ra. Kết quả cho thấy, sau bài tập ngắn này, mức độ đồng cảm dành cho những con người trong tương lai tăng lên, ngang bằng với sự đồng cảm dành cho những người ở hiện tại. Nói cách khác, khi người ta có thể hình dung tương lai một cách sống động, khoảng cách đồng cảm sẽ biến mất.

Những người làm công tác truyền thông trong nhiều lĩnh vực có thể tận dụng phát hiện này để thúc đẩy hành động vì thế hệ mai sau. Các nhà làm phim, nhà văn có thể "kéo gần" tương lai lại bằng cách khắc họa những nhân vật có số phận gắn liền với những thách thức của thế giới mai sau. Các chính trị gia có thể kể những câu chuyện đầy thuyết phục về hậu quả mà sự thiên vị hiện tại của chúng ta sẽ để lại cho những con người rất thực, sắp sửa kế thừa thế giới này. Các chuyên gia nghiên cứu về rủi ro thảm họa có thể bổ sung vào những phân tích khoa học khô khan của mình bằng những ngôn từ đánh thức cảm xúc con người.

Đây vẫn là một lĩnh vực nghiên cứu mới, và còn rất nhiều câu hỏi chưa có lời giải đáp. Có thể những bậc cha mẹ, vì đã quen quan tâm đến tương lai của con cái mình, cũng sẽ dễ đồng cảm hơn với thế hệ mai sau. Cũng có thể, trong những nền văn hóa đề cao trách nhiệm với thế hệ tiếp nối, khoảng cách đồng cảm này không quá rõ rệt. Hoặc giả, những ai tin rằng xã hội đang đối mặt với những rủi ro nghiêm trọng trước mắt có lẽ không cần thêm sự hướng về tương lai, vì lòng đồng cảm của họ với con người hiện tại đã đủ mạnh để thúc đẩy hành động. Việc tiếp tục tìm hiểu những rào cản đối với sự đồng cảm với thế hệ sau có thể giúp ta khám phá thêm những cách thức thực tế để vượt qua chúng.

Xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn cho nhân loại đòi hỏi những hành động thiết thực, mạnh mẽ từ chính phủ, doanh nghiệp và từng cá nhân. Để khơi dậy những hành động ấy, chúng ta cần điều chỉnh lại các động cơ kinh tế và tạo ra sức ép chính trị. Nhưng bên cạnh đó, đừng quên sức mạnh của việc thay đổi cách con người tư duy. Khi kết hợp lý lẽ vững vàng, bằng chứng thuyết phục với một cảm xúc đủ sâu sắc dành cho những thế hệ chưa ra đời, chúng ta có thể tìm thấy động lực để đưa tương lai chung của nhân loại đi đúng hướng.

Nguồn: The empathy gap that is imperilling future generations | Psyche.co

menu
menu