Những đứa con gái thiếu tình thương và mặt tối của việc "gác cổng" trong tình mẫu tử

nhung-dua-con-gai-thieu-tinh-thuong-va-mat-toi-cua-viec-gac-cong-trong-tinh-mau-tu

Khi những giá trị truyền thống che giấu và bình thường hóa hành vi độc hại

Việc người mẹ “gác cổng” chưa bao giờ là điều lành, nhưng trong một gia đình rối loạn hay độc hại, nó tạo ra ảnh hưởng sâu sắc hơn nhiều so với những gì ta thường nghe trong các cuộc trò chuyện hàng ngày. “Gác cổng” là một cách nói có vẻ nhẹ nhàng, dễ thương, khiến ta hình dung đến hình ảnh một người phụ nữ đứng bên hàng rào, có thể là đang mỉm cười hoặc cau mày, đúng không? Vậy thì có gì sai với việc “gác cổng”? Chẳng phải việc thiết lập ranh giới là điều tốt sao? Tôi cho rằng, cụm từ ấy cũng giống như “cha mẹ trực thăng”, một cách nói dễ nghe nhưng lại che đậy hàng loạt sai lầm trong cách nuôi dạy con, có khi là rất nghiêm trọng.

Việc người mẹ “gác cổng” đã được nghiên cứu từ nhiều thập kỷ trước, và thường được đưa ra khi bàn về lý do tại sao, trong thời đại 21 với vô số gia đình có hai người cùng đi làm, thì gánh nặng công việc nhà vẫn rơi lệch về phía phụ nữ. Hết nghiên cứu này đến nghiên cứu khác đều khẳng định rằng, ngay cả khi cả hai vợ chồng đều có việc làm, thì người cha vẫn tham gia ít hơn vào việc chăm sóc con cái và dọn dẹp nhà cửa so với người mẹ. Một số người lập luận rằng điều này không hẳn do đàn ông lười biếng, mà có thể là do phụ nữ vẫn giữ quyền kiểm soát chặt chẽ những công việc truyền thống vốn được gán cho giới nữ. Đó là cách hiểu hẹp nhất về “gác cổng” trong các nghiên cứu, thường chỉ xoay quanh ảnh hưởng của nó đến vai trò làm cha. Các nhà nghiên cứu đã nhìn nhận vấn đề này từ nhiều khía cạnh khác nhau; tôi sẽ bắt đầu từ đó, nhưng rồi sẽ dẫn bạn đến một vùng tối hơn: khi người mẹ không chỉ giữ vai trò gác cổng, mà còn say mê thao túng, mang trong mình những đặc điểm kiểm soát cao, hoặc tính cách ái kỷ, lạnh lùng về mặt cảm xúc, hay luôn sẵn sàng gây gổ. Và khi điều đó xảy ra, tác động không chỉ đơn thuần là làm lệch cán cân nữa.

Ai là người có xu hướng "gác cổng", và vì sao?
Nhiều năm trước, tôi có một đồng nghiệp mà tôi rất quý mến, cô ấy từng thổ lộ sự không hài lòng với cách chồng mình chăm sóc con cái và lo toan việc nhà. Cô là người kiếm tiền chính trong gia đình, với một công việc khó nhằn và lương cao trong giới doanh nghiệp. Còn anh là nhạc công, thường làm việc vào buổi tối và cuối tuần, thực tế là một ông bố ở nhà chăm con. Họ đã rời thành phố để về vùng ngoại ô, không còn phải sống chen chúc trong căn hộ chật hẹp của New York, và theo lời cô, bọn trẻ đang phát triển rất tốt. Cô hài lòng với quyết định chuyển nhà, thậm chí còn thấy chuyến tàu dài trở về nhà mỗi ngày như một khoảng thời gian thư giãn quý giá. Nhưng khi nói chuyện, cô vẫn cau mày, nhấp một ngụm rượu và bảo: “Tôi biết mình không công bằng, nhưng lúc nào tôi cũng cảm thấy nếu là tôi làm thì mọi thứ sẽ tốt hơn. Nhà cửa sẽ gọn gàng hơn, quần áo giặt sẽ ngăn nắp hơn, bọn trẻ sẽ được tổ chức chu đáo hơn, và tủ bếp sẽ đầy đủ hơn. Ngày nào tôi cũng phàn nàn về một thứ gì đó, và tôi biết anh ấy ghét điều đó, nhưng tôi không kiềm được. Căn nhà này chẳng giống gì với căn nhà của mẹ tôi ngày xưa, mẹ tôi là một người mẹ tuyệt vời, chu đáo, và điều đó khiến tôi phát điên. Tôi ghét cái giá mà gia đình mình đang phải trả chỉ vì tôi đi làm toàn thời gian.”

Source: Brooke Cagle/Unsplash

Đó chính là bản chất của việc “gác cổng” trong vai trò làm mẹ, và vâng, ngay cả những bà mẹ ở nhà toàn thời gian cũng có thể hành xử như vậy; việc cô ấy nhắc đến cách mẹ mình từng nuôi dạy con là một mảnh ghép quan trọng trong bức tranh tổng thể. Nhưng nếu ta nghĩ rằng “gác cổng” chỉ đơn giản là câu chuyện về vai trò giới truyền thống, thì cần phải suy nghĩ lại, theo một nghiên cứu của Sarah J. Schoppe-Sullivan và cộng sự, công bố năm 2015. Điều đặc biệt của nghiên cứu này là họ không chỉ quan tâm đến hệ quả của việc gác cổng, mà đi sâu vào lý do tại sao phụ nữ lại có xu hướng làm điều đó. Mẫu nghiên cứu bao gồm 183 cặp đôi sắp chào đón đứa con đầu lòng và được theo dõi liên tục trong ba tháng sau sinh.

Họ đã xem xét những yếu tố dự đoán hành vi “gác cổng”, và ngược lại, những yếu tố giúp “cánh cổng” mở rộng: những biến số được đưa vào bao gồm kỳ vọng của người mẹ (trong đó có cả chủ nghĩa cầu toàn và sự hài lòng trong hôn nhân), kỳ vọng của người cha, tính cách bất ổn, lo âu và trầm cảm ở người mẹ, mức độ tín ngưỡng của mẹ, và cả niềm tin vào vai trò giới truyền thống.

Khi những giá trị truyền thống che giấu và bình thường hoá hành vi độc hại

Nghiên cứu này chỉ ra rằng, vai trò giới chỉ góp phần rất nhỏ vào hành vi “gác cổng”, trong khi chất lượng mối quan hệ vợ chồng lại đóng vai trò then chốt, cùng với việc người mẹ đặt kỳ vọng cao vào khả năng làm cha của người bạn đời. Những bà mẹ tiếp cận việc nuôi dạy con với sự cầu toàn thường có xu hướng chỉ trích bạn đời nhiều hơn, và đúng vậy, có xu hướng gạt họ ra bên lề. Điều thú vị là, dù hành vi “gác cổng” của người mẹ thường xuất hiện rõ nét sau khi ly hôn, nghiên cứu này cho thấy rằng chính cảm giác của người mẹ, rằng mối quan hệ hay cuộc hôn nhân sẽ không kéo dài, lại là yếu tố dự báo rất rõ ràng cho việc gác cổng.

Tình trạng tâm lý yếu kém của người mẹ cũng liên quan đến hành vi “gác cổng” nhiều hơn, dù điều đó nghe có vẻ ngược đời, nếu bạn đang lo lắng hay căng thẳng vì việc nuôi con, chẳng phải bạn sẽ muốn được giúp đỡ nhiều hơn sao, chứ không phải ít đi? Các tác giả nghiên cứu không đưa ra câu trả lời dứt khoát, nhưng gợi ý rằng có thể những người mẹ “gác cổng” ấy có thái độ đối kháng với việc cùng nuôi con, hoặc quá mức kiểm soát đối với con cái. Cuối cùng, sự tự tin của người mẹ vào khả năng làm mẹ của bản thân có thể khiến cô nhìn người cha như một kẻ học việc, trong khi mình là “bậc thầy”, và điều này cũng khiến hành vi gác cổng gia tăng. Thật trớ trêu, phải không? Rằng sự tự tin đôi khi lại khiến ta khép cánh cửa thay vì mở nó ra.

À, và nếu bạn đang thắc mắc: người bạn ấy của tôi cuối cùng đã ly hôn với anh chồng ở nhà chăm con.

Việc “gác cổng” của người mẹ và người mẹ thiếu tình thương

Cách một người mẹ sử dụng hành vi “gác cổng” để đẩy vai trò của người cha ra ngoài rìa có thể trở nên rất rõ ràng và có chủ đích trong những gia đình rối loạn, đặc biệt là khi người mẹ ấy có xu hướng kiểm soát cao, hoặc trong một cuộc hôn nhân đầy mâu thuẫn.

Thật buồn thay, khi người cha bị tách biệt khỏi con cái, nhất là khi người mẹ vốn đã thiếu sự kết nối với một hoặc vài đứa con thì nỗi đau và tổn thương càng bị nhân lên, như lời kể của một người con gái:

“Mẹ tôi bảo vệ căn nhà và ba đứa con trong đó dữ dằn như gấu giữ hang. Bà luôn chế giễu và làm nhục mọi nỗ lực của cha tôi. Thật lòng mà nói, tôi nghĩ ông đã rút lui để tự bảo vệ mình, trở thành ba con khỉ bịt mắt, bịt tai, bịt miệng. Mẹ tôi ngược đãi tôi, nhưng lại hiền hơn với các anh tôi. Tuy vậy, chúng tôi lại oán trách cha nhiều hơn, vì ông đã không đứng lên. Mẹ tôi có thể đã là phù thuỷ với tôi, nhưng sự hèn nhát của cha mới là vết thương phản bội sâu nhất. Chúng tôi có thể bất đồng khi nói về mẹ, nhưng khi nói về cha, chúng tôi đều đồng lòng.”

Sự im lặng và không phản kháng của người cha trước hành vi “gác cổng” khiến phần lớn những đứa con không được yêu thương cảm thấy như bị phản bội.

Hành vi “gác cổng” cho phép một người mẹ có tính kiểm soát hay tính cách ái kỷ chia để trị, bằng cách lôi kéo người chồng theo phe mình hoặc loại anh ta khỏi cuộc chơi, để một mình thao túng và điều khiển ngôi nhà theo ý muốn. Thường thì, việc “gác cổng” này còn mở rộng đến cả những đứa con, bà không chỉ sắp xếp từng hành vi của con, mà còn điều khiển cả mối quan hệ giữa chúng với nhau.

Dù hành vi này không luôn được định nghĩa là “gác cổng”, nhưng tôi cho rằng ta nên nhìn nhận rằng: “gác cổng” hoàn toàn có thể len lỏi vào mọi tương tác trong gia đình. Đây là câu chuyện của “Nina”:

“Mẹ tôi tích cực ngăn cản cha gần gũi với tôi và em gái tôi; bà thật sự khiến việc cha con tôi có thời gian riêng bên nhau trở nên bất khả thi. Bất kỳ ý kiến nào cha tôi đưa ra đều bị bà bác bỏ to tiếng và rõ ràng. Bà điều hành ngôi nhà như một trại huấn luyện quân sự, còn cha tôi chỉ như người lính quèn trong đội quân của bà. Em gái tôi nhỏ hơn tôi bốn tuổi, và ngay khi chúng tôi bắt đầu thân thiết bởi chúng tôi phải cùng đối mặt với những lời chỉ trích cay nghiệt của bà, thì mẹ bắt đầu chia rẽ chúng tôi bằng cách luân phiên biến một đứa thành cái gai, cái bị ghét. Cuối cùng, em tôi trở thành đứa con được yêu chiều, còn tôi bị đẩy ra ngoài. Giờ chúng tôi đã trưởng thành, nhưng mô thức ấy vẫn còn nguyên. Thật lòng mà nói, tôi không biết cha tôi là ai, ông nghĩ gì, dù ông đã là cha tôi suốt 42 năm. Nếu có nghĩ đến tôi, thì ông cũng chỉ lặp lại lời mẹ tôi, giống như em tôi vậy. Mẹ tôi và em như hai giọt nước, còn tôi thì vẫn là đứa bị ghét bỏ.”

Dựa trên lời kể, có thể thấy một phần hành vi “gác cổng” cũng là việc “ghi sổ nợ”, và đôi khi nó liên quan đến lịch sử hôn nhân mà người con gái không hề biết cho đến tận sau này trong đời. Điều này hoàn toàn đúng với “Jane”, nay đã 69 tuổi, là con một, và chỉ thật sự hiểu ra mọi chuyện khi bà bước vào tuổi ngoài bốn mươi, sau khi cha qua đời:

“Một trong những ký ức sớm nhất của tôi là mẹ hay thì thầm: ‘Chuyện này đừng nói với cha con nhé.’ Khi tôi còn nhỏ, không có lý do rõ ràng gì để không kể với cha, chuyện ấy có thể là một điều tốt hay xấu, nhưng thông điệp thì rất rõ: chúng tôi là một phe, còn ông là phe kia. Mẹ tôi là vợ hai của cha, tôi có hai anh trai cùng cha khác mẹ lớn hơn nhiều tuổi, và mẹ ở nhà nội trợ. Cha tôi kiếm được tiền khá, chúng tôi sống trong một căn hộ khiến người khác ao ước, mọi thứ tưởng chừng đầy đủ. Họ sống với nhau đến khi cha mất, nhưng mô thức ấy không thay đổi: ông bị gạt ra ngoài rìa, như một người đàn ông tài năng, nghiện rượu mỗi đêm, nhưng luôn cư xử duyên dáng.

Chỉ sau khi ông qua đời tôi mới biết, khi tôi khoảng sáu tuổi, cha tôi từng yêu một người phụ nữ khác. Khi ông nói ra mong muốn chia tay, mẹ tôi bảo rằng nếu ông bỏ đi, ông sẽ không bao giờ còn được gặp tôi nữa. Và ông đã ở lại. Nhưng cái giá ông phải trả thật nặng nề. Và tôi — tôi cũng đã phải trả giá, theo những cách mà mãi sau này tôi mới thấu.”

Đây là kiểu "canh cổng" mang tính trả đũa, nhưng một độc giả khác đã chia sẻ một câu chuyện còn phức tạp hơn nhiều:

“Tôi nghĩ có thể nói rằng mẹ tôi là người 'giữ cổng' ngay từ những ngày đầu đời của tôi. Bà đã từng kết hôn và ly hôn, có hai đứa con nhỏ, và bà không hề muốn có thêm thành viên mới trong gia đình. Bà đặt ra một điều kiện cuối cùng với bố tôi: bà sẽ sinh thêm một đứa trẻ, nhưng chỉ khi điều đó xảy ra trước khi bà bước sang tuổi 30. Điều đó cho họ ba tháng kể từ ngày cưới, và như một phép màu, tôi được thai nghén và chào đời kịp lúc. Bà cho phép bố tôi đặt tên cho tôi. Nhưng rồi lại đến một tối hậu thư khác, xuất phát từ niềm tin của mẹ tôi rằng hai đứa con đầu (anh chị cùng mẹ khác cha của tôi) chỉ có thể lớn lên lành lặn về mặt cảm xúc nếu không có sự phân biệt giữa chúng và tôi, đứa con ruột của ông. Thế là ông được yêu cầu rút lui khỏi mọi quyết định nuôi dạy con, và thực chất trở thành người cha kế của cả ba đứa. Lạ lùng thay, điều đó lại có vẻ hợp lý với ông, và ông đồng ý. Ông đảm nhận vai trò của một người đàn ông vui tính nhưng vắng bóng về mặt cảm xúc, một người ‘tốt bụng’ mà suốt 36 năm không bao giờ nhắn cho tôi một tin nào nếu không được mẹ tôi nhắc. Mọi chuyện đều phải thông qua mẹ tôi; ngay cả khi tôi đã trưởng thành và tha thiết cầu xin được có một mối quan hệ với ông, ông vẫn luôn ủng hộ mẹ tôi tuyệt đối. Bất kỳ lời phê bình nào về mẹ đều được ông xem như lời xúc phạm chính mình. Không có cách nào để tôi tiếp cận ông. Bà tận hưởng quyền kiểm soát, dù có đi kèm với bao oán giận, còn ông thì tận hưởng sự tự do, dù có nghĩa là đánh mất một mối quan hệ.”

Người mẹ ấy không chỉ kiểm soát, mà còn định hình mối quan hệ giữa con gái và các anh chị cùng mẹ, khiến bất kỳ sự gắn bó thân thiết nào cũng trở nên không thể. Và bạn sẽ không ngạc nhiên khi biết rằng, với khởi đầu như thế, câu chuyện này mãi mãi là một chuỗi dài của sự loại trừ, không có đoạn kết hạnh phúc.

Khi việc "giữ cổng" trở thành điều hiển nhiên, cho đến khi không thể chấp nhận được nữa

Điều mà các nghiên cứu thường bỏ sót, chính là trong cuộc sống thường nhật, những bà mẹ "giữ cổng" này trông chẳng khác gì những siêu anh hùng. Chủ nghĩa cầu toàn, nhu cầu kiểm soát, và mọi điều mà các phân tích từng chỉ ra, tất cả khiến họ trông như những người mẹ tận tụy, mẫu mực, ngay cả khi họ than phiền hay đôi lúc tỏ ra như đang hy sinh. Mọi thứ bề ngoài đều hoàn hảo: sân vườn được chăm sóc kỹ càng, nhà cửa gọn gàng, con cái chỉn chu. Và đối với đứa con của một người mẹ "giữ cổng", đây là một vấn đề gần như không thể vượt qua: Làm sao để giải thích sự khác biệt giữa vẻ ngoài và sự thật, khi mọi người đều nghĩ rằng mẹ mình đang làm rất tốt?

Chúng ta không còn sống trong thập niên 1950, khi mẹ chăm nhà, bố lo tài chính, nhưng vì sao chúng ta vẫn dễ dàng chấp nhận việc mẹ là người "giữ cổng"? Bởi vì điều đó củng cố cho những niềm tin văn hóa cũ kỹ: rằng phụ nữ vốn dĩ giàu lòng nuôi dưỡng, rằng làm mẹ là bản năng, rằng mọi bà mẹ đều yêu con. Không một điều nào trong số ấy là sự thật, nhưng cho đến giờ, chưa ai tìm ra được một lối nghĩ khác thay thế. Trớ trêu thay, việc mẹ giữ cổng lại như thể chứng minh cho tất cả những điều huyễn hoặc đó. Văn hóa của chúng ta có vẻ dễ tha thứ cho những ông bố vô trách nhiệm hơn là đối mặt với những người mẹ chiếm giữ mọi quyền lực, dù cho thực tế có nói ngược lại.

Và đây là câu chuyện của chính tôi — một câu chuyện mà tôi từng nghĩ là độc nhất và tàn nhẫn.

Tôi chưa từng viết kỹ về nó trước đây. Nhưng hóa ra, tôi không phải người duy nhất trải qua chuyện này; tôi đã nhận được vô số chia sẻ đau lòng từ những người trưởng thành từng bị ngăn cản không được nói lời từ biệt với người thân yêu trước lúc lìa đời, cha mẹ, anh chị em, ông bà và nhiều người khác, bởi một người "giữ cổng". Tôi 15 tuổi, đang học một kỳ tại Pháp thì những lá thư của bố tôi đột ngột dừng lại. Đó là năm 1964, gọi điện xuyên Đại Tây Dương khi ấy quá tốn kém. Tôi viết thư về cho mẹ, và bà trả lời rằng bố tôi quá bận để quan tâm đến tôi. Nghe có vẻ khó tin, bởi dù mối quan hệ giữa tôi và mẹ vốn tệ hại, tôi biết bố vẫn yêu tôi theo cách riêng của ông. Tôi viết cho bạn bè, nhờ họ gọi đến căn hộ của bố mẹ, và họ hồi âm rằng chẳng ai nhấc máy, có lẽ cả nhà đang vui vẻ đâu đó. Hãy nhớ rằng lúc đó là năm 1964, chưa có máy trả lời tự động.

Hai tháng sau, tôi đến Amsterdam với một người bạn để thăm bà ngoại, và lần đầu tiên tôi được báo rằng bố đang nằm viện và sắp qua đời. Tôi choáng váng. Bạn tôi quay lại Pháp, còn tôi cùng cô ruột, em gái của bố, bay về Mỹ. Chúng tôi ngồi trong sảnh bệnh viện suốt sáu ngày, nhưng mẹ tôi không cho chúng tôi vào thăm. Đó là hành động "giữ cổng" tối thượng: tôi đã không thể nói lời tạm biệt, không thể nói với bố rằng tôi yêu ông. Cũng như cô tôi vậy.

Điều khiến tôi băn khoăn là: đã 55 năm trôi qua, mà giờ viết lại điều này vẫn rất khó khăn. Cô tôi chưa từng tha thứ cho mẹ, và tôi cũng vậy. Vài năm trước, người bạn đã đi Amsterdam cùng tôi nhắc lại chuyện xưa; cô ấy hoặc đã quên, hoặc chưa từng biết rằng tôi chưa từng được gặp bố lần cuối. Cô ấy là mẹ của ba đứa con, được nuôi lớn bởi hai bậc phụ huynh yêu thương và nâng đỡ, giờ đã lên chức bà ngoại. Cô ấy cứ nhấn mạnh rằng hẳn phải có lý do nào đó khiến mẹ tôi không cho tôi gặp ông. Cô đoán có lẽ mẹ tôi muốn bảo vệ tôi. Tôi đáp lại: “Nhưng cô tôi cũng không được gặp ông ấy.” Cô ấy im lặng một lúc rồi nói: “Tớ thật sự khó tin là có người mẹ nào có thể tàn nhẫn đến thế.”

Những câu chuyện từ các cô con gái không được yêu thương luôn đối lập với điều người ta muốn tin về tình mẫu tử. Và ‘giữ cổng’ cũng chỉ là một biến thể khác của chủ đề ấy.

Quay trở lại vòng tròn ban đầu

Những ai không may mắn lớn lên trong sự kìm kẹp của kiểu “giữ cổng” cực đoan này, khi trở thành mẹ, thường trở nên nhạy cảm và tỉnh táo hơn. Điều thú vị là, theo nhà nghiên cứu Mary De Luccie, những người phụ nữ từng có cha ruồng bỏ hoặc vắng mặt lại ít khi có xu hướng “giữ cổng”, mà thường cởi mở và biết trân trọng hơn những nỗ lực của chồng hay bạn đời trong việc nuôi con.

Sau tất cả, "giữ cổng" là câu chuyện của quyền lực, và không nghi ngờ gì nữa, có những người mẹ cần nắm quyền kiểm soát tuyệt đối, dù điều đó tổn hại đến chồng họ và cả những đứa con. (Nếu bạn muốn hiểu sâu hơn, hãy tìm đọc cuốn Daughter Detox: Recovering from an Unloving Mother and Reclaiming Your Life của tôi.)

Nếu bạn đang đọc đến đây và vẫn đang trong hành trình nuôi dạy con, có lẽ bạn nên tự hỏi: trong ngôi nhà của mình, cánh cổng ấy, mở hay đã khép kín? Trong một thế giới mà việc cân bằng giữa công việc và gia đình luôn khó khăn, mà lúc nào cũng có quá nhiều việc phải làm và quá ít thời gian, thì giữ cổng, rốt cuộc chẳng phục vụ được ai cả. 

Tài liệu tham khảo:

Schoppe-Sullivan, S. J., Altenburger, L. E., Lee, M. A., Bower, D. J., & Kamp Dush, C. M. (2015). Who are the Gatekeepers? Predictors of Maternal Gatekeeping. Parenting, science and practice, 15(3), 166-186.

Schoppe-Sullivan, Sarah J., Geoffrey L. Brown, Elizabeth A, Cannnon, et al. “Maternal Gatekeeping, Co-Parenting Quality, and Fathering Behavior in Families with Infants.” (2008), Journal of Family Psychology, vol. 22, no.3 389-398.

De Luccie, Mary F. “Mothers: Influential Agents in Father-Child Relations,” (1996) Genetic, Social, and General Psychology Monographs. 122, 287-307.

Tác giả: Peg Streep

Nguồn: Unloved Daughters and the Dark Side of Maternal Gatekeeping | Psychology today

menu
menu