Chừng mực – Bí quyết sống cân bằng
Sức khỏe, hạnh phúc và thành công đều xoay quanh một nguyên tắc đơn giản: mọi thứ cần có sự chừng mực.
Hãy tưởng tượng một đứa trẻ đang ngấu nghiến cả túi kẹo lớn hoặc hò hét chơi bóng trong nhà ngay cạnh chiếc tủ đầy đồ sưu tập quý giá. Người lớn trong phòng sẽ chẳng mấy chốc thốt lên: "Chuyện này rồi sẽ chẳng kết thúc tốt đẹp đâu." Với đứa trẻ, câu nói ấy thật phiền toái. Theo logic của nó, tất cả đang rất vui vẻ, và chẳng có lý do nào khiến niềm vui này trở nên tồi tệ! Nhưng chỉ ít lâu sau, cơn đau bụng sẽ kéo đến, hoặc quả cầu tuyết yêu thích của bà sẽ rơi xuống sàn vỡ tan. Khi ấy, có thể nói đứa trẻ đã đạt đến đỉnh cao của trải nghiệm. Một nhà nghiên cứu nếu ghi lại hiện tượng này có lẽ sẽ vẽ nó thành một biểu đồ hình chữ U ngược: Hiệu ứng tích cực từ một trải nghiệm tăng dần cho đến khi đạt cực điểm, và sau đó nhanh chóng trở nên tiêu cực.
Trong cuộc sống, chúng ta cũng gặp hiện tượng này. Khi công việc trở nên nhàm chán, bạn thấy mình ì trệ, lười biếng, thiếu động lực. Nhưng ở thái cực đối diện, khi bị áp lực ngập đầu hoặc rơi vào khủng hoảng cảm xúc, não bộ của bạn tràn ngập các hormone căng thẳng. Lúc này, khả năng tư duy, học hỏi bị suy giảm, và về lâu dài, cả hệ miễn dịch lẫn thần kinh đều bị tổn hại. Ngược lại, khi bạn đang hứng khởi tham gia một dự án – một chút lo lắng xen lẫn hưng phấn – bạn đã đạt đến điểm cân bằng lý tưởng. Lượng adrenaline và cortisol vừa đủ sẽ tăng cường sự tập trung và hiệu suất của bạn; chúng bảo vệ cơ thể thay vì gây hại như khi vượt ngưỡng. Ở trạng thái đó, bạn như đang trôi trong dòng chảy của chính mình, đứng trên đỉnh chữ U ngược – nơi mọi thứ trở nên hoàn hảo.
Hiện tượng này được gọi là “Hiệu ứng Cô bé tóc vàng”: trẻ sơ sinh thường tự nhiên tìm đến những trải nghiệm không quá đơn giản cũng không quá phức tạp. Các nhà tiếp thị cũng hiểu rõ nguyên tắc này: khi đứng trước ba mức giá – thấp, trung bình và cao – hầu hết người mua thường chọn mức trung bình.
Thế nhưng, xã hội ngày nay lại ca ngợi những thái cực. Câu nói “Không bao giờ là quá giàu hay quá gầy” vẫn được truyền tai mãi. Chúng ta không còn dừng lại ở việc xem một tập phim yêu thích, mà “cày” liền cả mùa, bỏ mặc giấc ngủ lẫn những nhu cầu cơ bản. Những người mê bất động sản có thể trầm trồ trước các dinh thự xa hoa với 21 phòng tắm hoặc ngạc nhiên với những căn nhà siêu nhỏ chỉ rộng 10m². Chuyện thưởng thức một chiếc burger khổng lồ 1.300 calo hay ly kem lừng danh gần 1.900 calo không còn là điều xa lạ. Trong khi đó, ở một thái cực khác, có những người khiếp sợ chỉ với một thìa đường hoặc một gram gluten. Cảm xúc của chúng ta cũng chạy theo lối cực đoan: mọi việc xảy ra hoặc là “siêu tuyệt vời”, hoặc là “tồi tệ nhất từ trước tới nay.”
“Chúng ta có sẵn một thuật toán ‘nhiều hơn thì tốt hơn’ trong đầu,” Glenn Geher, nhà tâm lý học tại SUNY New Paltz, nhận định. “Con người tiến hóa để thích những món ăn béo ngậy, nhưng nếu ăn quá nhiều thì sẽ không tốt. Có nhiều chất hoặc kích thích rất có lợi trong một giới hạn nhất định, nhưng khi vượt qua ngưỡng, chúng sẽ trở thành tác nhân gây hại. Chúng ta không tự nhiên điều chỉnh được bản thân, vì trong môi trường sống thời tiền sử, điều đó không cần thiết.”
Chẳng hạn, ngày nay, nhiều người hầu như không vận động, điều này không có gì đáng ngạc nhiên bởi tổ tiên của chúng ta cũng không phải ép mình tập thể dục một giờ mỗi ngày. “Khuynh hướng thích hợp hơn khi đó là di chuyển càng ít càng tốt để tiết kiệm năng lượng,” Geher giải thích. “Và điều đó không sao, bởi lối sống du mục đã giúp họ vận động nhiều hơn gấp bội so với người Mỹ hiện đại.”
Bên cạnh đó, tư duy ngắn hạn cũng khiến chúng ta khó kiềm chế bản thân, theo Art Markman, giáo sư tâm lý học tại Đại học Texas, Austin. Tất cả chúng ta đều phần nào bỏ qua lợi ích dài hạn, và những người bốc đồng càng có xu hướng này mạnh mẽ hơn. “Nhiều hoạt động mà ta lạm dụng trong phút chốc sẽ gây hậu quả tiêu cực trong tương lai,” ông nói. “Không có điếu thuốc nào là điếu thuốc giết chết bạn, nhưng việc tích tụ độc tố theo thời gian lại dẫn đến hậu quả sức khỏe nghiêm trọng. Hệ thống động lực của chúng ta không tính đến điều đó. Nó chỉ nghĩ: ‘Việc này đang mang lại cảm giác rất tuyệt, vậy hãy làm đi.’”
Ngay cả những hành vi tốt trong một số trường hợp, hoặc mang lại niềm vui ngắn hạn, như kiểm tra email, cũng dễ dàng trở thành thói quen ám ảnh. Chỉ cần triển vọng về một kích thích tích cực, hành vi thái quá đã có thể nhen nhóm.
Con người chúng ta vốn tiến hóa để nhìn mọi thứ theo kiểu trắng – đen, thay vì những sắc thái xám mờ. Trong những tình huống phải ra quyết định sống còn, các phân loại rõ ràng rất hữu ích; ngay cả ở những tình huống ít cấp bách hơn, việc xếp mọi người vào từng “hộp” cũng khá tiện lợi. Đơn giản hơn nhiều khi nói: “Người yêu cũ của tôi là kẻ ái kỷ kinh khủng,” thay vì: “Đúng là anh ấy có xu hướng ái kỷ khá cao, nhưng tôi cũng góp phần tạo nên những căng thẳng dẫn đến việc anh ấy rời đi.” Những đánh giá tinh tế đòi hỏi nỗ lực về mặt trí óc, trong khi những nhãn mác cực đoan lại nhanh gọn và dễ áp dụng hơn.
Hành vi cân bằng
Quan điểm phổ biến của phong trào tâm lý học tích cực cho rằng việc phát huy điểm mạnh và nuôi dưỡng những cảm xúc tích cực luôn là mục tiêu đáng theo đuổi. Tuy nhiên, với bản chất con người vốn phức tạp, Adam Grant (Đại học Pennsylvania) và Barry Schwartz (Đại học Swarthmore) lại nghi ngờ rằng điều này luôn đúng. Trong một bài tổng hợp nghiên cứu năm 2011 trên Perspectives on Psychological Science, họ đã tìm thấy bằng chứng cho thấy việc không ngừng gia tăng những “cảm xúc tích cực” và trạng thái lý tưởng không phải lúc nào cũng mang lại lợi ích.
Lấy ví dụ về khái niệm sống thật với bản thân (authenticity). Giả tạo hay nói dối rõ ràng không phải là cách sống đúng, nhưng những người khẳng định mình rất chân thật nơi công sở thường nhận đánh giá hiệu suất thấp hơn và ít được thăng tiến hơn. Quá đề cao việc "là chính mình" có thể kìm hãm sự thay đổi và phát triển, thậm chí dẫn đến việc tiết lộ quá nhiều thông tin cá nhân nhạy cảm cho người khác. Thay vào đó, Grant khuyên rằng hãy cố gắng trở thành phiên bản tốt hơn của chính mình, thay vì ép buộc bản thân phải phơi bày hoàn toàn con người bên trong.
Đây là bài học bắt nguồn từ trí tuệ cổ xưa. Theo quan điểm của Aristotle, việc bộc lộ quá ít một phẩm chất nào đó, chẳng hạn như lòng dũng cảm (hèn nhát), là điều không tốt; nhưng bộc lộ quá mức cũng dẫn đến một khuyết điểm khác (liều lĩnh). Không làm hài lòng người khác đủ thì bị xem là cộc cằn, nhưng nếu làm hài lòng quá mức lại trở thành khúm núm. Cái ta cần chính là sự ngọt ngào nằm ở điểm giữa – vừa phải, không quá ít, không quá nhiều.
Sự điều độ cũng rất quan trọng trong nội tâm. Một tính cách luôn vui tươi, rạng rỡ đôi khi có thể gây hại. Những người quá vui vẻ thường có xu hướng chấp nhận rủi ro, dẫn đến mức thu nhập thấp hơn và tuổi thọ ngắn hơn. Tương tự, cảm xúc tích cực ở mức độ vừa phải có thể thúc đẩy sự sáng tạo, nhưng khi vượt ngưỡng, hiệu quả lại giảm sút. Một sự tự tin thái quá có thể dẫn đến các vấn đề về công việc, sức khỏe và mối quan hệ. Ngay cả lòng hào phóng và sự đồng cảm cũng mang lại tác dụng phụ khi được “phát tán” quá mức. Quá hào phóng sẽ tiêu tốn thời gian và năng lượng của người cho đến kiệt sức; còn sự đồng cảm quá độ có thể làm lu mờ khả năng phán đoán, khiến người đồng cảm phải lùi bước để xử lý căng thẳng của chính mình, hoặc dẫn đến những hành vi hy sinh gây hại nhiều hơn là giúp ích.
Trong cuốn sách The Upside of Your Dark Side, các nhà tâm lý học Robert Biswas-Diener và Todd Kashdan lập luận rằng bạn sẽ có một cuộc sống ý nghĩa và trọn vẹn hơn nếu biết tận dụng toàn bộ phổ cảm xúc, bao gồm cả những cảm xúc bị xem là “không tốt” như sự tức giận. Một nghiên cứu được xuất bản trên Journal of Anxiety Disorders cho thấy những người hay lo âu xã hội có nhiều cơn giận hơn người khác, và họ cũng có xu hướng kìm nén cơn giận đó nhiều hơn.
Kashdan, giáo sư tâm lý học tại Đại học George Mason, giải thích rằng mục đích không phải là không bao giờ kìm nén giận dữ. Ông nhấn mạnh, “Có rất nhiều bằng chứng cho thấy việc liên tục kìm nén cảm xúc một cách phản xạ là có hại. Tuy nhiên, bộc lộ cảm xúc không kiểm soát, bốc đồng và thiếu tinh tế cũng gây ra những tổn thương tương tự.”
Việc chối bỏ những cảm xúc khó chịu – một dạng “thuốc giảm đau” mà xã hội ngày nay rất ưa chuộng – thực chất là chúng ta đang từ chối cơ hội học hỏi từ những dấu hiệu quan trọng. Kashdan cho rằng bước đầu tiên để điều hòa cảm xúc là phân tích những định kiến của chính mình và tìm ra cách biểu đạt cảm xúc hiệu quả nhất trong từng tình huống cụ thể. “Bạn phải nhận ra các ‘dấu ấn hành vi’ của chính mình. Đâu là cảm xúc bạn dị ứng? Hãy nhớ rằng bối cảnh văn hóa và xã hội sẽ thay đổi lợi ích cũng như chi phí của từng đặc điểm tính cách.”
Khi tức giận, bạn không cần phải bộc phát ở bất cứ nơi nào bạn đang đứng, Kashdan nói. “Nhưng điều này không có nghĩa là bạn cần phải trấn tĩnh bản thân. Thay vào đó, hãy nhận thức rằng cơn giận là tín hiệu cho thấy có điều gì đó hoặc ai đó đang cản trở mục tiêu của bạn. Có thể đó là một tín hiệu sai, nhưng nếu bạn nghĩ nó chính xác, hãy hành động hiệu quả để loại bỏ rào cản đó.” Chẳng hạn, các quyền dân sự không thể đạt được nếu thiếu đi sự phẫn nộ chính đáng. “Sự tức giận là một công cụ mà bạn cần có trong ‘dao đa năng’ tâm lý của mình. Nếu bạn không hiểu và trân trọng cả động cơ vị kỷ lẫn vị tha của người khác, bạn sẽ không thể thích nghi tốt. Việc sở hữu cả hai mặt cảm xúc sẽ giúp bạn linh hoạt xử lý nhiều tình huống và con người khác nhau,” ông bổ sung.
Tình yêu chừng mực
Tình yêu tự nhiên thường mang tính cực đoan. Nhiều nghiên cứu hóa học thần kinh cho thấy rằng trong giai đoạn “say nắng” ban đầu, cơ thể bạn tiết ra lượng lớn norepinephrine, dopamine và testosterone, khiến bạn phấn khích và bị thu hút bởi người yêu mới như thể họ là một loại chất gây nghiện. Đây là cơ chế tiến hóa để đảm bảo chúng ta gắn kết và duy trì nòi giống – một nhiệm vụ quan trọng đến mức không thể chấp nhận sự nửa vời.
Tuy nhiên, theo thời gian (khoảng hai năm), sự say đắm thường chuyển sang giai đoạn “gắn bó”, khi vasopressin và oxytocin tăng lên, mang lại cảm giác an toàn và mãn nguyện thay vì đam mê mãnh liệt.
Tuy vậy, một số người – đặc biệt là những ai yêu đơn phương – vẫn mắc kẹt trong trạng thái “si mê” (limerence): một sự hưng phấn đi kèm lo âu và day dứt, có thể kéo dài nhiều năm trời. Albert Wakin, chuyên gia về limerence tại Đại học Sacred Heart, cho rằng trạng thái này là sự kết hợp giữa rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD) và chứng nghiện – nhưng thay vì nghiện một chất, lại nghiện một người. Ông cho biết, khoảng 5% số người mắc limerence gặp khó khăn trong việc thoát ra, đến mức không thể hoạt động hiệu quả trong cuộc sống hàng ngày, thậm chí dành tới 95% thời gian để nghĩ về người mình yêu. Mạng xã hội càng tiếp tay cho tình yêu cực đoan này, khi nó cung cấp những cập nhật và hình ảnh liên tục về người đã chiếm trọn tâm trí họ.
Một nghiên cứu đã chỉ ra rằng những người bị từ chối trong giai đoạn say đắm của tình yêu thường phải trải qua những cảm giác mất mát và trầm cảm sâu sắc – nỗi đau mà hầu hết chúng ta đều từng nếm trải. Thậm chí, họ có thể bị đẩy đến mức thực hiện những hành vi cực đoan nhất như tự tử hoặc giết người. Các vùng não được kích hoạt ở những người chìm đắm trong tình yêu không thành giống hệt như ở những người nghiện cocaine, điều này giúp lý giải vì sao những người bình thường, ổn định có thể trở nên ám ảnh đến mức không kiểm soát được khi bị từ chối.
Tuy chưa phải là sự chối bỏ thẳng thừng, nhưng sự lập lờ, nửa vời lại là thứ tiếp sức mạnh mẽ cho cái gọi là “chuyện tình yêu không hồi đáp.” Trong cuốn Unrequited: Women and Romantic Obsession (Tình yêu không hồi đáp: Những người phụ nữ và nỗi ám ảnh lãng mạn), nhà báo Lisa Phillips kể về chính trải nghiệm của mình khi tin chắc rằng câu chuyện tình yêu bi thương của cô sẽ có một cái kết đẹp. Lisa đã yêu một người đàn ông vốn đã có bạn gái, và anh ta cứ chần chừ không dứt khoát liệu có nên rời bỏ mối quan hệ cũ để đến với cô hay không. Lisa chìm trong nỗi ám ảnh về anh, không thể ngừng gọi điện, nhắn tin, hay thậm chí theo dõi anh.
“Tôi chịu trách nhiệm cho hành vi cực đoan của mình,” Phillips chia sẻ. “Tôi cũng chịu trách nhiệm vì đã chấp nhận việc anh ta đối xử tệ bạc với mình. Bây giờ tôi hiểu rằng cảm xúc mãnh liệt dành cho một ai đó không đồng nghĩa với việc bạn có thể có một mối quan hệ lâu dài viên mãn. Điều quan trọng là phải tự hỏi tại sao bạn yêu một người không yêu mình với cùng mức độ như vậy.”
Ở một thái cực khác, có những người chọn né tránh tình yêu, dù họ vẫn cần đến nó. Khát khao được thuộc về, được gần gũi với người khác là điều phổ quát, nhưng những người có kiểu gắn bó “né tránh” (trái ngược với “an toàn” hoặc “phụ thuộc”) thường đẩy người khác ra xa mỗi khi họ cảm thấy sự độc lập của mình bị đe dọa. Kiểu gắn bó này được hình thành từ thời thơ ấu, và nó phản ánh cách chúng ta thường phản ứng trước sự hiện diện của những người bạn đời hoặc đối tượng tiềm năng.
Các nhà nghiên cứu ước tính khoảng 20% dân số có xu hướng gắn bó theo kiểu né tránh. Theo bác sĩ tâm thần Amir Levine và nhà trị liệu Rachel S.F. Heller – tác giả cuốn Attached, những người có xu hướng né tránh nên ghép đôi với những người có kiểu gắn bó “an toàn,” bởi một người yêu quá lo âu sẽ chỉ khiến mối quan hệ thêm căng thẳng. Nhận thức rõ về các kiểu hành vi của bản thân có thể giúp ta, theo thời gian, vượt qua hoặc ít nhất là chung sống hòa hợp với những khuôn mẫu gắn bó đã ăn sâu trong tâm trí.
Để phản bác lại lý tưởng phi thực tế về một mối quan hệ bền chặt luôn đầy ắp đam mê và sự hy sinh anh hùng, giáo sư triết học Aaron Ben-Zeév (Đại học Haifa) cổ xúy khái niệm “tình yêu nhẹ nhàng” – một tình yêu được đánh dấu bởi sự bình yên, quan tâm, tử tế và trung thành. Đó là liều thuốc tinh thần từ những niềm vui giản đơn, nhỏ bé nhưng thiết yếu. Đôi khi, sự điều độ chỉ thực sự đạt được qua thời gian, khi những đam mê mãnh liệt dần được cân bằng bởi những khoảnh khắc yên bình – hoặc ít nhất là những ký ức đẹp về thuở ban đầu rạo rực.
Illustration by John Gall
Sự điều độ trong những ham muốn
Bí quyết của sự điều độ chính là không bị ám ảnh bởi một khía cạnh duy nhất trong cuộc sống mà thay vào đó, hãy nhìn nhận tổng thể để đánh giá sự cân bằng giữa các ưu tiên. Ví dụ, sự bận tâm hoàn toàn vào chuyện ăn uống không chỉ là điều cực đoan mà còn không hiệu quả.
“Những gì bạn ăn và uống không phải là tất cả khi nói về sức khỏe và tuổi thọ,” Susan McQuillan, một chuyên gia dinh dưỡng và nhà văn về ẩm thực chia sẻ. “Tập thể dục cũng quan trọng, cũng như các thói quen sống khác, mức độ căng thẳng và tiền sử gia đình. Một số người đặt quá nhiều kỳ vọng vào việc kiểm soát mọi thứ thông qua thực phẩm, nhưng ai cũng biết có những người sống thọ đến 90 tuổi dù mỗi ngày chỉ ăn thực phẩm chế biến sẵn.”
“Nguyên tắc kinh điển của các chuyên gia dinh dưỡng là: không có thực phẩm tốt hay xấu, và bạn nên ăn mọi thứ một cách vừa phải,” McQuillan nói. “Có những món ăn không phải là nguồn dinh dưỡng tốt nhất, nhưng vẫn cung cấp năng lượng. Khi con gái tôi còn nhỏ, chúng tôi thường ăn uống lành mạnh phần lớn thời gian, nên tôi chẳng cần phải lo lắng về việc con bé ăn gì ở tiệc sinh nhật.”
Nghe có vẻ hợp lý, nhưng ham muốn của con người lại dễ vượt kiểm soát trong một môi trường đầy rẫy những món ăn vặt gây nghiện như bánh Cheetos hay Oreo, có thể mua ở bất kỳ góc phố nào. Việc lên kế hoạch và chế biến những bữa ăn cân bằng thường khó khăn hơn nhiều so với việc chọn một chế độ ăn cực đoan, như ăn toàn thực phẩm chế biến sẵn hoặc theo một chế độ “lành mạnh” nghiêm ngặt, giúp giảm bớt áp lực phải lựa chọn. Những thực phẩm được gắn mác “tốt cho sức khỏe” đôi khi lại không hề như vậy: Một tủ lạnh đầy các chai nước ép nguyên chất nhìn rất hấp dẫn, nhưng tất cả những thứ “giải độc” đó thực chất có thể làm cơ thể bạn tràn ngập đường.
Dĩ nhiên, một kế hoạch ăn uống điều độ có thể tạo ra một chế độ ăn đa dạng, nhưng đôi khi lại kém lành mạnh hơn so với một chế độ ít đa dạng hơn tập trung vào rau quả và protein nạc. Một nghiên cứu năm 2015 tại Đại học Texas Health Science Center ở Houston cho thấy sự đa dạng trong chế độ ăn có thể liên quan đến chất lượng dinh dưỡng thấp hơn và sức khỏe trao đổi chất tệ hơn. Nhưng nếu bạn biết rằng mình không thể tuân theo chế độ “lành mạnh hoàn toàn” mọi lúc, thì việc ăn uống đa dạng ít nhất cũng giúp kiểm soát được những cơn thèm ăn đồ ăn vặt.
Chiến lược trung dung của McQuillan dành cho những người mê đồ ngọt là không bao giờ mua sẵn bánh kẹo, nhưng cô vẫn tự làm bánh từ đầu. “Đừng tự ép mình từ bỏ hoàn toàn đồ ngọt, bởi điều đó sẽ chỉ khiến bạn nổi loạn và ăn quá mức khi không kiểm soát được,” cô nói. Một nghiên cứu về những người ăn kiêng đã xác nhận lời khuyên này: những người được phép có một “ngày gian lận” để thưởng thức món mình thích có động lực hơn, tuân thủ chế độ ăn tốt hơn, và tâm trạng cũng thoải mái hơn trong suốt quá trình.
Điều độ và tỉnh thức luôn song hành cùng nhau. Một nghiên cứu năm 2016 do Jennifer Daubenmier dẫn đầu tại Đại học California, San Francisco, cho thấy rằng việc tập trung vào khoảnh khắc hiện tại và thưởng thức món ăn một cách chậm rãi giúp con người đưa ra những lựa chọn sáng suốt hơn và nhận biết rõ khi nào mình đói, no hoặc đã thỏa mãn.
Còn với rượu bia – một chất kích thích khiến con người khó kiểm soát – việc uống điều độ càng trở nên thách thức. Tuy nhiên, việc kiêng khem hoàn toàn lại quá khắc nghiệt với một số người và dễ dẫn đến thất bại – chỉ một lần tái phạm nhỏ cũng có thể kéo theo sự sa ngã nghiêm trọng. Một bài tổng quan toàn diện trên tạp chí Clinical Psychologyvề phương pháp “giảm tác hại” (harm reduction) – trong đó các nhà trị liệu làm việc với những người nghiện rượu để giới hạn lượng rượu họ uống – đã cho thấy phương pháp này hiệu quả với một số người, vì nó không nhìn nhận việc uống rượu theo lối trắng đen, tất cả hoặc không gì cả.
Thói Quen Làm Việc Cân Bằng
Người ta vẫn thường tin rằng giấc mơ Mỹ – làm việc hết sức mình – chính là chìa khóa dẫn đến thành công. Nhưng theo phân tích của Grant và Schwartz về hiện tượng “đường cong hình chữ U ngược”, những minh chứng mạnh mẽ cho thấy sự điều độ cũng mang lại kết quả đáng kể trong công việc. Chẳng hạn, khái niệm “hướng đến việc học tập” – tức mức độ các sếp khuyến khích nhân viên chủ động học hỏi và phát triển năng lực – đã được nghiên cứu. Một khảo sát mà Grant và Schwartz xem xét ở một tập đoàn nằm trong danh sách Fortune 100 chỉ ra rằng các đội ngũ quản lý với mức độ “hướng đến việc học” trung bình (không quá cao hay thấp) lại đạt được lợi nhuận cao nhất.
Trong một nghiên cứu khác do Ellen Langer, từ Đại học Harvard, dẫn đầu, các nhà nghiên cứu đã yêu cầu người tham gia dịch câu từ một ngôn ngữ giả định mới. Kết quả cho thấy những người luyện tập vừa phải trước đó mắc ít lỗi hơn so với những người hoặc không luyện tập, hoặc tập luyện quá mức. Thực tế, khi kiến thức chuyên môn quá cao, con người dễ bám chặt vào cách nhìn nhận truyền thống, khó đổi mới trong nhiều lĩnh vực như nghệ thuật, khoa học và chính trị. Hơn nữa, khi công việc quá phức tạp, nó làm tăng căng thẳng, kiệt sức và bất mãn. Thậm chí, tính cầu toàn quá mức có thể làm giảm hiệu quả công việc, đặc biệt trong những công việc đơn giản, nơi sự tỉ mỉ đôi khi lại không cần thiết.
Thời gian làm việc và cách chúng ta tận dụng thời gian đó cũng được nhiều nơi giám sát chặt chẽ. Một nhân viên ngân hàng trẻ vừa ăn trưa vừa làm việc trước màn hình máy tính có thể được coi là người chăm chỉ, trong khi đồng nghiệp vui đùa, trò chuyện cùng nhau trong phòng họp lại dễ bị đánh giá tiêu cực từ cấp trên. Tuy nhiên, Markman nhận xét, những nền văn hóa coi trọng mối quan hệ hơn thường cảm thấy khó chịu trước ý nghĩ phải ăn một mình trước máy tính. Thực tế, tương tác xã hội đã được chứng minh là giúp cải thiện tâm trạng và khơi nguồn sáng tạo, điều này có thể thúc đẩy hiệu suất làm việc sau giờ nghỉ trưa.
Markman cũng khuyến khích việc dành thời gian “không làm gì cả.” Ông chia sẻ: “Một phần của việc suy nghĩ sáng tạo là trải nghiệm những điều tưởng chừng như chẳng liên quan gì đến công việc hiện tại, nhưng lại đem đến những góc nhìn mới mẻ. Ngoài ra, một ngày làm việc kéo dài quá lâu sẽ lấn át những nguồn hạnh phúc khác trong cuộc sống, chẳng hạn như các mối quan hệ. Có nhiều nghiên cứu cho thấy tâm trạng tích cực dẫn đến hiệu quả và sáng tạo cao hơn. Vì vậy, khi bạn làm điều gì đó để tăng sự hài lòng trong cuộc sống, bạn đồng thời trở nên hiệu quả hơn trong công việc.”
Nhiều chuyên gia thành công vẫn dành sự linh hoạt và thời gian rảnh rỗi trong lịch trình của mình. Nhà văn Stephen King thường viết vào buổi sáng vài giờ, và buổi chiều có thể làm hoặc không làm việc tùy hứng. Ngay cả Charles Darwin cũng được cho là chỉ dành khoảng bốn giờ mỗi ngày cho các công việc nghiêm túc. Theo nhà khoa học thần kinh Josh Davis, tác giả cuốn Hai Giờ Kỳ Diệu (Two Awesome Hours), thậm chí lịch trình nhẹ nhàng hơn cũng đủ hiệu quả, miễn là các điều kiện – như không mệt mỏi hay đói bụng – được đảm bảo để đạt năng suất tối ưu.
Hình ảnh một người sáng tạo say mê làm việc đến mức không kịp uống ngụm nước nào có thể rất hấp dẫn, nhưng các nhà nghiên cứu chỉ ra sự khác biệt giữa đam mê “ám ảnh” và đam mê “hài hòa,” trong đó đam mê hài hòa luôn dẫn đầu. Scott Barry Kaufman, Giám đốc Khoa học tại Viện Tưởng Tượng thuộc Đại học Pennsylvania, giải thích rằng những người luôn bị “ám ảnh” bởi công việc có xu hướng cứng nhắc và khó buông bỏ. Thói quen này khiến họ dễ rơi vào tình trạng kiệt sức. Trong khi đó, đam mê hài hòa lại có mối liên hệ chặt chẽ với trạng thái vui vẻ khi được đắm chìm trong một hoạt động nào đó.
Dám Chấp Nhận Sự Trung Bình
Chọn cách sống ở mức trung dung đòi hỏi sự suy tính và lên kế hoạch. Markman, tác giả cuốn sách Thay Đổi Thông Minh (Smart Change), chỉ ra rằng đôi khi, bạn cần biến một số thứ trở nên khó tiếp cận hơn. Ông nói: “Hệ thống động lực rất giỏi trong việc dọn đường cho hành động. Khi bạn thèm kem, bạn sẽ trở nên nhạy bén hơn với bất kỳ thông tin nào liên quan đến việc có được nó. Khi tôi giảm cân cách đây 15 năm, tôi phát hiện ra rằng bạn không thể ăn kem nếu trong tủ lạnh không có kem.”
Markman áp dụng tư duy điều độ vào nhiều khía cạnh của cuộc sống. Ông và vợ có một thỏa thuận: họ không mang điện thoại vào nhà hàng để tránh bị cám dỗ kiểm tra chúng. Và nếu các con ông muốn ngồi ghế trước trên ô tô, chúng phải cất điện thoại đi để trở thành những người đồng hành thú vị.
Thay thế những thói quen xấu bằng thói quen tốt và xây dựng một lối sống lành mạnh dựa trên sự điều độ sẽ dễ dàng hơn nếu bạn có một động lực triết lý nền tảng. Nếu bạn coi trọng sự linh hoạt trong việc đặt mục tiêu và kết nối với những người thân yêu, sự chính xác trong cách suy nghĩ và cách nói, cũng như sự cảm thông trong việc đánh giá người khác; đồng thời bạn từ chối những suy nghĩ lười biếng, đơn giản hóa mọi chuyện, hay những hành động vô thức, thì bạn chính là người tin tưởng vào sức mạnh của sự trung dung.
Sự Điều Độ Trong Mọi Thứ, Thậm Chí Cả Sự Điều Độ
Mọi quy tắc tuyệt vời đều có những ngoại lệ, và đôi khi, sự cực đoan cũng có chỗ đứng của nó.
Khi nhà văn Samuel Johnson bước vào một bữa tiệc, có người hỏi ông: “Ông có uống chút rượu không?” Johnson đáp: “Tôi không thể chỉ uống một chút. Từ chối hoàn toàn với tôi dễ dàng hơn nhiều so với việc phải giữ chừng mực.” Câu chuyện này đã khiến Gretchen Rubin, tác giả cuốn Better Than Before, nhận ra hình ảnh của chính mình (dù “chất độc” của bà không phải rượu mà là đường). Từ đó, bà đưa ra khái niệm chia mọi người thành hai nhóm, vì mục đích tự phát triển bản thân: nhóm “từ chối hoàn toàn” (abstainers) và nhóm “điều độ” (moderators).
Rubin giải thích: “Sự khác biệt này liên quan đến cách con người cưỡng lại những cám dỗ mạnh mẽ, bởi ai cũng có thể điều độ với những cám dỗ yếu.” Bà thừa nhận mình thuộc nhóm từ chối hoàn toàn với đường, nhưng lại khá dửng dưng với khoai tây chiên.
Mọi người thường nghĩ rằng Rubin có ý chí mạnh mẽ để từ bỏ đường. Nhưng bà khẳng định: “Thực tế là tôi không đủ ý chí để chỉ ăn một chút đường. Vì vậy, sẽ dễ dàng hơn nếu tôi không ăn bất cứ thứ gì.” Việc cấm hoàn toàn giúp bà thoát khỏi những cuộc thương lượng nội tâm không ngừng về việc nên ăn bao nhiêu chiếc bánh kẹo, bánh brownies, hay cookies.
“Đây không phải là điều từng hiệu quả với một tỷ phú nào đó, mà là điều thực sự phù hợp với bạn.”
Nguồn: Moderation Is the Key to Life - Psychology Today