Cái nhìn thoáng qua trong 10 giây

cai-nhin-thoang-qua-trong-10-giay

Khi cố gắng “đọc vị” ai đó, một cái nhìn thoáng qua có thể cho ta thấy vài nét tính cách cơ bản, nhưng nếu bạn đang tìm kiếm tình yêu, đừng đặt quá nhiều kỳ vọng vào điều đó.

Randall Colvin, một nhà tâm lý học xã hội tại Đại học Northeastern, đã dành phần lớn sự nghiệp của mình để nghiên cứu độ chính xác trong những đánh giá nhanh về tính cách mà con người thường đưa ra ngay lập tức khi gặp gỡ người khác. Thú vị thay, chính ông lại là một ví dụ điển hình.

Năm 2002, sau khi ly hôn, Colvin bắt đầu tìm kiếm một người bạn đời mới. Một người bạn đã gợi ý ông thử tìm qua trang web hẹn hò Match.com. Khi lướt qua các hồ sơ, ông đặc biệt không có thiện cảm với một người phụ nữ. Cô trông quá hào nhoáng, như vừa bước ra từ bộ phim Sex and the City, hoàn toàn trái ngược với mẫu người học thuật, giản dị mà ông yêu thích.

“Cô ấy trông thật hời hợt,” ông nhớ lại.

Khoảng một tháng sau khi đăng hồ sơ, ông nhận được email từ người phụ nữ ấy. Nhưng thay vì tỏ ra tự mãn hay khoe khoang, cô lại ngọt ngào, cởi mở. Khi gặp nhau, cô vẫn rất thu hút nhưng không hề mang dáng vẻ của một "nữ hoàng sân khấu" như ông từng nghĩ. Chỉ qua một email nhẹ nhàng, cô đã xóa tan ấn tượng ban đầu không mấy tốt đẹp. Giờ đây, cô là vợ của Colvin.

Trải nghiệm của Colvin minh chứng cho việc chúng ta thường đưa ra hàng tá đánh giá tinh tế về người khác—thường không ý thức được—chỉ qua một cái nhìn hoặc một cuộc gặp gỡ ngắn ngủi. Chúng ta đánh giá về sự đáng tin cậy, trí thông minh, năng lực, vẻ đẹp, hay khả năng thân thiết của họ, tất cả chỉ trong vòng một phút hoặc ít hơn. Những ấn tượng đầu tiên này thường dẫn dắt các quyết định của chúng ta: tuyển dụng ai, yêu ai, hay thậm chí bầu chọn ai.

Ấn tượng đầu tiên có thật sự đáng tin?

Nhà tâm lý học xã hội tiên phong Solomon Asch, người nghiên cứu sâu về cách con người hình thành ấn tượng, từng giải thích vào năm 1946:
“Chúng ta nhìn một người và ngay lập tức có ấn tượng về tính cách của họ. Một cái nhìn, vài lời nói ngắn ngủi cũng đủ để kể cho ta một câu chuyện phức tạp. Quan sát sau đó có thể làm phong phú hoặc đảo lộn suy nghĩ ban đầu của ta, nhưng ta không thể ngăn quá trình hình thành ấn tượng diễn ra nhanh chóng, như việc ta không thể ngừng nhìn thấy một vật hay nghe một giai điệu.”

Colvin nhận định rằng những ấn tượng đầu tiên đáng tin cậy nhất thường xoay quanh những đặc điểm tính cách cơ bản, như Big Five (Năm Yếu Tố Lớn): hướng ngoại, bất ổn cảm xúc, cởi mở, dễ mến, và tận tâm. Theo nghiên cứu của ông, những đánh giá về Big Five được đưa ra sau khi biết một người trong vòng một phút thường chính xác tương đương với những đánh giá được đưa ra sau nhiều năm quen biết.

Trong các thí nghiệm, Colvin thường quay phim các cuộc gặp giữa những người tham gia, gồm cả người “đánh giá” và người “được đánh giá.” Kết quả cho thấy chỉ sau năm giây, người đánh giá có thể nhận ra khá chính xác tính hướng ngoại, mức độ tận tâm, trí thông minh, và cảm xúc tiêu cực của người kia. Chỉ cần thêm vài giây nữa, họ có thể nhận diện được sự cởi mở, dễ mến, cảm xúc tích cực và mức độ bất ổn cảm xúc.

Không phải lúc nào cũng nhìn thấu được

Colvin giải thích, sự tận tâm thường dễ nhận ra nhất vì dấu hiệu của nó rất rõ ràng: “Đây là những người luôn hoàn thành công việc.” Ngược lại, những đặc điểm như bất ổn cảm xúc hay cởi mở lại mất nhiều thời gian hơn để nhận diện vì thường không có nhiều manh mối hoặc các biểu hiện không nhất quán.

Tuy nhiên, không phải mọi khoảnh khắc trong cuộc trò chuyện đều tiết lộ như nhau. Colvin cho rằng phần giữa cuộc trò chuyện là thời điểm người ta thể hiện rõ con người mình nhất, vì họ cần thời gian để “làm nóng” và sau đó bắt đầu chậm lại. “Nếu hai người ngồi nói chuyện trên ghế tại một bữa tiệc trong 30 phút,” ông ví dụ, “phần đáng chú ý nhất sẽ rơi vào khoảng phút thứ 15.”

Nhưng dù có chính xác thế nào, ấn tượng đầu tiên cũng chỉ là cái nhìn bề nổi. “Chúng ta có thể biết ai đó là người hướng ngoại,” Colvin nói, “nhưng không biết họ dự tiệc nhiều ra sao. Chúng ta biết người đó đang trầm cảm, nhưng không biết tại sao—điều gì trong cuộc đời họ đã khiến họ đau khổ đến vậy.”

Nhìn chung, Colvin nhận thấy rằng ấn tượng đầu tiên chỉ đúng khoảng 30% thời gian. Điều này có nghĩa là, nếu bạn né sang đường mỗi khi thấy một khuôn mặt đáng sợ, thì 7 lần trong 10 lần, bạn chỉ đang tránh một người tốt gặp ngày tồi tệ. Nhưng 3 lần còn lại, bạn thực sự đã tránh được nguy hiểm.

Photo by Peter Yang

Cảm nhận con người là một kỹ năng mới

Alexander Todorov, giáo sư tâm lý học tại Đại học Princeton, lý giải rằng việc “đọc vị” người khác là một kỹ năng mới của nhân loại, chỉ xuất hiện trong khoảng 13.000 năm qua. Trước thời kỳ cách mạng nông nghiệp, con người sống trong các nhóm săn bắn hái lượm nhỏ, nơi mọi người đều quen biết nhau. Khi đó, chúng ta đánh giá người khác dựa trên danh tiếng chứ không phải ấn tượng. Todorov nhận định, vì là một công cụ mới, nên khả năng tạo ấn tượng vẫn còn khá thô sơ.

Các nghiên cứu gần đây còn chỉ ra rằng, trong những quyết định quan trọng nhất—chọn bạn đời—ấn tượng đầu tiên lại ít hữu ích nhất. Nhà tâm lý học Paul Eastwick thuộc Đại học Northwestern cho biết, ấn tượng ban đầu không quan trọng với tình yêu như chúng ta vẫn tưởng.

Trong một loạt nghiên cứu, Eastwick đã thách thức quan niệm rằng con người thường kết đôi với những người giống mình về ngoại hình hay các đặc điểm bề ngoài, điều được gọi là “giá trị bạn đời.”

Tại một quán bar, mọi người có xu hướng đồng ý ngay lập tức về việc ai hấp dẫn nhất—đó là phản ứng dường như đã được lập trình sẵn. Những người có ngoại hình tương đồng thường kết đôi với nhau. Nhưng trong một nghiên cứu công bố trên Psychological Science, Eastwick phát hiện rằng khi các cặp đôi quen nhau càng lâu trước khi yêu, họ càng ít giống nhau về các đặc điểm bề ngoài.

Thời gian cho phép ta khám phá và trân trọng những nét độc đáo của một người. “Chúng ta gặp gỡ qua công việc hay bạn bè, và hầu hết các mối quan hệ lãng mạn bắt đầu theo cách đó,” Eastwick nhận xét. “Có những trường hợp ban đầu rất thu hút nhưng cảm giác đó biến mất—và cũng có nhiều trường hợp khác mà những phẩm chất bạn thực sự trân trọng sẽ dần tạo nên sự hấp dẫn theo thời gian.”

Thời gian dần làm suy yếu sức ảnh hưởng của ấn tượng đầu tiên. Trong một loạt nghiên cứu khác, Eastwick yêu cầu các sinh viên trong một lớp nhỏ đánh giá mức độ hấp dẫn của nhau vào đầu học kỳ. Kết quả rất đồng thuận. Nhưng khi được đánh giá lại vào cuối kỳ, điểm số đã hoàn toàn phân tán.

“Thoạt nhìn, điều này có vẻ mâu thuẫn,” Eastwick giải thích. “Khi con người có thêm thông tin về ai đó, ta sẽ nghĩ rằng họ sẽ tiến gần hơn đến sự thật và có sự đồng thuận cao hơn.” Nhưng hóa ra, trong những mối quan hệ sâu sắc, điều thực sự quan trọng là những phẩm chất mà ta chỉ khám phá được khi dành đủ thời gian để hiểu người kia.

“Nhưng cách con người lý giải hành vi của đối tượng lãng mạn lại mang tính cá nhân sâu sắc – sâu sắc hơn nhiều so với những đánh giá về tính cách,” ông giải thích. “Vì vậy, việc sự đồng thuận về bạn đời giảm dần khi thông tin tích lũy theo thời gian là điều dễ hiểu. Càng quen biết nhau lâu ở trường hay nơi làm việc, những ấn tượng ban đầu càng trở nên mờ nhạt.”

Hơn nữa, theo nghiên cứu, càng ở bên nhau lâu, sự hấp dẫn giữa các cặp đôi càng tăng – ngay cả khi mối quan hệ đó chỉ là sản phẩm của một thí nghiệm được sắp đặt trong phòng thí nghiệm.

Photo by Peter Yang

Các nghiên cứu khác lại chỉ ra rằng, những ấn tượng ban đầu phụ thuộc rất nhiều vào hàng loạt yếu tố bối cảnh. Đầu tiên, giống như nhiều quá trình nhận thức của con người, những đánh giá về người khác thực ra được hình thành bởi cơ thể ta theo cách mà ta không nhận ra – chịu ảnh hưởng trực tiếp, thậm chí rất cụ thể, từ những yếu tố vật lý bên ngoài bộ não. Ví dụ, nếu đang cầm một tách trà hoặc cà phê nóng, bạn có xu hướng cảm nhận người mà mình gặp ngay sau đó là người ấm áp. Ngược lại, nếu đang ngồi ở một chiếc bàn lung lay, trên tàu điện ngầm rung lắc, hoặc trên một con thuyền chòng chành, bạn có thể đánh giá người bạn hẹn là thiếu đáng tin cậy.

Trong một loạt nghiên cứu, các nhà tâm lý học Amanda Forest và David Kille từ Đại học Pittsburgh đã đặt những người tham gia thí nghiệm vào các môi trường bất ổn như bàn làm việc lung lay, đệm ghế không vững, hoặc thậm chí khiến họ đứng trên một chân trong khi cân nhắc về những đối tượng tiềm năng làm bạn đời. Kết quả cho thấy, những phẩm chất họ mong muốn ở bạn đời thay đổi tùy thuộc vào sự ổn định của tư thế.

Hơn thế nữa, càng ở trong tư thế không vững, họ càng thiếu tự tin rằng mối quan hệ sẽ bền lâu. “Nếu bạn gặp ai đó trên tàu lượn siêu tốc, rất có thể bạn sẽ cảm nhận người đó là thiếu những nét tính cách ổn định – dù bạn đang khao khát sự ổn định hơn bao giờ hết,” Forest giải thích.

Phát hiện rằng những trải nghiệm thể chất nhỏ nhặt không chỉ ảnh hưởng đến cách ta nhìn nhận người khác mà còn cả sở thích của ta đối với họ trở nên đặc biệt quan trọng, bởi vì “việc lựa chọn bạn đời thường được xem như một quá trình phản ánh mục tiêu dài hạn, chứ không phải là nhu cầu tâm lý nhất thời,” Kille chia sẻ.

Hơn nữa, sở thích trong việc chọn bạn đời có thể thay đổi bởi trạng thái tâm lý tạm thời do môi trường xung quanh tạo ra. Ví dụ, nếu gặp ai đó ở một nơi bẩn thỉu, bạn có thể thấy họ thiếu đạo đức. Kille dẫn ra một nghiên cứu được công bố trên tạp chí Personality and Social Psychology Bulletin, trong đó những người tham gia đánh giá mức độ sai trái về đạo đức của người khác khi họ đang ở trong một căn phòng sạch sẽ, bừa bộn, hoặc xịt đầy mùi khó chịu, hay khi xem một đoạn video về một nhà vệ sinh dơ bẩn. Kết quả, những người xem video nhà vệ sinh tỏ ra gay gắt hơn về mặt đạo đức so với nhóm còn lại.

Tương tự, cảm giác ấm áp về mặt vật lý cũng ảnh hưởng đến những ấn tượng đầu tiên. Các nhà tâm lý học Lawrence Williams từ Đại học Colorado và John Bargh từ Đại học Yale phát hiện ra rằng, những người cầm cốc cà phê nóng, thay vì cà phê đá, đánh giá người đối diện là ấm áp và hào phóng hơn.

Kết quả này càng củng cố tầm ảnh hưởng sâu sắc của những trải nghiệm gắn bó từ thời thơ ấu, khi sự tiếp xúc thể chất ấm áp giữa trẻ sơ sinh và người chăm sóc đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển lành mạnh và đặt nền móng cho các mối quan hệ tin cậy ở tuổi trưởng thành.

Trong bài viết trên tạp chí Science, Bargh và Williams chỉ ra rằng các nhà thần kinh học đã phát hiện vùng insula – một khu vực nằm sâu trong vỏ não – xử lý cả nhiệt độ vật lý lẫn cảm giác ấm áp và sự tin tưởng trong các mối quan hệ. “Đánh giá ấm áp – lạnh lùng”“bước đầu tiên và ngay lập tức của người tiếp nhận thông tin xã hội khi xác định xem đối phương có thể được tin cậy như một người bạn hay ít nhất là không phải kẻ thù.” Cảm giác ấm áp từ môi trường xung quanh kích hoạt ký ức về những cảm xúc gắn liền với sự ấm áp, như sự tin tưởng và thoải mái, “nhờ những trải nghiệm đầu đời với người chăm sóc, những người đã mang lại hơi ấm, nơi trú ẩn, sự an toàn và nuôi dưỡng.”

Photo by Peter Yang

Ấn tượng đầu tiên không chỉ phụ thuộc rất nhiều vào những yếu tố ngẫu nhiên của môi trường và trải nghiệm trước đó, mà còn nông cạn một cách đáng kinh ngạc.

Ngay từ khi còn là nghiên cứu sinh tại Đại học New York, Alexander Todorov đã bị cuốn hút bởi tâm lý xã hội về khuôn mặt. Các nghiên cứu trước đó đã chỉ ra rằng, chỉ cần lướt nhìn một khuôn mặt cũng đủ để hình thành ấn tượng mạnh mẽ, thường dựa trên những yếu tố rất nhỏ như hình dáng các đường nét. Ví dụ, môi mỏng hay nếp nhăn quanh khóe mắt thường gợi lên hình ảnh một người thông minh, quyết đoán, và từng trải. Trong khi đó, những người có khuôn mặt “trẻ thơ” lại bị xem là yếu đuối, ngây thơ, và dễ phục tùng, nhưng đồng thời cũng chân thành, tốt bụng, và ấm áp.

Nghiên cứu cho thấy, vẻ đẹp ngoại hình thường được gắn với sự thông minh và năng lực – trong khi nét nam tính được đồng nhất với sự thống trị. Đặc biệt, một khuôn mặt càng giống với khuôn mặt của người đang nhìn thì họ càng có xu hướng thích nó.

Sau này, khi chuyển đến Đại học Princeton, Todorov – lúc này đã là một chuyên gia tâm lý trong lĩnh vực công chúng – tiến hành một nghiên cứu lớn về kết quả bầu cử. Với cường độ của các phương tiện truyền thông ngày nay, ông tự hỏi liệu hình ảnh – vốn kích thích “những đánh giá nhanh chóng, thiếu suy xét, chỉ dựa vào khuôn mặt” – có ảnh hưởng nhiều hơn đến số phiếu bầu so với những gì một ứng viên thực sự tin tưởng hoặc phát biểu, bất chấp hàng triệu đô la chi cho các chiến dịch quảng bá.

Các tình nguyện viên được yêu cầu đánh giá hình ảnh của các ứng viên quốc hội trước đây về mức độ năng lực. Kết quả cho thấy, những ứng viên được đánh giá là có vẻ ngoài năng lực hơn đã chiến thắng tới 71,6% trong các cuộc đua Thượng viện và 66,8% tại Hạ viện – một tỷ lệ cao vượt xa sự ngẫu nhiên. Duy nhất đặc điểm năng lực được truyền tải qua hình ảnh đã có ảnh hưởng lớn hơn nhiều so với tất cả các yếu tố khác cộng lại.

“Không có bằng chứng thuyết phục nào cho thấy những suy luận về tính cách từ ngoại hình là chính xác,”Todorov báo cáo trên tạp chí Science. Ông dẫn lại một câu chuyện từ hồi ký của Darwin: Darwin suýt bị từ chối cơ hội tham gia chuyến hành trình lịch sử trên tàu Beagle – nơi ông thực hiện những quan sát quan trọng dẫn đến thuyết tiến hóa – chỉ vì… chiếc mũi. Dường như thuyền trưởng không tin rằng một người có chiếc mũi như vậy sẽ đủ năng lượng và quyết tâm.

Trong các nghiên cứu tiếp theo, Todorov phân tích sâu hơn về ấn tượng đầu tiên bằng cách sử dụng máy tính để tạo ra các khuôn mặt thay đổi ngẫu nhiên từng chi tiết nhỏ. Từ hàng trăm hình ảnh khuôn mặt, ông điều chỉnh các đặc điểm như chiều dài, chiều rộng, và các kích thước khác để tạo ra những ấn tượng khác nhau về sự đáng tin cậy, sự hung hăng, tính thống trị, sự hấp dẫn, và mức độ dễ mến.

Kết quả cho thấy, ấn tượng về một cá nhân có thể thay đổi theo ngữ cảnh. Trong một nghiên cứu gần đây đăng trên Psychological Science, Todorov nhận thấy rằng các đánh giá về năng lực và thậm chí cả sức hấp dẫn thay đổi nhiều hơn giữa những bức ảnh gần giống nhưng không hoàn toàn giống hệt nhau của cùng một người, so với các bức ảnh của những người khác nhau. Chỉ cần thay đổi góc máy ảnh, tâm trạng của người đó, hoặc tình trạng ngủ đủ giấc hay không, ấn tượng cũng đã khác biệt.

Phần lớn giới tâm lý học xem ảnh chân dung như đại diện chính xác của một cá nhân, Todorov nhận xét, nhưng “những gì chúng tôi đã chứng minh là điều mà những người trong lĩnh vực chỉnh sửa hình ảnh đã biết từ lâu.”

Ấn tượng đầu tiên đặc biệt không đáng tin khi có một người mắc chứng ái kỷ trong phòng. Những người ái kỷ rất khó để đánh giá đúng. Họ tạo ấn tượng ban đầu vô cùng tốt. Tuy nhiên, “hào quang đó không kéo dài,” nhà tâm lý học Delroy Paulhus từ Đại học British Columbia chia sẻ.

Trong một nghiên cứu nổi tiếng, nhà tâm lý học Paulhus đã tập hợp các nhóm từ bốn đến sáu sinh viên gặp nhau bảy lần, mỗi lần kéo dài 20 phút. Ở buổi đầu tiên, ông xác định ai trong nhóm là người thích khoe khoang – một dấu hiệu rõ ràng của chủ nghĩa ái kỷ – đồng thời để các thành viên trong nhóm đánh giá lẫn nhau. Trong sáu buổi đầu, những người ái kỷ chiếm được cảm tình: họ được nhận xét là dễ chịu, tự tin, và có năng lực.

Nhưng đến buổi thứ bảy, tình hình đảo chiều. Hầu như mọi người đều nhận ra bộ mặt thật của những người ái kỷ – những kẻ tự tâng bốc bản thân, thường xuyên phóng đại khả năng và tài năng của mình.

Dẫu vậy, ngay cả khi ấn tượng tốt đẹp ban đầu dần tan biến, chủ nghĩa ái kỷ vẫn như con dao hai lưỡi. Trong khi người ái kỷ khó giữ được sự tôn trọng từ bạn bè, họ lại không bao giờ lung lay niềm tin mãnh liệt vào giá trị – vốn bị thổi phồng – của bản thân. Chính sự tự tin thái quá ấy mang lại cho họ một nguồn năng lượng đặc biệt và sự kiên trì trước khó khăn.

Và với mỗi lần gặp gỡ mới, những người ái kỷ lại có cơ hội gây ấn tượng một lần nữa. Chủ nghĩa ái kỷ có thể không phải là phẩm chất lý tưởng cho một mối quan hệ lâu dài hay công việc nhóm, nhưng họ lại tỏa sáng trong những cuộc chơi ngắn hạn – khi chinh phục người yêu mới hoặc trong các công việc như bán hàng, nơi một cú đánh nhanh có thể quyết định tất cả.

“Ấn tượng đầu tiên là những đánh giá sơ bộ, mang tính bản năng – tốt hay xấu, nên tiếp cận hay tránh xa,”giáo sư tâm lý học danh tiếng David Funder tại Đại học California, Riverside, nhận định. “Nó không phải là vô dụng, và đa số chúng ta khá giỏi trong việc này.”

Thực tế, ông nhấn mạnh, “những người không thể làm được điều đó thường bị xem là tự kỷ. Nó có thể cứu mạng chúng ta. So với tung đồng xu để đưa ra quyết định, dựa vào ấn tượng đầu tiên vẫn tốt hơn. Nhưng tất nhiên, nó còn thô sơ.”

Dù không phải lúc nào cũng là vấn đề sinh tử, bạn vẫn có thể tránh được rắc rối nếu không đi phỏng vấn xin việc bằng đôi giày cao gót lảo đảo, không mang cà phê đá vào một cuộc đàm phán kinh doanh, hay không đi dạo trên vỉa hè gập ghềnh trong buổi hẹn hò đầu tiên.

Quy luật đảo ngược

Ngay cả khi không quyết định vận mệnh tình cảm của bạn, ấn tượng đầu tiên vẫn có thể ảnh hưởng đến nhiều khía cạnh khác trong cuộc sống – từ cách bạn thể hiện trong buổi phỏng vấn xin việc đến việc có kết bạn được trong những buổi tiệc xã giao hay không.

Trong một loạt nghiên cứu nổi tiếng được thực hiện cách đây một thập kỷ, nhà tâm lý học Mahzarin Banaji tại Đại học Harvard đã chỉ ra rằng những đánh giá tức thời có thể vẫn âm thầm tác động đến chúng ta, ngay cả khi ta nghĩ rằng mình đã vượt qua chúng.

Tuy nhiên, dù những ấn tượng vô thức xuất hiện nhanh và không chủ ý, chúng ta không phải những cỗ máy vô tri. Theo nhà tâm lý học Melissa Ferguson, người đứng đầu Phòng thí nghiệm Tự động hóa tại Đại học Cornell, con người vẫn có khả năng linh hoạt. Bà đặc biệt quan tâm đến cách con người hình thành và thay đổi ấn tượng về người khác.

Nhân vật trung tâm trong nghiên cứu của bà là một anh chàng tên Bob. Trong các thí nghiệm, Ferguson giới thiệu Bob như một nhân vật hư cấu. Đôi khi, Bob được miêu tả là người tốt với hàng trăm hành động tử tế: giúp một phụ nữ xách đồ, tình nguyện làm việc ở nhà bếp từ thiện, hoặc cho bạn bè đi nhờ xe. Hầu hết mọi người đều có ấn tượng tốt về Bob ngay từ đầu. Nhưng khi được tiết lộ rằng Bob từng phạm một tội ác khủng khiếp liên quan đến trẻ em, ấn tượng tốt đẹp về anh ta lập tức tan biến.

Ở một kịch bản khác, Bob lại được mô tả là một người khá tệ: săn bắn trái mùa, quát mắng bạn gái nơi công cộng, hoặc từ chối giúp đỡ một đứa trẻ sửa xe đạp. Nhưng sau đó, người tham gia được cho biết Bob đã hiến tặng thận cho một người lạ. Kết quả là ấn tượng về Bob có cải thiện, nhưng không lật ngược hoàn toàn. “Họ nghĩ tốt hơn về anh ta, nhưng không bao giờ hoàn toàn thay đổi cái nhìn,” Ferguson giải thích. “Một thông tin cực kỳ tiêu cực có thể xóa tan ấn tượng tốt đẹp ban đầu, nhưng điều ngược lại không xảy ra. Để vượt qua một ấn tượng xấu, cần nhiều hơn thế.”

Tuy nhiên, có một cách để xóa bỏ ấn tượng tiêu cực: đó là khi ta nhận ra rằng mình đã hiểu sai ngay từ đầu. Ferguson đưa ra ví dụ về một người đàn ông hư cấu tên Frances West. Ông bước qua bùn lầy, tiến về ngôi nhà của người hàng xóm, mở cửa, làm đổ đồ đạc, rồi mang đi những món đồ quý giá. Người tham gia thí nghiệm cho rằng ông là một tên trộm và hình thành ý kiến rất tệ về ông. Nhưng nếu sau đó họ biết được ngôi nhà đang cháy và những món đồ quý giá thực ra là những đứa trẻ, thì cái nhìn sẽ hoàn toàn thay đổi. Trong trường hợp này, hành động xấu không thực sự tồn tại – đó chỉ là sự hiểu nhầm, và bằng chứng mới đã kể lại câu chuyện một cách hoàn toàn khác.

“Không phải lượng thông tin, mà là sức mạnh và giá trị chẩn đoán của thông tin mới là điều quan trọng,”Ferguson nhận xét. “Chẳng hạn, việc quát mắng bạn gái giữa đường không để lại ấn tượng sâu sắc bằng việc làm tổn thương một con vật nhỏ. Nếu bạn gây tổn hại đến một sinh vật vô tội, có thể sẽ chẳng còn cách nào để chuộc lại hình ảnh của mình.”

Nguồn: The 10-Second Take – Psychology Today

menu
menu