"Khủng hoảng nam tính" thực chất là một cuộc khủng hoảng về lòng tự tôn

Ngày nay, nhiều người tin rằng chỉ cần tài năng hoặc nỗ lực, bất kỳ ai cũng có thể vươn lên đỉnh cao. Nhưng niềm tin ấy thực ra chỉ là một huyền thoại – và nó đặc biệt gây hại cho đàn ông.
Thế kỷ 21 thường được mô tả là một thời đại của những cuộc khủng hoảng. Từ dân chủ tự do, nền kinh tế Mỹ (hay toàn cầu), môi trường, nam tính, dân số già, di cư, thông tin sai lệch cho đến sự bùng nổ của mạng xã hội – tất cả đều được cho là đang trong cơn khủng hoảng, tạo nên điều mà một số người gọi là "đa khủng hoảng" trên phạm vi toàn cầu. Vì thế, có lẽ bạn sẽ hoài nghi khi tôi tiếp tục bổ sung một cuộc khủng hoảng khác vào danh sách này. Nhưng chính nó lại có thể giúp giải thích một phần những bất ổn trên – và mang đến một góc nhìn sâu sắc hơn về những căng thẳng trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta.
Có một cuộc khủng hoảng toàn cầu về lòng tự tôn. Nó ảnh hưởng đến hầu hết mọi người, nhưng (như tôi sẽ lập luận) những xã hội toàn cầu hóa với sự chênh lệch giàu nghèo lớn lại chịu tác động nặng nề nhất. Cuộc khủng hoảng này gần như vô hình, vì ta đang sống cùng nó mỗi ngày – và chính điều đó càng khiến nó trở nên nghiêm trọng.
Lòng tự tôn, ở đây, không chỉ là sự tự tin, mà là cách ta đánh giá chính mình: liệu ta có cảm thấy thành công hay ít nhất là có khả năng thành công theo tiêu chuẩn của bản thân hay không. Mất đi lòng tự tôn là cảm giác bất lực, thậm chí vô giá trị. Và cuộc khủng hoảng hiện nay chính là sự suy giảm lòng tự tôn trên diện rộng, cùng với một cuộc chạy đua không ngừng để giành lấy nó.
Để hiểu được điều này, ta cần quay ngược thời gian về thời kỳ châu Âu phong kiến. Dù chế độ phong kiến chứa đầy những bất công và khổ đau, vẫn có một điều có thể nói về nó: tính cố định của các giai tầng xã hội giúp bảo vệ lòng tự tôn của con người. Nếu một người sinh ra là nông nô, thì kỳ vọng của họ cũng chỉ gói gọn trong thân phận ấy. Khoảng cách giữa thành công và thất bại nhỏ hơn rất nhiều – bởi vì trong một xã hội mà vị trí của mỗi người đã được định sẵn, thì chỉ cần sống đúng với vai trò của mình đã là một thành công.
Bond Street, London in December 2024. Photo by Mike Kemp/In Pictures/Getty Images
Nhà triết học Charles Taylor từng nói rằng trong các xã hội tiền hiện đại:
"Những điều mà con người xem là quan trọng với bản thân họ phần lớn được định hình bởi vị trí xã hội, cùng với những vai trò và trách nhiệm đi kèm."
Nhưng khi những cấu trúc thứ bậc cứng nhắc của chế độ phong kiến dần tan rã, và tư tưởng về quyền bình đẳng cùng phẩm giá con người lan rộng, thì lòng tự tôn không còn là một thứ được định sẵn, mà trở thành kết quả của thành tựu cá nhân.
Bởi lẽ, một khi quyền bình đẳng được biện minh bằng tiềm năng ngang nhau của tất cả con người, điều đó cũng ngầm đặt ra một tiêu chuẩn chung về sự xuất sắc mà ai cũng phải hướng đến. Và khi con người được giải phóng khỏi những vị trí xã hội bất di bất dịch, ta lại phải xây dựng danh tính của mình dựa trên những gì chỉ thuộc về riêng ta, như một cá thể độc lập.
Ngày nay, sự dịch chuyển giữa các vị trí xã hội đủ linh hoạt để ta có thể tưởng tượng rằng bất kỳ ai cũng có thể trở thành tỷ phú.
Ta không còn định nghĩa bản thân qua những vai trò được truyền lại từ thế hệ trước, mà qua chính những thành công và thất bại của mình. Như Taylor viết:
"Có một cách sống của riêng tôi – cách làm người mà chỉ tôi có thể theo đuổi. Tôi được kêu gọi để sống theo cách đó, chứ không phải mô phỏng cuộc đời của bất kỳ ai khác… Chính điều này khiến việc sống đúng với bản thân trở nên quan trọng. Nếu tôi không làm vậy, tôi sẽ đánh mất ý nghĩa của đời mình; tôi sẽ bỏ lỡ mục đích mà tôi tồn tại như một con người."
Văn hóa ngày nay tràn ngập tư duy này. Ta ngày càng xem ngay cả những điều bình thường trong cuộc sống cũng là một phần của bản sắc cá nhân. Chọn ngành học hay tìm việc làm giờ đây không chỉ là một quyết định thực tế, mà còn trở thành một hành trình tìm kiếm bản thân. Ta được khuyến khích theo đuổi đam mê – với một ẩn ý rằng ai cũng phải có một đam mê. Còn nếu chỉ muốn một công việc bình thường với đủ thời gian rảnh để tận hưởng cuộc sống, đôi khi ta lại có cảm giác như mình đang tự nhận thất bại.
Vậy, cơn khủng hoảng này đến từ đâu?
Liệu có điều gì sai trái với một xã hội đề cao chủ nghĩa cá nhân – nhất là khi nó đi đôi với sự khoan dung dành cho những lối sống đa dạng? Phải chăng những hệ thống giai cấp cứng nhắc cùng những kỳ vọng cứng nhắc còn gây ra nhiều khổ đau hơn?
Vấn đề tôi muốn nói đến không nằm ở bản thân chủ nghĩa cá nhân hay sự đa dạng của xã hội hiện đại. Mà là cuộc cạnh tranh không hồi kết mà chủ nghĩa cá nhân ấy khơi mào.
Để thấy rõ điều này, hãy so sánh mối quan hệ giữa một cử nhân thuộc tầng lớp trung lưu với một tỷ phú vào năm 2024, và mối quan hệ giữa một nông nô với một vị vua vào năm 1350. Người cử nhân trung lưu ngày nay có nhiều quyền tự do hơn hẳn so với một nông nô thời phong kiến, và trên lý thuyết, họ có cơ hội làm giàu nếu biết cách nắm bắt. Nhưng chính cái khả năng đó mới là vấn đề: sự linh hoạt vừa đủ trong việc dịch chuyển giai tầng khiến bất kỳ ai cũng có thể hình dung viễn cảnh trở thành tỷ phú – và điều đó thay đổi hoàn toàn cách con người nhìn nhận bản thân.
Tôi không nói rằng xã hội phương Tây ngày nay đang duy trì tốt sự dịch chuyển giai cấp. Thực tế, nó đã suy giảm suốt hàng thập kỷ qua, và khả năng một người từ đáy xã hội vươn lên đỉnh cao (hoặc ngược lại) là cực kỳ mong manh. Nhưng điều quan trọng nhất là viễn cảnh ấy vẫn có thể tưởng tượng được. Hầu như ai cũng từng thoáng mơ về việc trở thành một doanh nhân công nghệ tỷ đô, một ngôi sao YouTube, hay một nhà đầu tư tài ba. Ai cũng có lúc cảm thấy tội lỗi vì mình chưa làm được điều đó. Và điều tệ nhất là, vì ta xem những thành tựu của mình như một phần bản sắc cá nhân, nên khi chỉ có một cuộc sống bình thường – hoặc tệ hơn, nghèo khó – ta không chỉ cảm thấy bất mãn, mà còn thấy xấu hổ, như thể bản thân đã thất bại.
Ở xã hội phong kiến, khái niệm "vươn lên" gần như không tồn tại, bởi tiêu chuẩn của thành công gắn chặt với vị trí xã hội bất biến. Nhưng trong thế giới hiện đại, cách duy nhất để duy trì lòng tự tôn là phải vượt trội hơn người khác – mà luôn có ai đó làm tốt hơn ta.
Trung bình đồng nghĩa với bất mãn, vì chỉ cần nhìn quanh, ta cũng thấy có những người sống tốt hơn mình, và điều đó khiến ta cảm giác bản thân kém cỏi một cách cố hữu. Càng sống trong một nền kinh tế với khoảng cách giàu nghèo khắc nghiệt, con người càng bị cuốn sâu vào vòng xoáy so sánh và tự ti.
Cuộc khủng hoảng này cũng giúp giải thích những cuộc khủng hoảng khác mà ta thường nhắc đến.
Chẳng hạn, hãy nhìn vào cái gọi là "khủng hoảng nam tính" đã được bàn tán sôi nổi suốt năm năm qua. Quan điểm chính trị giữa nam và nữ ngày càng phân hóa sâu sắc. Tỷ lệ tự tử ở nam giới luôn ở mức cao. Ngày càng nhiều đàn ông rút lui khỏi thị trường lao động, và thậm chí là cả thị trường hẹn hò. Những nhân vật có tư tưởng cực đoan như Andrew Tate – người tự nhận là kẻ ghét phụ nữ – lại nổi lên như hiện tượng văn hóa. Ai cũng thấy rằng có điều gì đó đang xảy ra với đàn ông và bản lĩnh nam nhi.
Có hai cách lý giải phổ biến về vấn đề này. Theo phe tự do cánh tả, đàn ông đang hoang mang và thất vọng vì mất đi những đặc quyền từng có. Còn theo quan điểm cực hữu, nam giới đang bị kìm hãm bởi những chuẩn mực xã hội "nữ tính hóa", khiến họ không thể sống đúng với bản chất đàn ông.
Nhưng tôi cho rằng chính cuộc cạnh tranh lòng tự tôn và sự thiếu hụt nó trên diện rộng mới là gốc rễ của cuộc khủng hoảng nam tính này.
Đàn ông thất vọng, vì họ cảm thấy mình là kẻ thất bại. Họ cảm thấy mình thất bại, vì trong một xã hội mà lòng tự tôn bị phân phối quá khắc nghiệt, gần như ai cũng phải cảm thấy mình thất bại.
Họ giận dữ và xa lánh xã hội không phải đơn thuần vì không còn hiểu thế nào là "nam tính" khi đặc quyền của đàn ông bị xói mòn. Cũng không phải vì một tầng lớp tinh hoa đang cố áp đặt những chuẩn mực hành vi "phi nam tính" lên họ.
Họ giận dữ, họ lạc lõng, đơn giản vì đó là phản ứng tự nhiên của con người khi bị mắc kẹt trong một xã hội khiến họ cảm thấy bất lực, thua kém, và không có chút quyền kiểm soát nào.
(Câu hỏi đặt ra là: tại sao phụ nữ lại phản ứng khác trước cuộc khủng hoảng lòng tự tôn này? Tôi cho rằng sự đan xen giữa những chuẩn mực gia trưởng và cuộc đua giành lòng tự tôn khiến phụ nữ cũng phải đối mặt với cùng một sự thất vọng – nhưng theo một cách khác.)
Điều tương tự cũng có thể nói về sự xa rời chính trị của các cộng đồng ở những khu vực hậu công nghiệp tại Mỹ và Anh. Cũng như cuộc khủng hoảng nam tính, có rất nhiều yếu tố đan xen ở đây. Nhưng điều quan trọng là khi bàn về vấn đề này, ta cần xem xét nó dưới góc độ lòng tự tôn.
Bởi khi một ngành công nghiệp biến mất, cái mất mát không chỉ đơn thuần là công việc, mà còn là những vai trò xã hội mà công việc đó đại diện – những cơ hội để một con người cảm thấy mình có giá trị trong cộng đồng. Việc chính phủ rót thêm tiền từ ngân sách trung ương, phát động các chiến dịch bài ngoại để xoa dịu công chúng, hay cải thiện hạ tầng giao thông kết nối với thành phố lớn sẽ không thể lấp đầy khoảng trống này.
Nếu cuộc đua giành lấy lòng tự tôn là vấn đề, vậy đâu là giải pháp?
Chúng ta cần mở rộng cánh cửa tiếp cận lòng tự tôn, thay vì biến nó thành một đặc quyền chỉ dành cho số ít. Điều này đồng nghĩa với việc đảm bảo cho mọi người một nền tảng sống tối thiểu, điều mà lẽ ra phải được xem là hiển nhiên: một công việc ổn định, một mái nhà tử tế, và một hệ thống chăm sóc sức khỏe đầy đủ.
Nhưng không chỉ dừng lại ở đó. Như các triết gia chính trị Michael Walzer, Timo Jütten và nhiều người khác đã chỉ ra, ta cần điều chỉnh lại các chuẩn mực chung về thành công. Trong giới học thuật, điều này được gọi là "tiêu chuẩn đóng góp" – những thước đo để một người có thể cảm thấy mình thành đạt, rằng mình đã đóng góp xứng đáng cho xã hội.
Hơn bao giờ hết, ta cần trân trọng và tôn vinh mọi hình thức thành tựu của con người. Thành công không chỉ nằm ở sự giàu có hay danh vọng. Nó còn là biết chăm sóc những người thân yêu, tạo ra nghệ thuật, dấn thân vào hoạt động xã hội, tham gia chính trị địa phương, hay đơn giản là tình nguyện giúp đỡ cộng đồng. Những giá trị này cần được khắc sâu ngay từ trong hệ thống giáo dục, để trẻ em không lớn lên với một thước đo thành công chật hẹp và áp lực.
Và cuối cùng, ta cần nhắc nhở nhau rằng, thành công của một con người phần lớn là nhờ may mắn. Như Michael Sandel từng lập luận trong cuốn The Tyranny of Merit (2020), nhìn nhận đúng về vai trò của may mắn không chỉ có ý nghĩa trong việc phân phối của cải vật chất. Nó còn có thể trở thành một bài tập tinh thần, giúp ta buông bỏ bớt cuộc đua khốc liệt giành lấy lòng tự tôn – một cuộc đua mà rốt cuộc, chẳng ai thực sự thắng cuộc.
Nguồn: The ‘masculinity crisis’ is actually a crisis of self-esteem | Psyche.co