Đứa trẻ đóng vai người lớn

Khi cha mẹ đặt con cái vào vai trò người hòa giải, bạn bè và người chăm sóc, những vết thương để lại sẽ rất sâu. Nhưng sự chữa lành vẫn là điều có thể.
Tôi đến với việc nghiên cứu sự bỏ bê cảm xúc của trẻ em một cách tình cờ. Hơn một thập kỷ trước, tôi viết luận văn thạc sĩ về mối quan hệ giữa đời sống cá nhân và công việc của các nhà trị liệu tâm lý. Làm thế nào họ có thể giữ cho những đau khổ họ lắng nghe trong phòng khám không ảnh hưởng đến trạng thái cảm xúc của chính mình? Và làm thế nào họ ngăn những vấn đề cá nhân của mình tác động đến công việc trị liệu?
Trong các cuộc trò chuyện, tôi đã hỏi điều gì đã đưa họ đến với nghề này. Câu trả lời nhất quán của họ khiến tôi bất ngờ. Hầu như tất cả đều nói rằng việc hỗ trợ cảm xúc cho người khác đến với họ một cách tự nhiên; họ giỏi điều đó vì từ nhỏ họ đã quen với việc chăm sóc người khác, bắt đầu từ chính cha mẹ mình. Khi trò chuyện sâu hơn, tôi được biết về những hoàn cảnh gia đình khó khăn mà họ từng trải qua.
Những câu chuyện thời thơ ấu của họ luôn xoay quanh cảnh một người cha đánh đập mẹ, một người mẹ trầm cảm không được chẩn đoán, hay những cuộc xung đột triền miên giữa hai bậc phụ huynh. Công việc của họ khi còn nhỏ là bảo vệ và hỗ trợ cha mẹ bằng mọi cách có thể. Thế nên khi trưởng thành, họ chuyển hóa kỹ năng đặc biệt này thành công việc giúp đỡ nhiều người hơn nữa.
Một người tham gia nghiên cứu của tôi, Sadhika (45 tuổi vào thời điểm phỏng vấn), kể rằng cha mẹ cô cãi nhau mỗi ngày, về mọi thứ. Mẹ cô như một ngọn lửa hoang, cuốn phăng tất cả những gì trên đường bà đi qua. Bà ồn ào, luôn đòi hỏi từ những người xung quanh, và "hủy diệt" bất cứ ai dám phản đối. Trong khi đó, cha cô giống như một món đồ nội thất trong nhà – bất động, im lặng, chẳng thể bảo vệ ai. Đối với Sadhika, không thể nào mong ông bảo vệ cô và các em, vì chính ông cũng chỉ là một nạn nhân như bọn trẻ. Thế là cô buộc phải đứng ra điều hòa mẹ mình, che chở các em, quán xuyến việc nhà, và giữ cho gia đình không vỡ vụn. Mắc sai lầm không phải là lựa chọn – từ việc xử lý các mối quan hệ trong nhà cho đến sửa một chiếc vòi nước bị rò rỉ.
Sadhika đã trải qua sự "đảo ngược vai trò", một hiện tượng có thể xảy ra ở bất kỳ gia đình nào, khi cha mẹ dựa dẫm vào con cái để nhận sự chăm sóc vô điều kiện mà không hề có sự đền đáp xứng đáng. Một đứa trẻ bị cha mẹ biến thành chỗ dựa tinh thần thường phải trả giá bằng sự bất ổn và kìm hãm trong quá trình phát triển tâm lý của chính mình. Điều này không liên quan đến việc cha mẹ có yêu con hay không, mà là về hoàn cảnh cá nhân và xã hội đã khiến họ không thể nhận thức được nỗi bất an và gánh nặng khổng lồ mà đứa trẻ đang phải gánh chịu thay cho họ. Những bậc cha mẹ này không nhìn thấy rằng con mình đang gồng mình giữ hòa khí trong nhà, bảo vệ cha mẹ khỏi chính nhau, làm bạn tâm giao, làm nhà hòa giải với thế giới bên ngoài, làm cha mẹ của các em, và đôi khi còn phải gánh vác cả trách nhiệm kinh tế, y tế của gia đình.
Photo by Sol de Zuasnabar Brebbia/Getty
Khái niệm "đứa trẻ bị đảo ngược vai trò" lần đầu tiên xuất hiện trong tài liệu nghiên cứu vào cuối những năm 1960, khi một nhóm nhà tâm lý học ở Mỹ nghiên cứu cấu trúc gia đình tại các khu dân cư nghèo. Với tỷ lệ cao các bà mẹ đơn thân, tình trạng giam giữ, đói nghèo và ma túy, họ nhận thấy rằng gánh nặng giữ gìn gia đình thường đổ dồn lên vai một đứa trẻ.
Thuật ngữ "parentification" (tạm dịch: đảo ngược vai trò cha mẹ – con cái) được giới thiệu vào năm 1967 bởi Salvador Minuchin, một nhà lý thuyết về hệ thống gia đình. Ông mô tả hiện tượng này xảy ra khi cha mẹ mặc nhiên giao vai trò làm cha mẹ cho con cái. Khái niệm này sau đó được phát triển thêm bởi nhà tâm lý học Ivan Boszormenyi-Nagy, người cho rằng những vấn đề sâu sắc có thể nảy sinh ở một đứa trẻ khi sự trao đổi trách nhiệm giữa cha mẹ và con cái bị mất cân bằng. Kể từ đó, các nhà tâm lý học đã ghi nhận sự đảo ngược vai trò cha mẹ – con cái trên nhiều nền văn hóa khác nhau, đồng thời nghiên cứu những tác động kéo dài của nó, từ hệ quả tiêu cực trong cuộc sống trưởng thành cho đến khả năng kiên cường mà những đứa trẻ này phải gắng gượng để có được.
Nếu bạn để ý, trong vòng tròn quan hệ của mình – đồng nghiệp, bạn bè – có lẽ bạn cũng sẽ nhận ra vài người từng là những đứa trẻ bị đảo ngược vai trò. Đó có thể là người đồng nghiệp luôn gánh trách nhiệm quá mức, người bạn luôn có mặt khi ai đó cần giúp đỡ – người lúc nào cũng như đang mang cả thế giới trên vai, nhưng vẫn xử lý mọi thứ hoàn hảo, dù chưa bao giờ nhờ vả ai giúp đỡ mình. Dù có vẻ tận tâm và mạnh mẽ, thế giới nội tâm của họ có thể rất cạn kiệt. Nếu bạn hỏi, có thể họ sẽ thở dài và nói rằng họ cảm thấy kiệt sức, hay ước gì mình có một người bạn như chính mình.
Làm sao để một người trưởng thành từng bị đảo ngược vai trò có thể hiểu được những tổn thương của thời thơ ấu, khi không có một lý do rõ ràng nào giải thích cho gánh nặng mà họ luôn cảm thấy?
Những câu chuyện về sự đảo ngược vai trò mà tôi được nghe trong các cuộc phỏng vấn đã mở ra một cánh cửa vào tâm hồn chính tôi. Tôi cũng đến từ một gia đình tốt, một mái ấm yêu thương, không có lý do hiển nhiên nào để tôi cảm thấy bất hạnh hay bị cuốn vào những mối quan hệ không lành mạnh. Nhưng nếu suốt cả tuổi thơ tôi đã luôn giải quyết xung đột trong gia đình, thì liệu tôi cũng đã từng là một đứa trẻ bị đảo ngược vai trò?
Sau khi quyết định theo đuổi nghiên cứu tiến sĩ trong lĩnh vực này, tôi nhớ ủy ban học thuật của mình đã đặt câu hỏi về tính ứng dụng của khái niệm "Tây phương" này đối với hệ thống gia đình Ấn Độ. Họ khuyên tôi cần thận trọng để không áp đặt những khái niệm mang tính bệnh lý lên những mô hình gia đình "bình thường" ở đây. Nhưng với những trải nghiệm cá nhân và phát hiện tình cờ của mình, tôi cảm thấy có lẽ chính những mô hình gia đình được cho là "bình thường" ấy đang bị nhầm lẫn với những thực hành nuôi dạy con cái có thể không thực sự ổn thỏa. Tôi quyết định tiếp tục theo đuổi con đường của mình, tập trung nghiên cứu những gia đình Ấn Độ thành thị, nơi cha mẹ đều hiện diện, tài chính ổn định, không có dấu hiệu bệnh lý nào rõ ràng, và cũng không có điều kiện ngoại cảnh đặc biệt nào buộc đứa trẻ phải trưởng thành sớm hơn bạn bè đồng trang lứa.
Lý do là bởi, khi hiện tượng "parentification" xuất hiện trong những gia đình từng trải qua biến cố như mất mát cha mẹ, ly hôn, nghèo đói hay chiến tranh, thì những đứa trẻ ấy ít nhất có một câu chuyện để giải thích về những gánh nặng của mình. Chúng hiểu vì sao mình phải gánh vác trách nhiệm khi còn quá nhỏ, và người khác cũng có thể nhìn thấy điều đó. Nhưng những đứa trẻ phải trưởng thành sớm trong những gia đình "bình thường" sẽ giải thích thế nào về cảm giác nặng nề đeo bám mình? Tôi tự hỏi tại sao nhiều gia đình lại mặc nhiên tin rằng, chỉ cần là một gia đình, thì tự khắc đó sẽ là môi trường tốt nhất và an toàn nhất để trẻ em lớn lên, bất kể điều gì xảy ra bên trong.
Tôi không mất nhiều thời gian để tìm được những người sẵn sàng chia sẻ câu chuyện của họ nhằm giúp tôi trả lời những câu hỏi này. Đó là những người nhận ra rằng họ đã phải gánh vác trách nhiệm người lớn từ quá sớm. Tôi đã dành hàng giờ đồng hồ trò chuyện với họ, trung bình từ 8 đến 10 tiếng cho mỗi người, để hiểu về cuộc đời họ, về những điều họ cho là đã diễn ra sai lệch, những gì đáng lẽ nên xảy ra, và cách tất cả những điều đó đang ảnh hưởng đến họ hôm nay.
Priya (26 tuổi vào thời điểm phỏng vấn) đến từ một thành phố lớn ở miền Nam Ấn Độ. Cha mẹ cô kết hôn vì tình yêu. Hôn nhân của họ từng hứa hẹn mang lại cho mẹ cô một cuộc sống mới với giáo dục và tự do – những thứ mà gia đình bà không thể cho bà. Thế nhưng, sau khi cưới, cha cô – một người đàn ông gia trưởng – lại ép mẹ cô phải trở thành người nội trợ. Hơn nữa, cha mẹ cô thuộc hai đẳng cấp khác nhau và kết hôn trái với mong muốn của gia đình hai bên. Ở nhiều nơi tại Ấn Độ, hôn nhân khác đẳng cấp vẫn bị coi là điều cấm kỵ. Vì thế, họ bị gia đình từ mặt, dẫn đến căng thẳng kéo dài, khiến cuộc hôn nhân của họ rạn nứt và gia đình ngày càng cô lập. Theo thời gian, cha Priya bắt đầu uống rượu, rồi đánh mẹ cô. Mỗi lần trở về nhà sau giờ học, Priya lại thấy mẹ mình với đôi mắt sưng húp và những vết xước trên mặt. Cô căm ghét cha mình, nhưng chỉ vài ngày sau, cha mẹ cô lại cư xử như thể chưa từng có chuyện gì xảy ra. Cái vòng lặp ấy cứ tiếp diễn, và chỉ có mình Priya là không thể quên được, không thể ngừng tìm cách ngăn chặn nó xảy ra lần nữa.
Cũng như Sadhika và Priya, những người tham gia phỏng vấn khác (Anahata và Mira) đều nhớ mẹ mình là những người phụ nữ luôn bất mãn, buồn bã, tức giận hoặc trầm cảm. Họ chịu đựng sự chèn ép từ gia đình chồng, sự bỏ rơi của chồng hoặc cảm giác bất lực khi không thể theo đuổi một cuộc sống trọn vẹn, cả về cá nhân lẫn sự nghiệp. Trong khi đó, những người cha lại thường là những người đàn ông ít nói hoặc nóng nảy, bị bó buộc bởi những áp lực làm trụ cột trong một xã hội phụ hệ. Họ cũng có thể rất bất hạnh, nhưng hiếm khi chia sẻ những gì họ đang trải qua. Điều này khiến các bà mẹ quay sang tìm kiếm sự chia sẻ từ con cái, kéo chúng vào thế giới của họ như một đồng minh.
Dù vẻ ngoài có thể trông rất bình thường, nhưng trong những mái nhà ấy, vẫn có rượu chè, bệnh tâm lý không được chẩn đoán, và những xung đột do họ hàng gây ra. Những người mẹ thường xuyên bị gia đình chồng mắng nhiếc, bị chê trách vì xuất thân, hay bị chỉ trích vì không biết nuôi dạy con cái. Những cuộc cãi vã và bạo lực – dù bằng lời nói hay hành động – dần trở thành chuyện "có thể chấp nhận được", khiến không ai nghĩ đến việc can thiệp hay hàn gắn. Quan trọng nhất, nó làm lu mờ tác động của mọi chuyện lên đứa trẻ. Nhưng trong tâm trí non nớt của mình, dù đúng hay sai, dù bình thường hay không, đứa trẻ ấy hiểu rằng nhiệm vụ của nó là phải xoa dịu những vết thương và làm dịu mọi sóng gió. Nó tự nguyện hoặc buộc phải đóng mọi vai trò cần thiết để bảo vệ, an ủi, nâng đỡ cha mẹ mình.
Nó phát triển một giác quan nhạy bén, luôn quét tìm những ai đang cần gì và khi nào
Từ khi còn nhỏ, đứa trẻ ấy đã học được vị trí của mình – đó là người phải "giải quyết vấn đề tâm lý" cho những người khác trong gia đình. Mira phải chịu đựng những cơn bộc phát của mẹ, vỗ về bà, thuyết phục bà mở cửa, ăn uống, không bỏ đi, rồi nghe bà kể về sự tệ bạc của cha và ông bà nội, cũng như trách nhiệm của Mira trong việc khiến mẹ hạnh phúc. Sadhika phải chứng kiến sự tuyệt vọng của mẹ và dàn xếp với mọi người xung quanh, từ người bán rau đến các cô dì trong nhà. Anahata và Priya thì khuyên mẹ thay đổi cuộc sống, kiếm việc làm, thậm chí ly hôn.
Cũng giống như một nhà trị liệu giỏi, những đứa trẻ này học cách cảm nhận và hỗ trợ người khác – bởi đó là điều cần thiết cho sự tồn tại tâm lý của chính chúng. Chúng không thể chọn cách ngừng quan tâm đến cha mẹ. Nếu làm thế, hậu quả có thể là tình yêu thương bị rút lại, hoặc tệ hơn, là những trận bạo lực giữa cha mẹ mà chúng sẽ tự trách mình vì đã không ngăn chặn. Chúng không có cơ hội để nhận ra rằng những vấn đề chúng đang cố gắng giải quyết thực ra không thuộc về mình – và chúng cũng không thể hiểu vì sao, dù đã nỗ lực đến vậy, mọi thứ vẫn tiếp tục diễn ra. Chúng chỉ biết rằng, mình cần phải chú ý hơn, nhạy cảm hơn, đoán ý giỏi hơn.
Để làm tốt hơn vai trò này, Priya nói rằng cô đã phát triển một khả năng nhạy bén đến từng chi tiết, như một chiếc radar tinh tế luôn quét qua mọi ngóc ngách để biết ai cần gì và khi nào. Sadhika có một phép so sánh đặc biệt sắc sảo để diễn tả điều đó: "Hãy tưởng tượng một bác sĩ phẫu thuật tài giỏi nhưng cáu kỉnh, và bên cạnh ông ta là một y tá nhanh nhẹn, tận tụy. Khi ông ta đưa tay ra, dụng cụ phẫu thuật phù hợp lập tức xuất hiện một cách kỳ diệu. Đó chính là vai trò của tôi."
Nhưng điều gì sẽ xảy ra với thế giới nội tâm của một đứa trẻ khi lúc nào cũng phải căng mình để phát hiện ra những rắc rối tiếp theo? Làm sao một đứa trẻ có thể gánh vác những vấn đề cảm xúc và mâu thuẫn mà ngay cả người lớn cũng không giải quyết được? Không một đứa trẻ nào đủ sức để làm điều đó. Sadhika, Priya, Anahata, Mira – và cả tôi – đã dành hàng giờ trong tuổi thiếu niên để khóc thầm, một mình. Không ai biết, và đôi khi tôi tự hỏi liệu có ai từng nghĩ đến việc hỏi han hay không.
Những đứa trẻ này cần được giúp đỡ, nhưng gia đình chúng lại tự nhận là "bình thường". Có lẽ chỉ đứa trẻ mới có thể hình dung ra một kiểu bình thường khác. Chúng tưởng tượng về một gia đình lý tưởng – dựa trên những gì nhìn thấy qua màn ảnh nhỏ hay ở nhà người khác – rồi cố gắng uốn nắn gia đình mình theo hình mẫu ấy bằng cách can thiệp, hòa giải, giải quyết mâu thuẫn. Nếu có ai chịu lắng nghe chúng hay làm theo lời khuyên của chúng, có lẽ mọi chuyện đã không tệ đến thế. Có lẽ, thậm chí, sẽ chẳng bao giờ có chuyện một đứa trẻ phải gánh vác trách nhiệm của người lớn.
Bởi lúc nào cũng phải chăm lo cho người khác, những đứa trẻ này gần như không còn khoảng trống nào để lắng nghe hay bày tỏ nhu cầu của chính mình. Những mong muốn của chúng trở thành thứ yếu, trong khi nhu cầu của người khác lại được coi là lẽ đương nhiên. Mỗi khi bày tỏ mong muốn của bản thân, chúng có thể bị đáp lại bằng sự bực tức, tức giận hay những phản ứng khiến chúng cảm thấy tội lỗi, xấu hổ. Điều này dần hình thành cái mà nhà phân tâm học Donald Winnicott gọi là "bản ngã giả tạo" vào năm 1960. Ở mức độ cực đoan, bản ngã này khiến đứa trẻ bị cha mẹ hóa không dám thể hiện nhu cầu của mình, mà chỉ cảm thấy có giá trị khi đặt người khác lên trên hết. Vì thế, không có gì ngạc nhiên khi những đứa trẻ này lớn lên thường gặp khó khăn trong việc thiết lập ranh giới lành mạnh, dễ rơi vào các mối quan hệ độc hại, bị lợi dụng – dù đó là tình bạn, công việc hay tình yêu.
Khi trưởng thành, những người từng bị cha mẹ hóa thường xây dựng các mối quan hệ dựa trên giá trị mà họ mang lại cho người khác. Họ tìm kiếm cảm giác mình có ích, mình xứng đáng, từ việc chăm sóc và giúp đỡ mọi người xung quanh. Điều này có thể khiến họ trở thành những người luôn làm hài lòng người khác, luôn là chỗ dựa cho bạn bè, luôn sẵn sàng hy sinh thời gian, sức lực để hỗ trợ người khác. Nhưng ở chiều ngược lại, họ rất khó chấp nhận sự giúp đỡ. Họ tự hỏi: "Liệu mình có đang đòi hỏi quá nhiều không? Liệu mình có bị coi là phiền phức không?". Họ không dám đòi hỏi sự quan tâm từ người khác, vì sợ rằng nếu làm vậy, họ sẽ bị bỏ rơi.
Tổn thương lớn nhất thường xuất hiện trong các mối quan hệ tình cảm. Các nghiên cứu cho thấy việc không kết nối được với nhu cầu của bản thân khiến những người từng bị cha mẹ hóa dễ rơi vào các mối quan hệ độc hại, nghiện ngập hoặc hủy hoại. Nhiều nhà tâm lý học đã phát hiện ra rằng họ có nguy cơ cao mắc các rối loạn tâm lý như rối loạn nhân cách masochistic hay rối loạn nhân cách ranh giới.
Chồng của cô hỏi: "Tại sao lại là em?" Và cô đã trả lời với một sự chắc chắn tưởng như hiển nhiên: "Vì chẳng còn ai khác cả."
Nhiều người tôi đã trò chuyện nhận ra rằng họ bị cuốn vào các mối quan hệ lạm dụng với những kẻ có xu hướng ái kỷ. Như Sadhika chia sẻ: "Nó là một sự ghép đôi hoàn hảo." Chính cô cũng kết hôn với một người mà theo cô có thể được chẩn đoán mắc chứng rối loạn nhân cách ái kỷ. Priya cũng từng yêu một người không ngừng hạ thấp cô, thao túng cô, luôn chọn người khác thay vì cô.
Điều làm tôi ngạc nhiên là những người từng bị cha mẹ hóa mất rất nhiều thời gian để nhận ra mình đang bị lạm dụng. Trong tiềm thức, họ tin rằng những mối quan hệ độc hại – dù có bạo lực hay bị lợi dụng – không phải là thứ cần thoát ra mà là thứ cần được sửa chữa. Đó là những gì họ đã làm cả đời, và họ vô thức lặp lại nó. Những người này rất dễ phục tùng, luôn sẵn sàng nhường nhịn. Chính điều đó khiến họ bị thao túng, bị lợi dụng, càng làm trầm trọng thêm sự thiếu thốn tình cảm mà họ đã chịu đựng từ thuở nhỏ. Nhưng trớ trêu thay, sự quen thuộc này lại khiến họ cảm thấy an toàn.
Ở một khía cạnh khác, những trải nghiệm chăm sóc từ nhỏ có thể giúp họ thành công trong các ngành nghề mang tính hỗ trợ. Những người từng bị cha mẹ hóa là những cá nhân đáng tin cậy, nhạy cảm, có tư duy giải quyết vấn đề và luôn quan tâm đến người khác. Sadhika hiện là một chuyên gia tư vấn nuôi dạy con. Priya là một nhà trị liệu tâm lý. Anahata bảo vệ quyền lợi cho những tử tù. Mira làm giáo dục mầm non cho trẻ em ở các khu vực khó khăn. Họ chọn những con đường sự nghiệp cao đẹp, giúp đỡ những người khác.
Tuy vậy, ngay cả trong công việc, họ cũng có nguy cơ bị khai thác. Một số người chia sẻ rằng họ luôn cảm thấy mình phải gánh vác trách nhiệm lớn hơn người khác. Mira thường xuyên ôm đồm quá nhiều công việc, không thể giao phó cho ai khác, luôn theo đuổi sự hoàn hảo. Chồng cô đã hỏi: "Tại sao lại là em?" Và lúc đó, với một sự chắc chắn đầy mệt mỏi, cô đã trả lời: "Vì chẳng còn ai khác cả." Một câu nói ngắn gọn nhưng tóm gọn hoàn hảo bản chất của sự cha mẹ hóa.
Chủ nghĩa hoàn hảo có thể tồn tại ở nhiều kiểu người khác nhau, nhưng nghiên cứu cho thấy những người từng bị cha mẹ hóa đặc biệt dễ mắc chứng này. Áp lực luôn phải giúp đỡ người khác tạo ra một tiếng nói nội tâm hà khắc, khiến họ chìm đắm trong lo lắng và cảm giác tội lỗi. Và thật không may, người khác rất dễ lợi dụng lòng tận tụy của họ. Một trong những người tôi từng phỏng vấn kể rằng đồng nghiệp của cô luôn kể lể những rắc rối cá nhân rồi viện cớ đó để đùn đẩy công việc sang cho cô. Và cô, giống như rất nhiều người từng bị cha mẹ hóa khác, đã không thể nói "không".
Giữa một bản ngã luôn hy sinh, những mối quan hệ độc hại, sự tận tụy không ngừng dành cho người khác và cảm giác gánh nặng đè nén, không có gì ngạc nhiên khi theo thời gian, những người từng bị "cha mẹ hóa" (parentified adults) phải đối mặt với sự kiệt quệ nội tâm cùng cơn giận dữ âm ỉ. Điều này thường bộc lộ qua những cơn giận dữ bất ngờ, những giọt nước mắt không kiềm chế được, hay sự cáu kỉnh bất chợt, khiến chính họ – những con người vốn luôn điềm tĩnh và kiên cường – cũng cảm thấy bối rối. Nếu không dừng lại để tự vấn, những dấu hiệu này có thể bị bỏ qua, và vòng lặp cũ sẽ tiếp diễn không hồi kết.
Với những xu hướng ấy, một trong những nguy cơ lớn nhất mà những người từng bị "cha mẹ hóa" mang theo chính là khả năng vô thức lặp lại điều đó với con cái của mình, tiếp tục vòng tròn luẩn quẩn của sự bỏ bê. Điều này có thể kéo dài qua nhiều thế hệ, khi mỗi thế hệ lại gánh trên vai những tổn thương chưa được chữa lành từ đời trước. Thực tế, những người đủ sâu sắc để nhận ra vấn đề thường tìm đến liệu pháp tâm lý, với mong muốn phá vỡ vòng xoáy của chấn thương thế hệ, nhất là khi họ nhận thấy bản thân bắt đầu dựa dẫm quá mức vào con cái để tìm kiếm sự an ủi về mặt cảm xúc.
Bất kể điều gì đã đưa họ đến với hành trình chữa lành, khi lần giở quá khứ, họ dần nhận ra những đường nối vô hình giữa nỗi sợ hãi, cảm giác bất lực và cô đơn thời thơ ấu, với sự tận tâm, khả năng chăm sóc người khác cùng sự mệt mỏi triền miên, cảm giác gánh nặng và lo âu không dứt khi trưởng thành. Sự kiệt sức này thật kỳ lạ, bởi nó không đơn thuần là mệt mỏi, mà còn gắn chặt với bản sắc của họ – một người chăm sóc hoàn hảo – khiến họ khó lòng buông bỏ những khuôn mẫu cũ và lại càng lao vào guồng quay cống hiến.
Để thoát khỏi sự "cha mẹ hóa", điều đầu tiên cần làm là hiểu rõ điều gì đã xảy ra, nó đã ảnh hưởng đến bạn như thế nào, và cho phép bản thân công nhận giá trị của câu chuyện đời mình. Khi quá trình này diễn ra với sự dịu dàng và thấu hiểu, đó chính là lúc bạn bắt đầu tự chữa lành, tự nuôi dưỡng chính mình. Khi ấy, cánh cửa để cân bằng giữa cho và nhận trong các mối quan hệ quan trọng sẽ dần mở ra. Bạn có thể học cách quan tâm từ một nơi chốn của sự tự nguyện và yêu thương, thay vì bị thúc đẩy bởi nỗi sợ bị bỏ rơi hay trách nhiệm nặng nề. Khi kiên trì với hành trình này, có lẽ lần đầu tiên trong đời, bạn sẽ có cảm giác đang thực sự trở về với chính mình.
Bởi lẽ, việc từng bị "cha mẹ hóa" không có nghĩa là tuổi thơ của bạn hoàn toàn tồi tệ, cũng không phải là một trạng thái tuyệt đối trắng – đen. Một bước khởi đầu hữu ích chính là nhận diện và xác định ranh giới của trải nghiệm này. Nếu thời thơ ấu, bạn đã phải chăm sóc cha mẹ suốt một thời gian dài và hiện vẫn đang chịu ảnh hưởng từ điều đó, hãy cân nhắc tìm kiếm sự hỗ trợ tâm lý để phục hồi.
Giống như nhiều vấn đề tâm lý khác, "cha mẹ hóa" tồn tại trên một phổ rộng. Trong quá trình nghiên cứu, tôi đã xác định được 12 yếu tố có ảnh hưởng đến trải nghiệm này: độ tuổi bắt đầu (càng sớm càng gây tổn hại); lý do dẫn đến sự "cha mẹ hóa" (nếu lý do rõ ràng, đứa trẻ có thể tìm thấy ý nghĩa trong đó); mức độ rõ ràng của những kỳ vọng đặt lên vai đứa trẻ (liệu chúng có được nói cụ thể phải làm gì hay không?); bản chất của những kỳ vọng ấy; sự hướng dẫn và hỗ trợ mà đứa trẻ nhận được; thời gian đứa trẻ phải gánh vác trách nhiệm; sự công nhận cho những gì chúng làm; những chuẩn mực phát triển và nhận thức về tuổi tác trong gia đình; cách đứa trẻ cảm nhận trải nghiệm đó; khuynh hướng di truyền và tính cách; giới tính, thứ tự sinh trong gia đình và cấu trúc gia đình; cuối cùng là cuộc sống hiện tại của bạn (cách bạn nhìn nhận quá khứ chịu ảnh hưởng từ hoàn cảnh hiện tại của bạn như thế nào). Khi bước qua nỗi đau, bạn có thể sử dụng những yếu tố này để nhận diện những gì từng giúp ích cho mình – và tiếp tục phát huy, cũng như những gì từng làm tổn thương mình – và tìm cách hạn chế.
Tôi nhận thấy rằng khi những người từng bị "cha mẹ hóa" đào sâu vào ký ức đau buồn, nhận ra tại sao bản thân vẫn còn tổn thương, thì cảm giác giận dữ và bất công sẽ dần chiếm ưu thế, ít nhất là vào giai đoạn đầu. Một giọng nói mạnh mẽ trỗi dậy từ sâu thẳm bên trong – giọng nói của đứa trẻ ngày xưa, giờ đây mong mỏi được bảo vệ.
Mira từng nói với tôi: "Có một cảm giác trỗi lên: Làm sao bà ấy có thể làm như thế với mình?". Tương tự, Priya – người vốn luôn điềm tĩnh – trong một khoảnh khắc đầy xúc cảm đã thốt lên: "Khi nhìn lại, tôi tự hỏi: tại sao, tại sao, tại sao chuyện đó lại phải xảy ra? Tại sao bà ấy không thể tìm một cách nào khác để đối mặt với những rối ren của riêng mình?". Không phải cô ấy ghét việc chăm sóc cha mẹ, mà là vì có điều gì đó đã bị tước đoạt khỏi cô mà chính cô cũng không hay biết, một điều nằm ngoài khả năng nhận thức của một đứa trẻ. Khi cảm giác giận dữ và bất công được thừa nhận, những xúc cảm khác cũng bắt đầu có chỗ để hiển lộ.
Quan trọng nhất, quá trình chữa lành cần một sự công nhận lặp đi lặp lại cho câu chuyện của bạn – một sự công nhận giúp bạn phát triển mà không biến cha mẹ thành kẻ xấu. Điều này có thể đến từ nhiều nguồn khác nhau: một nhà trị liệu, vài người bạn thấu hiểu, hoặc một công việc mang lại ý nghĩa – ngay cả khi điều đó từng được sinh ra từ chính trải nghiệm "cha mẹ hóa" của bạn.
Trên hành trình học cách tự chữa lành, cô ấy nhắn nhủ với đứa trẻ bên trong mình: "Tôi xin lỗi vì em đã phải trải qua tất cả những điều này."
Một yếu tố quan trọng trong quá trình hồi phục là một mối quan hệ tình cảm lành mạnh. Tôi nhận thấy rằng một người bạn đời có thể "chịu đựng" bạn, có thể lắng nghe những cơn giận dữ của bạn mà không rời bỏ, và luôn nhắc nhở nhẹ nhàng rằng họ vẫn ở đó sau mỗi trận cãi vã – một người luôn kiên định, luôn hiện diện – có thể giúp thay thế nỗi sợ bị bỏ rơi bằng một cảm giác an toàn, được yêu thương và thấu hiểu.
Một nhà trị liệu biết lắng nghe và hiểu rõ về hội chứng trưởng thành sớm có thể giúp bạn trên hành trình chữa lành. Họ có thể giúp bạn kiểm soát cơn giận dữ, đồng thời tạo ra một câu chuyện mới, đầy hy vọng và tích cực hơn về chính mình. Tôi muốn nhấn mạnh rằng, bất chấp những gì mạng xã hội có thể khiến bạn tin tưởng, việc tự khẳng định giá trị bản thân chỉ từ bên trong là điều gần như không thể. Dù có khó khăn đến đâu, bạn vẫn cần xây dựng những mối quan hệ với những người có thể trở thành điểm tựa cho bạn.
Những người trưởng thành sớm mang trong mình nhiều tổn thương của quá khứ. Họ cần tìm lại và chăm sóc đứa trẻ bên trong mình – đứa trẻ có thể tiếp nhận tình yêu và sự chăm sóc từ người khác. Với Sadhika, đứa trẻ đó như "đứng nép vào một góc ngoài cánh cửa. Nó giống như một chú chó con đã từng bị ngược đãi rất nặng nề. Và bây giờ, khi bạn đưa nó về nhà, nó bắt đầu cảm thấy an toàn hơn… nó không còn run rẩy trong góc phòng nữa." Đó là cách cô ấy học cách tự nuôi dưỡng lại chính mình. Cô ấy, và những người như cô ấy, sẽ nói với bản thân khi còn nhỏ: "Tôi xin lỗi vì em đã phải trải qua tất cả những điều này."
Rồi một ngày, bạn sẽ phải học cách thiết lập ranh giới với cha mẹ mình – nhiệm vụ cuối cùng và cũng là khó khăn nhất. Mỗi người chọn một mức độ xa cách khác nhau. Một số cắt đứt hoàn toàn, nhưng điều này hiếm khi xảy ra, ít nhất là ở Ấn Độ. Phần lớn những người trưởng thành sớm học cách lựa chọn khi nào họ muốn tương tác với cha mẹ. Một số thậm chí thử chia sẻ với cha mẹ về những tổn thương mà họ đã chịu đựng. Có cha mẹ sẵn sàng lắng nghe, nhưng phần lớn thì không.
Chẳng hạn, cha mẹ của Priya là một trường hợp hiếm hoi khi họ sẵn lòng đón nhận câu chuyện của con gái. Dù vậy, khi nghe xong, mẹ cô lại chìm trong cảm giác tội lỗi, khiến Priya lại một lần nữa phải an ủi bà – điều này, trớ trêu thay, lại chính là sự lặp lại của hội chứng trưởng thành sớm. Cô đã có thể nói với mẹ rằng sự phụ thuộc của bà vào cô đã rút cạn sức lực của cô như thế nào. Mẹ cô rất bất ngờ (đó chẳng phải chính là bản chất của hội chứng này sao?), nhưng bà vẫn cố gắng tiếp nhận.
Ngược lại, khi Anahata cố gắng nói chuyện với cha mẹ về những gì cô ấy đã trải qua, phản ứng của họ hoàn toàn khác. Cô kể lại: "Chúng tôi đã có một cuộc đối thoại khá căng thẳng. Và [cha tôi] nói: ‘Đừng có mà đổ lỗi cho chúng ta. Chúng ta đã cho con tất cả mọi thứ. Bất cứ thứ gì mà tiền có thể mua được, con đều có. Vậy con còn vấn đề gì nữa?’" Với những phản ứng như vậy, bạn cần hiểu rằng sự chữa lành không nhất thiết phải đến từ nơi đã làm bạn tổn thương. Mục tiêu ở đây không phải là thay đổi quan điểm của cha mẹ bạn. Điều quan trọng hơn là bạn cần tin vào câu chuyện của chính mình, công nhận nỗi đau của bản thân và tìm kiếm sự hỗ trợ từ những nguồn khác.
Khi thiết lập ranh giới, bạn có thể cảm thấy tội lỗi hay ích kỷ vì "bỏ rơi" người khác. Họ có thể tìm cách kéo bạn trở lại vai trò chăm sóc mà bạn từng đảm nhận. Nhưng tôi mong bạn hãy kiên định với con đường của mình, và nếu có lúc bạn lỡ trượt lại những khuôn mẫu cũ, hãy tự tha thứ cho bản thân. Tôi hy vọng bạn sẽ nhận ra rằng họ sẽ ổn mà không có bạn – và bạn cũng vậy. Một tâm hồn lành mạnh là khi bạn có thể để người khác tự chịu trách nhiệm về chính họ. Là khi bạn có thể nói "không" khi bản thân đã kiệt sức. Và cũng là khi bạn có thể nói "có" khi bạn thực sự muốn chăm sóc một ai đó.
Tôi tìm thấy sự chữa lành trong việc viết lách và chia sẻ những suy nghĩ của mình. Mỗi khi viết, cơ thể tôi run lên, nước mắt trào ra, nhưng nó không còn nhấn chìm tôi nữa. Tôi có thể nói chuyện với cha mẹ mình về tất cả những điều này, và may mắn thay, họ đã lắng nghe. Điều đó không đến ngay lập tức – tôi từng phải tạo ra một khoảng cách giữa chúng tôi trong nhiều tháng. Tôi đã tìm thấy sự sáng tỏ trong câu chuyện của mình, đọc rất nhiều sách, nói chuyện với những người khác, nghiên cứu sâu hơn. Tôi dần dần mở lại cánh cửa giao tiếp.
Tôi đã mất mười năm để ngừng "làm cha mẹ" của chính cha mẹ mình và tìm ra một vị trí nào đó ở giữa – không chỉ là một đứa con, nhưng cũng không còn là người gánh vác mọi thứ thay họ. Và cũng phải ghi nhận rằng, cha mẹ tôi đã bắt đầu yêu cầu tôi lùi lại, không còn can thiệp vào quyết định của họ nữa. Giờ đây, giữa chúng tôi còn có cả sự hài hước. Trong gia đình tôi, có một trò đùa rằng mỗi lần tôi viết về tuổi thơ đầy sợ hãi của mình, cha mẹ tôi sẽ viết một bài báo khác để bảo vệ những gì họ đã làm. Nhưng quan trọng hơn cả, chúng tôi có thể cùng chấp nhận tất cả những điều này như một phần của sự thật – và đó chính là sự chữa lành đối với tôi.
Lời tác giả: Công trình nghiên cứu và thực hành trị liệu của tôi cho đến nay chủ yếu tập trung vào phụ nữ, đó là lý do tôi sử dụng đại từ "cô ấy". Tương tự, "mẹ" được nhắc đến nhiều hơn vì phần lớn các con gái đều chịu ảnh hưởng từ những câu chuyện của mẹ – người thường là người chăm sóc chính. Những câu chuyện của cha ít được ghi nhận, một phần vì sự kiệm lời của họ (một quy chuẩn văn hóa), và đôi khi vì trong mắt đứa trẻ, họ là người gây tổn thương. Tuy nhiên, tôi muốn nhấn mạnh rằng, không một người cha hay người mẹ nào hoàn toàn chịu trách nhiệm về hội chứng trưởng thành sớm. Một góc nhìn như vậy sẽ làm mất đi sự thấu hiểu toàn diện về những yếu tố phức tạp dẫn đến nó, đồng thời hạn chế khả năng chữa lành cũng như sự phát triển của cuộc đối thoại về vấn đề này.
Nguồn: The parentified child | Aeon.co