Người có tâm hồn nhạy cảm

Những ai sở hữu đặc điểm ít người biết đến này thường suy nghĩ sâu sắc và giàu lòng trắc ẩn. Nhưng họ cũng phải đối mặt với không ít thách thức.
Cảm giác “nhạy cảm cao độ” là như thế nào? Nếu trước đây có ai hỏi tôi câu này, có lẽ tôi sẽ nói rằng tôi không biết, vì tôi không phải như vậy. Nhưng năm 1991, một nhà trị liệu – người tôi được gửi đến sau khi bị cho là đã “phản ứng thái quá” với một thủ thuật y tế – đã dùng cụm từ đó để miêu tả tôi. Từ đó, tôi bắt đầu nghiêm túc tìm hiểu xem liệu nhận xét ấy có ý nghĩa gì.
Sau nhiều năm nghiên cứu, tôi nhận ra rằng nhạy cảm cao độ, trước hết, có nghĩa là suy nghĩ sâu sắc về mọi thứ. Điều đó khiến những người như tôi trở nên trầm tư, sáng tạo và có khuynh hướng quan tâm đến cả khoa học lẫn tâm linh hơn những người khác. Chúng tôi có lòng trắc ẩn gần như tự động – đôi khi là quá mức – nên rất dễ rơi nước mắt. Chúng tôi nhận thấy những điều tinh tế: tiếng chim hót, sắc hoa, ánh sáng trong căn phòng, hay chỉ đơn giản là ai đó đã thay đổi vị trí của đồ đạc.
Với quá nhiều thứ diễn ra trong tâm trí như vậy, người nhạy cảm rất dễ bị kích thích quá mức. Nếu tôi đi du lịch và dành cả ngày để tham quan bảo tàng, buổi tối tôi sẽ không muốn đến một hộp đêm náo nhiệt. Tôi tránh xa những nhà hàng ồn ào. Trên máy bay, tôi luôn đeo tai nghe chống ồn. Tôi rất thích thuyết giảng về sự nhạy cảm cao, nhưng sau mỗi buổi nói chuyện, tôi kiệt sức hoàn toàn. Càng nhiều người trong khán phòng, tôi càng kiệt quệ. Tôi cũng nhạy cảm hơn với cơn đau, đúng như nhà trị liệu kia từng nhận thấy. Khi đến bệnh viện, tôi thường nói với các y bác sĩ: “Có lẽ anh chị đã gặp nhiều người như tôi trong sự nghiệp của mình – những người nhạy cảm hơn bình thường… Chính là tôi đây!”
Năm 2010, sau nhiều năm nghiên cứu, tôi đúc kết tất cả những điều này thành chữ viết tắt DOES: Depth of processing (Suy nghĩ sâu sắc), Overarousability (Dễ bị kích thích quá mức), Emotionally responsive and Empathic (Nhạy cảm về cảm xúc và giàu lòng trắc ẩn), và Sensitive to Subtle stimuli (Nhạy bén với những kích thích tinh tế). Theo định nghĩa này, khoảng 30% dân số mang đặc điểm nhạy cảm cao – và vì đây là một chiến lược sinh tồn giúp quan sát trước khi hành động, nên ta có thể thấy nó xuất hiện ở nhiều loài động vật. Chúng ta từng gặp những chú mèo, chú chó, hay những con ngựa đặc biệt nhạy cảm. Nhưng thậm chí, có cả những chú chim, con cá, hay ruồi giấm mang đặc điểm này.
Dù phổ biến, nhưng đặc điểm này vẫn chưa được nhận diện rộng rãi cho đến tháng 2 năm 1993, khi tờ Santa Cruz Sentinel đăng tải nghiên cứu của tôi tại Đại học California, Santa Cruz về nhóm người mà tôi gọi là Highly Sensitive People (Những người nhạy cảm cao – HSP). Ngay sau bài báo, tôi nhận được hàng chục lá thư và cuộc gọi từ những người muốn tìm hiểu thêm, đến mức tôi quyết định tổ chức một buổi thuyết trình tại thư viện công cộng – trong khán phòng lớn nhất của họ. Nhưng lượng người kéo đến quá đông, nhân viên thư viện buộc phải từ chối bớt. Cuối cùng, tôi viết một cuốn sách – và hóa ra, số lượng HSP nhiều đến mức sách bán hết veo, thậm chí còn đứng đầu danh sách bán chạy của San Francisco Chronicle. Là một HSP, tôi chưa từng có ý định viết sách hướng dẫn bản thân, tham gia ký tặng sách, hay xuất hiện trên truyền hình và radio. Nhưng vì cộng đồng HSP khát khao thông tin, tôi tiếp tục tiến lên. Cảm giác như tôi chỉ đang đi dạo trên phố, và bỗng dưng một đoàn người xuất hiện phía sau, tạo thành một cuộc diễu hành.
Photo by Thomas Dworzak/Magnum
Dĩ nhiên, tôi không phát hiện ra một đặc điểm hoàn toàn mới. Nó đã luôn tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Từ năm 1913, Carl Jung đã dùng từ “nhạy cảm” để mô tả một số bệnh nhân của mình. Đến những năm 1950, hai nhà tâm thần học trẻ em ở New York – Alexander Thomas và Stella Chess – đã chống lại quan điểm Freud truyền thống, vốn cho rằng tuổi thơ chủ yếu chịu ảnh hưởng từ những trải nghiệm ban đầu và những thôi thúc tâm lý. Họ chỉ ra một điều hiển nhiên: trẻ em ngay từ khi sinh ra đã khác nhau, và những khác biệt đó đáng để nghiên cứu. Họ nhận diện chín đặc điểm ở trẻ sơ sinh, trong đó có ngưỡng cảm giác thấp – khá tương đồng với sự nhạy cảm cao mà tôi nghiên cứu sau này. Cuối cùng, họ chia trẻ em thành ba nhóm chính: dễ nuôi, khó nuôi, và “mất thời gian để thích nghi” – nhóm cuối cùng phản ánh khá rõ đặc điểm của những người nhạy cảm.
Một sự tương đồng gần gũi hơn đến từ nhà tâm lý học Harvard Jerome Kagan. Từ những năm 1980, ông nghiên cứu trẻ em và phân loại chúng thành hai nhóm: “ức chế” và “không ức chế”, dựa trên cách chúng phản ứng trong một phòng thí nghiệm với các vật thể và hoạt động lạ. Những đứa trẻ thuộc nhóm “ức chế” thường lưỡng lự, dè dặt, và có vẻ e ngại trước những điều mới lạ. Đây là một phần của vấn đề muôn thuở: làm thế nào để hiểu được điều gì đang diễn ra bên trong tâm trí của những người chậm bước vào thế giới xung quanh.
Nhưng tôi nhận thấy một vấn đề với cách gọi này – ai lại muốn con mình bị dán nhãn là “ức chế”? Khi nhà trị liệu kia gọi tôi là người “nhạy cảm cao”, tôi bắt đầu tự hỏi liệu đó có phải là cách mô tả hay hơn không. Tôi tìm thấy một vài tài liệu đề cập đến thuật ngữ này, chủ yếu để chỉ những người có năng khiếu đặc biệt, những bậc cha mẹ rất nhạy bén với cảm xúc con cái, hoặc những mô tả lâm sàng dường như mặc định rằng ai cũng hiểu “nhạy cảm” nghĩa là gì.
Ban đầu, cách tiếp cận của tôi trong nghiên cứu về đặc điểm này mang tính định tính – tôi phỏng vấn những người nhận ra bản thân trong mô tả trên một tờ rơi mà tôi phát ra. Thời điểm đó, tôi tự hỏi liệu sự nhạy cảm và tính hướng nội có phải là một hay không, vì các nhà tâm lý học lúc ấy xem hướng nội là sự nhạy cảm với kích thích bên ngoài và dễ bị kích thích quá mức, hơn là chỉ đơn thuần là một xu hướng xã hội.
Tôi đã phỏng vấn 39 người, với số lượng nam và nữ bằng nhau, trải dài từ sinh viên đại học đến người già, và thuộc nhiều ngành nghề khác nhau. Kết thúc nghiên cứu, tôi nhận ra một phần ba số người nhạy cảm cao trong nhóm lại là người hướng ngoại – tùy vào thang đo sử dụng, con số này có thể lên đến 40%.
Tôi muốn tạo ra một thước đo dành riêng cho đặc điểm này. Dựa trên những cuộc phỏng vấn của mình, tôi soạn ra khoảng 60 câu hỏi có thể dùng để đánh giá. Chồng tôi, Arthur Aron, một chuyên gia về thống kê, đã giúp tôi sàng lọc và xây dựng thành một bảng câu hỏi gồm 27 mục, đảm bảo độ tin cậy và tính hợp lệ cao. Sau đó, chúng tôi thử nghiệm trên hàng nghìn sinh viên tham gia các lớp tâm lý học nhập môn trên khắp nước Mỹ.
Bài báo đầu tiên của chúng tôi, được xuất bản vào năm 1997, tổng hợp bảy nghiên cứu khác nhau, trong đó có một cuộc khảo sát ngẫu nhiên qua điện thoại để đảm bảo tính đa dạng của mẫu nghiên cứu. Chúng tôi không chỉ tách đặc điểm này ra khỏi tính hướng nội mà còn phân biệt rõ nó với "tính thần kinh" – một trong năm đặc điểm lớn của tính cách (Big Five), thường gắn liền với sự cáu kỉnh, lo âu và xu hướng cảm xúc tiêu cực. Cuối cùng, chúng tôi đặt tên cho đặc điểm này là "nhạy cảm trong xử lý cảm giác" (sensory processing sensitivity), bởi những người nhạy cảm cao có cách tiếp nhận và xử lý thông tin khác biệt so với phần đông.
Bài nghiên cứu chính thức, cùng với bảng câu hỏi 27 mục, được đăng trên một trong những tạp chí hàng đầu về tâm lý học tính cách và đến nay đã được trích dẫn hơn 1.600 lần.
Trong bảng câu hỏi nhằm nhận diện người nhạy cảm cao, chúng tôi đưa vào những câu hỏi như:
- Bạn có dễ bị quá tải bởi những kích thích mạnh từ môi trường xung quanh không?
- Bạn có hay nhận ra những chi tiết tinh tế trong môi trường của mình?
- Tâm trạng của người khác có ảnh hưởng đến bạn không?
- Bạn có nhạy cảm hơn bình thường với cảm giác đau?
- Bạn có một thế giới nội tâm phong phú, sâu sắc?
- Bạn có cảm thấy khó chịu với những âm thanh lớn?
- Bạn có dễ rung động trước nghệ thuật hay âm nhạc?
- Đôi khi hệ thần kinh của bạn có căng thẳng đến mức bạn chỉ muốn tìm một nơi yên tĩnh để ở một mình?
Và còn 19 câu hỏi khác có cùng nội dung tương tự. Bạn hẳn đã hiểu được phần nào rồi.
Cùng thời điểm đó, các nhà nghiên cứu khác cũng bắt đầu chú ý đến những người nhạy cảm cao. Thực tế, hai lý thuyết nổi bật khác về sự nhạy cảm, chủ yếu dựa trên nghiên cứu ở trẻ em, đã được hình thành trong cùng giai đoạn chúng tôi thực hiện công trình đầu tiên về người lớn.
Jay Belsky và Michael Pluess đã phát triển thuyết "mẫn cảm khác biệt" (Differential Susceptibility Theory - DST). Họ cho rằng quá trình chọn lọc tự nhiên đã tạo ra những cá thể có mức độ nhạy cảm khác nhau trước các tác động từ môi trường sống. Một số người dễ thích nghi và chịu ảnh hưởng lớn hơn (tức là dễ bị tác động), trong khi số khác có sự phát triển ổn định hơn. Yếu tố chủ yếu quyết định điều này chính là di truyền. Quan trọng hơn cả, các nghiên cứu dựa trên DST chỉ ra rằng những người dễ bị tác động không chỉ chịu ảnh hưởng nhiều hơn từ nghịch cảnh mà còn hưởng lợi nhiều hơn từ những trải nghiệm tích cực.
Một nhà nghiên cứu khác, bác sĩ nhi khoa W. Thomas Boyce, tình cờ phát hiện ra đặc điểm nhạy cảm cao và thuyết "mẫn cảm khác biệt" thông qua một nghiên cứu về bệnh hô hấp ở trẻ em. Ông nhận thấy những đứa trẻ có hệ thần kinh phản ứng mạnh mẽ thường dễ vắng mặt ở trường vì bệnh tật, nếu chúng sống hoặc học tập trong môi trường căng thẳng. Nhưng ngược lại, nếu ở trong một môi trường tích cực, chúng lại ít khi bị ốm hơn những đứa trẻ khác. Boyce và cộng sự Bruce Ellis sau đó đưa ra lý thuyết "nhạy cảm sinh học với môi trường" (biological sensitivity to context), lập luận rằng mỗi cá thể có mức độ nhạy cảm khác nhau với môi trường sống đầu đời. Trẻ sơ sinh, khi cảm nhận được một môi trường hoặc quá khắc nghiệt, hoặc vô cùng lý tưởng, sẽ phát triển sự phản ứng sinh lý mạnh mẽ để thích nghi tốt hơn. Ngược lại, những trẻ sinh ra trong môi trường trung bình không phát triển mức độ nhạy cảm cao này.
Trong khi đó, tôi và Art vẫn tiếp tục nghiên cứu, đôi khi hợp tác với nhiều nhà khoa học khác. Sử dụng phương pháp chụp cộng hưởng từ chức năng (fMRI – chụp MRI khi người tham gia thực hiện một nhiệm vụ), chúng tôi phát hiện ra rằng những người có điểm số nhạy cảm cao thường cẩn trọng hơn và sử dụng nhiều vùng não bộ hơn khi phải phân biệt những khác biệt nhỏ giữa các kích thích – chẳng hạn như so sánh hai bức ảnh gần như giống hệt nhau.
Một trong những nghiên cứu yêu thích của tôi so sánh những người lớn lên trong các nền văn hóa đề cao tinh thần tập thể (ví dụ như Trung Quốc) với những người xuất thân từ các nền văn hóa chú trọng tính độc lập (ví dụ như Mỹ). Hai nhóm này có xu hướng nhìn nhận sự vật khác nhau: người thuộc nền văn hóa tập thể dễ dàng nhận ra sự thay đổi trong bối cảnh rộng lớn, trong khi người thuộc nền văn hóa độc lập lại nhanh chóng phát hiện những khác biệt nhỏ trong chi tiết. Những khác biệt này có thể quan sát được trên fMRI thông qua mức độ hoạt động của não bộ. Tuy nhiên, đáng ngạc nhiên là dù xuất thân từ nền văn hóa nào, những người nhạy cảm cao vẫn giữ nguyên khả năng nhận diện khách quan mà không bị ảnh hưởng bởi yếu tố văn hóa. Họ dường như có khả năng nhìn mọi thứ "đúng như bản chất của nó".
Một nghiên cứu khác bằng fMRI cho thấy những người có điểm số nhạy cảm cao cũng có mức độ đồng cảm cao hơn. Khi nhìn vào hình ảnh của những khuôn mặt vui vẻ hoặc buồn bã, họ phản ứng mạnh hơn so với khi nhìn khuôn mặt trung lập. Khi nhìn thấy gương mặt hạnh phúc hoặc đau buồn của người bạn đời, phản ứng của họ cũng sâu sắc hơn so với khi nhìn những biểu cảm tương tự ở người lạ. Điều đặc biệt là sự kích hoạt này không chỉ xảy ra ở các vùng não liên quan đến cảm xúc thuần túy, mà còn ở các vùng liên quan đến hệ thần kinh vận động và nơron gương – những khu vực đóng vai trò quan trọng trong sự đồng cảm, chẳng hạn như vỏ não trước trán và vùng precuneus.
Tương tự, trong nhiều nghiên cứu khác, những người nhạy cảm cao khi xem các đoạn phim gợi lên cảm xúc tích cực, tiêu cực hoặc hỗn hợp đều có phản ứng mạnh mẽ hơn và trải nghiệm một dải cảm xúc rộng hơn so với những người có mức độ nhạy cảm thấp hơn. Không chỉ vậy, họ cũng phản ứng nhanh hơn với những khuôn mặt thể hiện cảm xúc, nhưng không nhanh hơn khi nhìn vào khuôn mặt trung lập.
Điều này hoàn toàn hợp lý khi xét đến khía cạnh quan trọng nhất của sự nhạy cảm trong xử lý thông tin—chính là chiều sâu trong tư duy, điều bao trùm lên mọi đặc điểm khác. Có thể bạn sẽ ngạc nhiên khi biết rằng cảm xúc, thay vì cản trở quá trình tiếp nhận thông tin, lại thường giúp chúng ta xử lý chúng tốt hơn. Nếu bạn muốn nhớ một số điện thoại, bạn phải thực sự quan tâm đến việc có nó khi cần. Nếu muốn học một ngôn ngữ, hãy đến nơi mà ngôn ngữ ấy được sử dụng, vì lúc đó, bạn sẽ liên tục được thúc đẩy để ghi nhớ cách diễn đạt. Nói ngắn gọn, nếu muốn tiếp nhận thông tin một cách sâu sắc, cảm xúc chính là một yếu tố hỗ trợ đắc lực—và đây chính là sức mạnh có sẵn trong những người nhạy cảm cao.
Mọi người đều nhớ những trải nghiệm tiêu cực, nhưng để tận dụng tối đa những gì cuộc sống mang lại, ta cũng cần ghi nhớ cả những trải nghiệm tích cực. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng, người nhạy cảm cao thường chú ý đến những điều tích cực hơn so với người khác. Cuối cùng, hàng loạt nghiên cứu đã liên kết các mô hình hoạt động não bộ khi nghỉ ngơi và sự kết nối thần kinh của người nhạy cảm với khả năng kiểm soát sự chú ý tốt hơn, trí nhớ bền vững hơn, cũng như năng lực suy nghĩ chậm rãi, cẩn trọng—tất cả đều giúp ích cho việc ra quyết định và lập kế hoạch.
Một bước đột phá quan trọng đối với tôi là nghiên cứu mô phỏng bằng máy tính của Max Wolf và các cộng sự vào năm 2008. Nhóm nghiên cứu muốn tìm ra điều kiện nào sẽ khiến một loài phát triển một đặc điểm trông có vẻ giống như sự nhút nhát, nhưng thực chất lại là một dạng nhạy cảm cao hơn. Họ chứng minh rằng, chiến lược tận dụng tối đa thông tin từ môi trường khi đưa ra quyết định sẽ phát triển thành một đặc điểm di truyền nếu môi trường đủ mang lại lợi ích cho việc thu thập thông tin ấy. Chẳng hạn, nếu nguồn thức ăn có giá trị dinh dưỡng khác nhau, việc nhận ra những khác biệt này là một lợi thế. Nhưng nếu các nguồn thức ăn gần như giống nhau, hoặc năng lượng bỏ ra để phân biệt chúng là quá cao, thì đặc điểm này không còn mang lại lợi ích và sẽ không được di truyền.
Hơn nữa, nhóm nghiên cứu của Wolf còn phát hiện rằng, đặc điểm nhạy cảm cao chỉ tồn tại ở một thiểu số đáng kể trong quần thể, bởi nếu tất cả các cá thể đều chú ý đến từng chi tiết nhỏ như nhau, thì sẽ không còn lợi thế cho bất kỳ ai. Chính vì vậy, luôn có nhiều cá thể có mức độ nhạy cảm thấp hơn, hưởng lợi từ việc tiết kiệm năng lượng khi không quá bận tâm đến các kích thích từ môi trường.
Ở con người, chiến lược sinh tồn bẩm sinh này gắn liền với việc quan sát và thích nghi với các chi tiết trong môi trường xung quanh, đặc biệt là môi trường xã hội. Những người nhạy cảm cao thường lặng lẽ theo dõi, tiếp nhận và xử lý những gì họ quan sát được—có ý thức hoặc vô thức—để tối ưu hóa những gì đã học. Quá trình xử lý thông tin sâu sắc này thường khó nhận ra, bởi người nhạy cảm cao, dù là trẻ em hay người lớn, vẫn sinh hoạt bình thường như bao người khác. Họ chỉ đơn giản là suy nghĩ nhiều hơn. Khi một hành vi thích nghi được hình thành từ quá trình này, sự thay đổi có thể diễn ra từ từ hoặc bộc phát ngay trước khi những người khác nhận ra—chẳng hạn như tìm ra lối tắt, thay đổi chế độ ăn uống, hay mua một món đồ giảm giá trước khi mọi người biết đến nó. (Phiên bản mới của thang đo HSP, HSP-R, đã cố gắng nhấn mạnh hơn khía cạnh xử lý sâu sắc này.)
Dù thông tin về HSP tràn ngập trên internet, nhưng đặc điểm này vẫn chưa được hiểu một cách đầy đủ. Một trong những lý do chính là chiều sâu trong tư duy—yếu tố cốt lõi của HSP—vốn dĩ vô hình. Một yếu tố gây nhầm lẫn khác là tính dễ bị tác động: do liên tục suy ngẫm và xử lý trải nghiệm, người nhạy cảm cao chịu ảnh hưởng mạnh mẽ hơn những người khác trong môi trường tốt, đặc biệt là trong thời thơ ấu, nhưng cũng chịu tổn thương sâu sắc hơn khi lớn lên trong môi trường tiêu cực. Chính vì vậy, có không ít người nhạy cảm cao mắc chứng lo âu, trầm cảm hay trở nên nhút nhát do một tuổi thơ khó khăn—và họ trở thành những cá thể dễ được nhận diện hơn so với những người nhạy cảm cao có một tuổi thơ đủ tốt.
Tin vui là những người nhạy cảm cao có khả năng hưởng lợi từ các can thiệp tâm lý hơn so với người khác. Nhưng tin không vui là họ cũng dễ bị ảnh hưởng tiêu cực bởi căng thẳng hơn, và điều này có thể liên quan đến nhiều bệnh lý thể chất. Sau hàng chục năm nghiên cứu phát hiện ra rằng những người nhạy cảm cao có tỷ lệ mắc bệnh cao hơn, một nghiên cứu quan trọng đã kết luận rằng nguyên nhân chính là do căng thẳng, chứ không phải bản thân đặc điểm nhạy cảm cao. Những HSP mà tôi gọi là “hoạt động hiệu quả cao” thậm chí có thể không nhận ra đặc điểm này của mình, hoặc nếu có, họ đã học cách thích nghi và tiếp tục cuộc sống. Họ thường là những người kín đáo, ngoại trừ việc để lộ trí tưởng tượng phong phú, tư duy sâu sắc và lòng trắc ẩn đối với người khác. Họ không phải thiên thần, nhưng nếu có một nền tảng giáo dục tốt, họ thường là những người rất tử tế.
Người nhạy cảm cao còn khó nhận diện bởi ít nhất ba lý do khác. Trước hết, những người đàn ông nhạy cảm cao thường bị bỏ qua, bởi trong văn hóa phương Tây, sự nhạy cảm bị gắn với tính nữ và bị xem là dấu hiệu của sự yếu đuối. Chính vì vậy, rất nhiều người đàn ông HSP có xu hướng che giấu bản chất của mình, dù là vô thức hay có chủ ý.
Một điều nữa đi ngược lại định kiến về người nhạy cảm là thực tế rằng, nhiều người trong số họ lại hướng ngoại. Họ có thể cần thời gian ở một mình để hồi phục sau khi bị kích thích quá mức, nhưng đồng thời, họ cũng yêu thích việc tụ tập và có một vòng tròn bạn bè rộng lớn. Khoảng một nửa số HSP còn có thêm một đặc điểm bẩm sinh khác: xu hướng tìm kiếm những trải nghiệm mới mẻ và mạnh mẽ. Họ rất dễ chán và luôn háo hức khám phá điều mới lạ. Tôi là một trong số đó—cảm giác như đang lái xe với một chân đạp ga và một chân đạp phanh vậy. Nhưng dù hướng ngoại hay yêu thích những trải nghiệm mạnh, họ vẫn không hề phù hợp với hình ảnh khuôn mẫu của một HSP—những người trầm lặng, sống thu mình.
Tóm lại, nếu bạn muốn chắc chắn rằng mình đang tiếp xúc với một người nhạy cảm cao, hãy quan sát chiều sâu trong tư duy của họ. Những ý tưởng của họ thường được suy tính kỹ lưỡng. Nếu họ đề xuất một địa điểm đi dã ngoại, có lẽ họ đã cân nhắc đến thời điểm trong ngày, vị trí bóng râm và ánh nắng, hướng gió, cũng như khoảng cách với những người đi dã ngoại khác. Tuy nhiên, họ có thể chọn cách không đưa ra ý kiến. Trong một cuộc họp hay trong gia đình, quan điểm của họ có thể khác với số đông, và họ chọn giữ im lặng—không phải vì không có chính kiến, mà có lẽ vì họ không muốn gây tranh cãi hoặc khiến mọi người cảm thấy khó chịu khi họ (lại) đúng.
Một cách dễ nhận biết nữa về người nhạy cảm cao (HSP) chính là nhu cầu được nghỉ ngơi, lấy lại cân bằng sau khi bị kích thích quá mức – hoặc khi họ cảm thấy mình sắp rơi vào tình trạng đó nếu không dừng lại kịp thời. Nếu là người có khả năng thích nghi tốt, từng lớn lên trong môi trường mà họ cảm thấy được tôn trọng, họ thường có thói quen sắp xếp khoảng thời gian nghỉ ngơi một cách hợp lý, hài hòa với nhịp sống của mình. Khi cảm thấy đã đủ, họ có thể nhẹ nhàng nói: "Điều này không phù hợp với tôi" mà không cần phải giải thích thêm. Việc đặt ra những ranh giới rõ ràng như vậy là điều cần thiết đối với HSP. Bởi lẽ, họ sinh ra đã có những "ranh giới mong manh" – dễ tiếp nhận nhiều thứ hơn người khác, bao gồm cả cảm xúc của người xung quanh, vì thế họ cũng nhạy bén hơn với nhu cầu của người khác.
Nói đến ranh giới, tôi muốn đề cập đến năm nhu cầu quan trọng nhất của người nhạy cảm cao. Danh sách này được tôi đúc kết qua nhiều năm làm việc và lắng nghe họ.
Trước hết, họ cần tin rằng sự nhạy cảm cao là có thật. Tôi khuyến khích họ tìm đọc những nghiên cứu khoa học về đặc điểm này, dễ dàng tra cứu bằng các cụm từ như "sensory processing sensitivity", "environmental sensitivity", "highly sensitive person" hay "highly sensitive person scale".
Thứ hai, họ cần nhìn nhận lại những trải nghiệm của mình, đặc biệt là những ký ức không vui thời thơ ấu đã góp phần định hình con người họ. Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, họ cũng cần nhìn lại những lựa chọn trong cuộc sống trưởng thành, từ công việc đến các mối quan hệ, thậm chí là cả những điều mà họ từng xem như thất bại. Có thể họ vẫn luôn áy náy vì chỉ có một đứa con (hoặc không có), trong khi người khác làm cha mẹ một cách tự nhiên thì với họ, việc nuôi dạy con lại quá đỗi vất vả. Có thể họ vẫn luôn hối tiếc vì từng từ chối một công việc phải đi công tác thường xuyên hoặc có quãng đường di chuyển quá xa, chỉ vì cảm thấy điều đó là quá sức với mình. Nhưng nếu suy xét lại, những quyết định này là hoàn toàn dễ hiểu khi đặt trong bối cảnh của một HSP.
Người nhạy cảm cao cần hiểu rằng ai cũng có một "ngưỡng" kích thích lý tưởng để đạt hiệu suất tốt nhất. Người ta uống cà phê để đưa bản thân vào trạng thái tập trung tối ưu. Nhưng nếu vượt quá ngưỡng này và bị kích thích quá mức, đầu óc có thể trở nên rối loạn, thậm chí mất kiểm soát cả về thể chất. Cảm giác này thường bị nhầm lẫn với lo âu, hoặc dẫn đến sự lo lắng về việc thất bại. Đối với HSP, đôi khi chỉ cần bị người khác quan sát thôi cũng đủ làm họ cảm thấy quá tải, nhất là khi bị đánh giá trong công việc. Với sự chuẩn bị kỹ càng, họ có thể đối phó tốt hơn với những tình huống như vậy. Nhưng điều đáng tiếc là nhiều người không nhận ra điều này, mà lại nghĩ rằng có điều gì đó không ổn với bản thân.
Thứ ba, họ có thể cần một khoảng thời gian nhất định để chữa lành những tổn thương trong quá khứ, thường là với một nhà trị liệu tâm lý có hiểu biết sâu sắc về HSP. Trên trang web của mình, tôi có duy trì một danh sách các chuyên gia đã vượt qua khóa đào tạo về HSP mà tôi xây dựng. Dĩ nhiên, việc có mặt trong danh sách này không đảm bảo rằng họ là những nhà trị liệu giỏi ở mọi khía cạnh, nhưng ít nhất họ hiểu được người nhạy cảm cao.
Nhu cầu thứ tư là điều chỉnh lối sống. Cụ thể, HSP cần tránh bị kích thích đến mức suy kiệt. Họ cần lên kế hoạch cho những khoảng thời gian nghỉ ngơi hợp lý. Sau cả một đời cố gắng hòa nhập với số đông, điều này có thể đòi hỏi sự nỗ lực và cả ý chí để sắp xếp lại công việc, cuộc sống gia đình sao cho phù hợp với chính mình mà vẫn đảm bảo trách nhiệm với người thân. Nhưng những thay đổi này luôn xứng đáng, vì không chỉ giúp HSP sống tốt hơn, mà còn khiến cuộc sống của những người xung quanh họ trở nên dễ chịu hơn.
Cuối cùng, HSP nên dành ít nhất một vài giờ, dù chỉ một lần, để ở trong một nhóm toàn những người nhạy cảm cao như mình. Khi đó, đặc điểm này sẽ trở nên rõ ràng và chân thực hơn bao giờ hết. Một nhóm HSP thường yên tĩnh, tinh tế và không đòi hỏi quá nhiều như những nhóm thông thường. Điều này cũng dẫn đến một điểm quan trọng khác: khi không ở cạnh những HSP khác, họ cần nhớ phải điều chỉnh cách giao tiếp của mình. Họ cần nói thẳng thắn hơn, thậm chí mạnh dạn hơn trong chừng mực có thể. Họ không thể chỉ đưa ra những gợi ý mơ hồ về nhu cầu của mình rồi hy vọng người khác tự hiểu.
Tôi chọn kết thúc bài viết bằng năm gợi ý thực tế này vì tôi biết có rất nhiều người nhạy cảm cao, hoặc những người thân, bạn bè của họ, sẽ đọc được những dòng này. Như mọi khi, tôi chỉ muốn giúp đỡ họ nhiều nhất có thể. Bài viết này không phải về tôi, mà là về những ai đã tìm thấy một phần quan trọng của bản thân nhờ vào cơ duyên tình cờ của tôi với sự nhạy cảm cao. Đã có rất nhiều người nói với tôi: "Điều này đã thay đổi cuộc đời tôi". Có lẽ bài viết này cũng sẽ làm điều tương tự với một số người khác.
Nguồn: The highly sensitive person | Aeon.co