(Sách dịch) Rắn độc mặc comlê

sach-dich-ran-doc-mac-comle

Sách về những kẻ thái nhân cách nơi công sở.

Chương 1: Bộ comlê đẹp quá. Rắn độc có mặc comlê đẹp vậy không?

Tác giả: Paul Babiak và Robert Hare

Nguồn: Snakes in Suits: When Psychopaths Go to Work

Nguồn dịch: Blog dấu hiệu thời đại

Fred dẫn cả nhóm vào quán rượu O'Hare sau giờ làm việc tối hôm đó. Anh đặt trả hóa đơn chung rồi bắt đầu gọi đồ uống cho tất cả mọi người trong công ty. Khi nhiều người nữa đến nhập hội, những tiếng reo mừng và chúc tụng bắt đầu nổi lên khi mọi người ăn mừng sự may mắn của họ. Fred nâng cốc lên. Sự im lặng quay trở lại khi mọi người đều nâng cốc hướng về phía anh. “Chó Điên đã chết. Chó Điên sống mãi!”, anh hét lên cùng với niềm vui sướng của tất cả mọi người ở đó.

“Đúng, đúng!” họ vỗ tay hoan hô và cạn cốc, rồi những tràng cười và pháo tay tràn ngập cả quán. Không ai cảm thấy buồn tối hôm đó, một thay đổi lớn so với hầu hết các tối thứ sáu tại quán O'Hare trong suốt hai năm qua.

Mọi thứ ở công ty đều tốt cho đến khi Chó Điên đến. Lương và thưởng đều tuyệt vời, điều kiện làm việc dễ chịu, và cơ hội làm việc cho một trong những công ty lâu đời và được kính trọng nhất trong lĩnh vực này là điều rất có ý nghĩa với nhiều người. Tuy nhiên, như tất cả mọi điều tốt đẹp khác, rồi cũng đến lúc thay đổi. Giám đốc công ty, “Ông già Bailey” như bạn bè ông thường gọi (và hầu hết các nhân viên đều là bạn bè của ông), đã bán công ty dịch vụ tài chính của mình cho một công ty lớn hơn hai năm trước. Mặc dù vậy, như nhiều nhà quản lý thành công khác, ông không muốn thấy mình lặng lẽ chìm vào bóng tối, mà vẫn muốn có một vai trò trong công ty, vì vậy ông đàm phán và nhận một vị trí tư vấn tạm thời trong hội đồng quản trị để hỗ trợ quá trình chuyển đổi.

Hội đồng quản trị hoan nghênh sự giúp đỡ của ông và hoàn toàn thoải mái với việc ông thỉnh thoảng viếng thăm trụ sở công ty cũ (bây giờ là một chi nhánh). Bailey muốn những giá trị cũ mà ông tạo dựng phát triển và lan ra những chi nhánh khác của công ty mới. Nhưng điều đó không thành công. Một công ty lớn có nghĩa là bây giờ có nhiều chi nhánh và địa điểm, và khả năng ảnh hưởng của ông ngày càng giảm dần cùng với mỗi vụ sáp nhập mới. Những chi nhánh khác cũng có những giá trị, những cách làm riêng của họ.

Mặc dù ông đã quyết định không tham gia vào hoạt động hàng ngày của doanh nghiệp, một quyết định làm ông không hài lòng là việc thăng chức cho Gus, “một thằng nhóc nhắng nhít” theo đánh giá của Bailey, vào vị trí Giám đốc điều hành chi nhánh. Bailey coi Gus là một đứa chỉ giỏi xu nịnh, tránh đối đầu, thích đùn đẩy việc khó khăn cho người khác và dễ bị xiêu lòng bởi những lời nịnh nọt. Bailey nghĩ Gus dành quá nhiều thời gian gặp gỡ cấp trên trong công ty và quá ít thời gian điều hành công việc trong chi nhánh của anh ta.

Chẳng bao lâu những bình bia và bát lạc rang được đưa đến các bàn ở phòng trong của quán O'Hare, nơi cả nhóm đang bàn luận các chi tiết trong hồi kết của Chó Điên. Cùng lúc nhân viên từ các phòng ban hòa trộn với nhau, những người chỉ nghe phong phanh tin đồn hỏi thêm thông tin từ người bên cạnh, những người khác thì muốn xác nhận lại các chi tiết họ đã nghe. Thật thú vị khi thu thập những mẩu của câu chuyện và lắp ghép lại thành bức tranh hoàn chỉnh về những gì đã thực sự xảy ra.

Sáu tháng sau khi Gus được bổ nhiệm, mọi thứ bắt đầu rối tung. Lần đầu tiên trong lịch sử lâu đời của nó, chi nhánh của Bailey không đạt được mục tiêu đã định. Kết quả kém đến nỗi các nhà phân tích thị trường bắt đầu đưa ra những nhận xét không mấy dễ chịu, làm ảnh hưởng đến danh tiếng của cả công ty. Tồi tệ hơn nữa, có nguy cơ chi nhánh còn bị phạt một món tiền lớn một cách rất công khai và nhục nhã do không tuân thủ quy định trong một số hợp đồng chính phủ. Điều này chưa đến tai báo chí, nhưng chắc chắn nó sẽ gây chấn động nếu không được giải quyết nhanh chóng. Bailey cảm thấy cần phải cho Gus đi, và đề nghị để mình điều hành chi nhánh cho đến khi tìm thấy ứng cử viên tốt hơn. Hội đồng quản trị công ty không đồng ý. Với mong muốn giúp Gus, họ quyết định đặt ra một vị trí phó giám đốc điều hành dưới quyền anh ta.

Một người thu hút sự chú ý của họ như một ứng cử viên hoàn hảo là Helen. Helen tham gia một trong những chi nhánh được mua lại khác chỉ một năm trước và trở thành ngôi sao sáng trong thời gian ngắn. Bản đánh giá thành tích cá nhân ca ngợi tinh thần, sự siêng năng, khả năng tập trung, nhiệt huyết và những khả năng bẩm sinh khác. Cô đã chứng minh giá trị của mình cho cấp trên, xây dựng nên danh tiếng là một người có khả năng giải quyết mọi việc, hoàn thành tốt các dự án theo đúng tiến độ. Cũng phải thừa nhận rằng có một số thiệt hại xảy ra trong quá trình đó, nhưng điều đó có vẻ không làm các cấp trên của cô quan tâm, và họ đưa cô vào danh sách ứng cử viên cho những vị trí quản lý chủ chốt. Tuy nhiên, bất chấp những đánh giá sáng giá từ cấp trên, chi nhánh của cô vẫn hoạt động kém, trong khi tiếp tục tuyển thêm người, yêu cầu và được chấp thuận ngân sách ngày càng lớn hơn trong hai năm liên tiếp. Bailey tự hỏi làm sao ban quản lý có thể bỏ qua những con số này và đưa một người chỉ quen tiêu tiền phụ trách một chi nhánh đang có vấn đề về tài chính. Nhưng đấy không còn là quyết định của ông nữa rồi.

Helen vượt qua vòng phỏng vấn với ủy ban tìm kiếm một cách xuất sắc. Phong cách năng động, cuốn hút và khả năng chỉnh đốn các vấn đề về tổ chức mà cô tự nhận – những vấn đề mà rõ ràng là chi nhánh của Gus đang có – khiến cô trở thành lựa chọn hiển nhiên cho vị trí đó. Những nhà phân tích bên ngoài công ty cũng sẽ nhìn nhận việc bổ nhiệm một người quyết đoán, năng động và có khả năng như vậy vào một chi nhánh đang thất bại một cách đầy tai tiếng như một cam kết chắc chắn từ phía công ty sẽ đáp ứng các yêu cầu của chính phủ. Phong cách và thái độ của cô đều phù hợp với những gì ban quản trị và các nhà phân tích muốn thấy. Thời gian, hoàn cảnh và vị trí của cô đều có vẻ rất phù hợp.

Lynda, từ bộ phận kế toán, ngồi ở góc phòng nhấp cốc bia. Tiếng trò chuyện khàn khàn của các đồng nghiệp ngồi cùng tạo nên một khung cảnh dễ chịu cho những suy nghĩ riêng tư của cô. “Em phải vui mới phải, Lynda,” Julie, thành viên lâu năm của đội kiểm toán, nói. “Em đã thắng, và [từ tục tĩu bị xóa] đã biến rồi.”

Lynda uống một ngụm bia và mỉm cười bẽn lẽn. Vừa ra trường, cô không bao giờ nghĩ làm việc cho một công ty lớn sẽ như thế này. Vài tháng vừa rồi đã rất khó khăn với cô. Dĩ nhiên là cô có thể xử lý công việc, và còn phổ biến vài kỹ thuật đánh giá bằng máy tính mới được học ở trường đến cho nhóm. Nhưng nỗi đau mà cô đã phải chịu không chịu biến đi.

“Nghe đây, Lyn. Thế giới này gồm đủ loại người, và em không may vớ phải một đứa đểu trong công việc đầu tiên. Nhưng hầu hết mọi người là tốt và muốn làm tốt công việc của mình – em là một trong số họ, và em được bao bọc bởi bạn bè – em đã làm đúng; em là anh hùng của chúng ta.” Ánh mắt cảm thông từ mọi người quanh bàn hướng tới cô, và Julie quàng tay ôm lấy Lynda. Cô mỉm cười.

Lynda không may đã là mục tiêu hành hạ trong bộ phận kế toán. Có thể đó là sự ngây thơ, tuổi trẻ hay xu hướng trung thực của cô, nhưng ngay cả Julie cũng không thể che chắn cho cô hoàn toàn. Julie đã cố gắng bảo vệ cho Lynda khi quá trình kiểm toán của cô đặt ra nhiều dấu hỏi nghiêm trọng về những gì Chó Điên đang làm, nhưng thực lực của Julie không thể lại được với Chó Điên.

Helen thất vọng với quyết định đó. Cô đã nghĩ Gus sẽ bị loại bỏ và cô sẽ nhận được vị trí cao nhất trong chi nhánh. Phó giám đốc nhân sự của chi nhánh giải thích với cô rằng vị trí hiện thời là một vị trí rất nổi bật, có vai trò quyết định trong việc cải thiện hoạt động hàng ngày của chi nhánh. Tất cả mọi người sẽ để ý xem cô có thể giúp Gus xoay chuyển tình thế trong thời gian ngắn không. Cô được cho biết hoàn thành xuất sắc vai trò mới sẽ giúp mang lại những đề bạt nhanh chóng và đáng kể trong tương lai. Thêm vào đó, Helen và Gus được xem như một kết hợp tuyệt vời cho công việc, và mặc dù khá là khác nhau trong cách tiếp cận và phong cách, họ là một đôi rất tốt – cô có thể học từ kinh nghiệm của Gus cũng như Gus học từ cô.

Helen nói cô sẽ nhận công việc mới nếu cô có được sự giúp đỡ cần thiết để thành công, một yêu cầu ai cũng phải thấy là hợp lý. Tổng công ty sẵn sàng làm mọi điều cần thiết và phê duyệt mọi yêu cầu nhằm giải quyết vấn đề đáng xấu hổ trong lịch sử công ty này. Do vậy, hoàn toàn ngược lại với những kiểm soát tài chính chặt chẽ ở những chỗ khác trong công ty, Gus và Helen gần như có bất cứ thứ gì họ yêu cầu. Với những đảm bảo như vậy, và gần như một tấm séc trắng đã ký sẵn, Helen đồng ý nhận công việc.

Chỉ sau hơn sáu tháng, những vấn đề gây phiền phức cho chi nhánh dường như đã biến mất. Tỷ lệ đạt yêu cầu trong thực thi các hợp đồng chính phủ tăng lên đến 95%, những sai sót (về con người, chương trình máy tính và thủ tục) mà lúc trước dẫn đến những vấn đề đó được tìm ra và nhanh chóng khắc phục, và câu hỏi về việc tuân thủ quy định chính phủ đã biến đi một cách lặng lẽ. Một mình Helen nhận được hầu hết sự khen ngợi trong việc cứu chi nhánh. Ngay cả Gus cũng tỏ lời khen cô, đặc biệt là về đạo đức nghề nghiệp, sự siêng năng và cống hiến cho công việc.

Fred đi một vòng đến từng nhóm nhỏ trong phòng. Những lời chúc tụng và cạn cốc phát ra ở mỗi nhóm anh đến. Những mẩu hội thoại sôi nổi cũng được nghe thấy trên nền âm thanh chung. Rick, ở phòng thư tín, xác nhận là cảnh sát bang đã có mặt ở cửa sau để giữ tất cả mọi người ở lại bên trong. “Và có hai tay mặc com-lê đen mang máy tính, giấy tờ và cả giấy vụn trong sọt rác nữa,” anh ta thuật lại. Sheila, ở bộ phận an ninh, xác nhận đã nhận được điện thoại sáng hôm đó, tiếp đến là mệnh lệnh đặt các nhân viên an ninh ở cửa trước. “Vâng, còng tay nữa,” cô trả lời thắc mắc của đám nhân viên tiếp thị.

Không ai ngạc nhiên khi Gus bị thuyên chuyển khỏi vị trí – có lẽ ngoại trừ Gus – sau khi Helen nói với các thành viên hội đồng quản trị về những lỗi lầm của anh ta trong kết quả kinh doanh đáng thất vọng lúc trước. Cô có những ý tưởng thông minh, rất nhiều nhiệt huyết và rất bền bỉ trong việc giành lấy những gì cô muốn. Cô xây dựng nên một câu chuyện nghe rất có lý về khả năng quản lý yếu kém của Gus, đồng thời làm nổi bật vai trò của cô. Helen có cá tính cực kỳ cạnh tranh, rất mạnh mẽ trong giao tiếp với người khác và rất thích là trung tâm của mọi sự chú ý. Việc xoay chuyển tình thế ở chi nhánh đã cho cô bàn đạp cần thiết để vươn tới một sự nghiệp lớn ở công ty. Nói chung, cô đã khiến họ tin rằng cô có tất cả những đức tính cần thiết để lãnh đạo một công ty lớn. Cô là lựa chọn hiển nhiên để thay thế Gus, và đã được thăng cấp lên vị trí giám đốc điều hành chi nhánh của Gus.

Cánh cửa trước của quán O'Hare mở từ từ. Một người đàn ông to lớn đứng ở đó trong bộ áo choàng dài màu đen. Ông liếc nhìn đồng hồ và tiến về phía quầy rượu. O'Hare đứng ở quầy tối hôm đó và gật đầu chào ông. Tháo găng tay đen ra, người đàn ông gọi một cốc rượu cốc-tay gừng. O'Hare gật đầu và đi pha cốc rượu.

Dĩ nhiên không phải ai cũng thích Helen, và một số nhân viên không tin tưởng cô ta. Cô đối xử với cấp dưới với thái độ coi thường và khinh thị, thường chế giễu khả năng làm việc của họ. Ngược lại, với những người mà cô ta thấy hữu ích cho sự nghiệp của mình, cô ta tỏ ra duyên dáng, hấp dẫn và luôn vui vẻ. Cô có biệt tài trưng ra mặt tốt của mình cho những người cô cảm thấy quan trọng, trong khi bôi nhọ và loại trừ bất cứ ai không đồng ý với những quyết định của cô.

Helen trở nên nổi tiếng về tài rót vào tai cấp trên những gì họ muốn nghe. Cô ta chuẩn bị cho những cuộc gặp với ban quản trị như chuẩn bị quay phim ở Hollywood. Cô bắt tất cả cấp dưới phải báo cáo theo những kịch bản đã thỏa thuận trước, và dành tất cả những câu hỏi bất ngờ hoặc khó trả lời cho cô. Theo các đồng nghiệp, Helen là bậc thầy trong nghệ thuật gây ấn tượng, và cô ta đã thành công trong việc điều khiển cấp trên, đe dọa cấp dưới và nắm chặt tất cả những ai quan trọng với cô ta.

Cầm cốc rượu của mình lên, người đàn ông nhìn quanh quán. Ơ đây yên tĩnh ngoại trừ tiếng ồn từ căn phòng phía sau. Vị khách gọi một cốc nữa, đặt thẻ tín dụng của mình lên bàn. O'Hare rót đầy cốc, đặt lên bàn rồi cầm thẻ tín dụng đi trừ tiền.

Sau khi vụ rắc rối với chính phủ đã trở thành dĩ vãng và Gus không còn là vật cản, Helen bắt đầu bộc lộ phong cách quản lý độc đoán của mình. Mỗi buổi họp với nhân viên là một màn diễn đầy kịch tính và các nhân viên thường cảm thấy bầm dập, nhục nhã sau mỗi cuộc gặp mặt với cô ta. Cô ta thường sùng sục đi quanh khu văn phòng mới – mà cô ta vừa thuê chỉ vì cô ta muốn có một căn phòng làm việc rộng hơn cho mình – không chào hỏi ai, tuôn ra mệnh lệnh cộc lốc và nói chung là dọa nạt, xô đẩy mọi nhân viên.

Phong cách này hoàn toàn trái ngược với Bailey, một người mà cửa phòng làm việc luôn mở rộng, một người thường xuyên đi tiếp xúc với nhân viên, lắng nghe ý kiến mới để cải thiện doanh nghiệp. Bailey quý trọng nhân viên của mình và làm họ phải kinh ngạc với khả năng nhớ tên vợ hoặc chồng của họ hay nhớ những thành tích mà con cái họ đạt được. Bailey là một con người của công chúng, một người không chỉ cực kỳ thông minh mà còn rất biết cách kiếm tiền, và ông kiếm rất nhiều tiền. Ông biết rằng thành công của ông – thành công của doanh nghiệp – phụ thuộc vào chất lượng của các nhân viên và ông chia sẻ vinh quang cũng như bổng lộc với mọi người xung quanh.

Trong vài tháng sau đó, Helen tuyển nhóm nhân viên mới của riêng cô ta, thay thế nhiều đối thủ to mồm trong đám nhân viên kỳ cựu ở chi nhánh. Dựa trên cảm tính cá nhân khi tuyển nhân viên, cô ta thường đưa ra những món thưởng lớn để lôi kéo các tài năng trẻ tuổi rời khỏi công việc hiện thời của họ, và rồi nếu cô ta quyết định – chỉ trong vài ngày hoặc vài tuần – rằng họ không phù hợp với mình, lập tức cho họ nghỉ việc. Cô ta sa thải hầu hết nhóm người mới tuyển một cách cực kỳ nhanh chóng khi cô ta cảm thấy họ không đủ năng lực hay không cần thiết. Không hề có sự quan tâm về những tổn hại mà cô ta đã gây ra với sự nghiệp và cuộc sống gia đình của những người đó, hay những vấn đề pháp lý mà cô ta có thể gây ra cho công ty.

Helen dường như có thể làm bất kỳ điều gì cô ta muốn mà không làm sao, bao gồm cả việc mua sắm những thứ xa xỉ nhất như máy tính, xe hơi, căn hộ riêng hay bất cứ thứ đồ dùng để phô trương quyền lực nào khác. Helen bày ra một chuỗi hội thảo dành riêng cho ban quản lý ở những điểm du lịch nhiệt đới rất tốn kém, với những khách mời nổi tiếng, trong đó cô ta trưng bày những thành tích của chi nhánh mà cô ta nhận tất cả công trạng. Bản báo cáo thành tích của cô ta không hề khớp với sự thiếu gắn kết diễn ra lâu nay trong nội bộ chi nhánh – nhưng bằng cách nào đó, không ai ở ngoài chi nhánh nhận thấy điều này.

Cô ta không muốn và có lẽ không có khả năng thừa nhận rằng những quyết định của cô ta có thể mang đến hậu quả tiêu cực cho doanh nghiệp. Bất cứ ai đặt câu hỏi về hành vi của cô ta đều nhận được những phản ứng dữ dội, ví dụ như khi cô ta sa thải một chuyên viên quản lý mà tổng công ty thuê để giúp cô ta. Cô ta không bao giờ sai mà chỉ có đúng và chỉ quan tâm đến những tin tức tốt đẹp. Nhân viên phẫn nộ với cách cô ta diễu qua diễu lại như một nữ hoàng. Cô ta rất thích phô trương địa vị, quyền lực và những đặc quyền mà cô ta có trong công ty, bao gồm cả một máy bay riêng mà tổng công ty thuê cho cô ta. Cô ta có nhiều kẻ thù, nhưng nhiều nhân viên cũng sợ cô ta.

Người đàn ông ở quán liếc nhìn đồng hồ một lần nữa và nhìn quanh quán như thể tìm kiếm ai đó. “Họ ở trong kia,” O'Hare nói, gật đầu về phía cánh cửa ra phòng sau. “Tôi không nghĩ là họ đang đợi ông, nhưng ông cứ đi thẳng vào cũng được.”

Điều làm các nhân viên thực sự khó chịu là sự vắng mặt ngày càng tăng của Helen, trong khi lúc Gus còn phụ trách thì cô ta gần như sống trong phòng làm việc. Trợ thủ của cô ta, Ned – một gã bạn thân mà cô ta bổ nhiệm vào một vị trí phát triển kinh doanh mới – cũng thường vắng mặt cùng lúc, gây ra những tin đồn không mấy tốt lành. Một tin đồn nghiêm trong hơn là về việc anh ta hoạt động một doanh nghiệp khác nữa bên lề, mặc dù chính sách của công ty cấm điều đó. Sự có mặt của Ned gây ra bực bội trong các nhân viên, nhưng Helen bảo vệ anh ta và không ai dám mâu thuẫn hay đặt câu hỏi về anh ta.

Với cốc rượu trong tay, người đàn ông nhẹ nhàng đẩy cửa vào phòng trong. Không ai nhận thấy ông, ngoại trừ Fred.

“Ned bị tóm trong căng tin đang uống cafe,” Sheila thuật lại. “Khi họ còng tay hắn, hắn ta phản đối um sùm, đòi gọi điện cho luật sự!”

“Thế còn chuyện Chó Điên tìm cách thoát bằng máy bay?” Sam, một người luôn biết về các tin đồn cuối cùng, hỏi.

Nhìn thấy ai vừa bước vào phòng, Fred đặng hắng lớn tiếng để cảnh báo mọi người, nhưng chẳng mấy ai nghe thấy. Anh bắt đầu gõ vào cái cốc trước mặt bằng cái nhẫn của mình để thu hút sự chú ý. Nhiều người bắt đầu nhận thấy sự có mặt của người đàn ông mới vào. Tiếng ồn ào nhỏ dần thành tiếng thì thầm, và tiếng thì thầm tắt hẳn thành im lặng hoàn toàn.

Vụ gian lận bị phát hiện vừa thông minh lại vừa táo tợn. Không ai ngờ được rằng những khách hàng góp phần chủ yếu vào sự xoay chuyển tình thế và sự phát triển của chi nhánh là hoàn toàn hư cấu, và rằng Ned và Chó Điên là một nhóm lừa đảo. Các nhân viên cũng không hề biết rằng một số khách hàng lớn của chi nhánh cũng hoàn toàn do Ned bịa ra để thổi phồng kết quả kinh doanh. Không ai có thể tưởng tượng họ đã làm việc ngay cạnh một đôi lừa đảo.

Người đàn ông nhìn qua các gương mặt trong phòng, mỉm cười với những ai ông vẫn còn nhận ra. Thấy Shirley ở bàn sau, ông tiến về nhóm đó. Hầu hết mọi người ở đó đã đứng lên, nhưng Lynda, ngồi quay lưng ra cửa, vẫn còn chìm sâu trong suy nghĩ. Ông đi đến đâu, đám đông rẽ ra đến đó. Đứng bên cạnh cô, ông hỏi, “Cháu có phải Lynda không?” Giật mình khỏi cơn mơ màng, cô quay lại và thấy người đang đứng bên cô.

Ít có công ty nào trải qua vụ tai tiếng nổi đình nổi đám như hôm đó. Cuối cùng, các nhà chức trách khám phá được rằng Helen, dùng mã truy cập máy tính mà cô ta lấy được từ bộ phận công nghệ thông tin, đã thực hiện những thay đổi rất nhỏ trong tài khoản của nhiều khách hàng, dần dần chuyển một số tiền lớn vào tài khoản ngân hàng nước ngoài của cô ta. Ned, tình cờ có mặt ở văn phòng hôm đó, đã nhìn thấy cảnh sát đến và có đủ thời gian để gọi điện báo cho Helen trước khi lao khỏi phòng về phía lối ra ở căng tin và rơi vào tay cảnh sát. Helen may mắn hơn. Trong khi những chiếc xe không đánh dấu đi dọc phố về phía nhà cô ta, cô ta trốn khỏi cửa sau ngôi biệt thự, chạy qua vườn sau ra phố, nơi cô ta luôn đậu chiếc ô tô thứ hai sẵn sàng cho những vụ khẩn cấp như vậy. Trong khi chiếc máy bay do công ty thuê bị theo dõi, không ai tưởng tượng được rằng cô ta còn thuê một chiếc máy bay tư nhân khác ở sân bay địa phương phía bên kia thị trấn.

“Vâng, thưa ngài,” Lynda rụt rè nói.

“Chú muốn gửi lời cảm ơn của cá nhân chú về tất cả sự giúp đỡ của cháu. Chú thực sự đánh giá cao lòng can đảm và tính trung thực của cháu.”

“Ngài Bailey,” Fred tiến đến sau ông nói, “thật tuyệt khi thấy ngài ở đây. Xin chào mừng ngài đến với buổi gặp mặt nhỏ của chúng tôi.”

“Tôi cũng vui mừng khi gặp lại anh, Fred. Có vẻ như chúng ta đã hết bia rồi,” ông nói đầy hàm ý rồi ngồi xuống ghế bên cạnh Lynda. “Mọi người, bữa tiệc hôm nay là tôi chi,” Ông già Bailey nói. “Fred, anh có thể lấy một cốc nữa cho tôi được không? O'Hare biết tôi uống gì.”

Rắn độc mặc com-lê - Chương 2: Những người ấy là loại gì?

Tiểu thuyết và phim ảnh thường mô tả kẻ thái nhân cách theo những khuôn mẫu cực đoan. Chúng xuất hiện là những kẻ giết người hàng loạt, hiếp dâm và lừa đảo máu lạnh. Không may là điều này cũng có phần đúng, nhưng bức tranh trong hiện thực phức tạp hơn một chút.

Nhiều năm nghiên cứu tội phạm trong tù đã chỉ rõ mức độ tội ác và bạo lực của những kẻ thái nhân cách. Giờ đây chúng ta biết những kẻ thái nhân cách cả nam và nữ thực hiện nhiều tội ác hơn và đa dạng hơn những tội phạm bình thường. Những tội ác của chúng thường mang tính bạo lực hơn những tội phạm bình thường, và bản chất hành vi của chúng mang tính hung hăng, đe dọa, chế ngự và tàn bạo hơn. Hơn nữa, sự hung hăng và bạo lực của chúng có bản chất như thú săn mồi – lạnh lùng và tuyệt đối không có những chấn động tình cảm mãnh liệt thường đi kèm hành vi bạo lực của hầu hết người bình thường khác. Kiểu hung hăng và bạo lực của chúng mang tính công cụ, là một cách để chúng đạt mục đích, và rất hiếm khi đi kèm chút bận tâm nào về những đau đớn, khổ sở ở các nạn nhân. Ngược lại, hầu hết bạo lực ở các tội phạm khác mang tính phản xạ bột phát – một phản ứng nhất thời đối với sự đe dọa hay tình huống gây ra cảm xúc mãnh liệt. Loại bạo lực này thường được nối tiếp bởi cảm xúc hối hận và mặc cảm tội lỗi về những gì đã gây ra cho người khác.

Có lẽ điều nguy hiểm nhất từ khía cạnh an toàn cộng đồng là những kẻ tội phạm thái nhân cách tái phạm với tỷ lệ cao hơn nhiều và sớm hơn nhiều so với các tội phạm khác. Tỷ lệ tái phạm là phần trăm số tội phạm phạm thêm một tội ác nữa sau khi được trở về với cộng đồng. Những kẻ thái nhân cách chiếm khoảng 15% số tội phạm trong tù. Nhiều người trong số 85% còn lại có thể coi là thái nhân cách xã hội hay bị rối loạn nhân cách chống xã hội, một rối loạn tương tự thường bị nhầm lẫn với chứng thái nhân cách (xem dưới đây). Mặc dù tỷ lệ thái nhân cách trong dân số nói chung là khá nhỏ – chỉ khoảng 1% - những tác hại về xã hội, kinh tế, thể chất và tinh thần gây ra bởi những cá nhân với chứng rối loạn này vượt xa con số đó. Chúng gây ra ít nhất một nửa những tội ác bạo lực nghiêm trọng ở Bắc Mỹ. Tuy vậy, như chúng ta sẽ thấy, không phải tất cả những kẻ thái nhân cách đều là tội phạm, và không phải tất cả tội phạm đều là thái nhân cách.

Thái nhân cách, thái nhân cách xã hội và rối loạn nhân cách chống xã hội

Nhiều người nhầm lẫn về sự khác nhau giữa thái nhân cách, thái nhân cách xã hội và rối loạn nhân cách chống xã hội. Những thuật ngữ này thường được coi như có thể hoán đổi cho nhau – bởi cả công chúng và các chuyên gia – nhưng chúng chỉ những rối loạn khác nhau mặc dù có liên quan.

Thái nhân cách (psychopathy) là một rối loạn nhân cách đặc trưng bởi những đặc điểm tính cách và hành vi mà chúng ta sẽ xem xét kỹ trong cuốn sách này. Những kẻ thái nhân cách không có lương tâm và không có khả năng đồng cảm, hối lỗi hay trung thành với bất cứ ai ngoại trừ bản thân chúng.

Thái nhân cách xã hội (sociopathy) không phải là một rối loạn tâm thần chính thức. Nó chỉ một tập hợp những thái độ và hành vi được coi là không phù hợp hay mang tính tội phạm bởi xã hội nói chung, nhưng được coi là bình thường hay cần thiết bởi một tầng lớp xã hội hay nhóm người nào đó. Những kẻ thái nhân cách xã hội có thể có lương tâm phát triển tốt và khả năng cảm nhận sự đồng cảm, hối lỗi và lòng trung thành, nhưng ý thức về cái đúng và cái sai của họ dựa trên các tiêu chí và những gì được coi là bình thường trong tầng lớp xã hội hay cộng đồng của họ. Nhiều tội phạm có thể được coi là thái nhân cách xã hội.

Rối loạn nhân cách chống xã hội ( antisocial personality disorder hay APD) là một danh mục chẩn đoán trong Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê, phiên bản IV (DSM-IV) của Hiệp hội Tâm thần Mỹ. Các hành vi hình sự và chống đối xã hội đóng vai trò chủ đạo trong định nghĩa của rối loạn này, và do vậy, APD tương tự như thái nhân cách xã hội. Một số người chẩn đoán với APD là thái nhân cách, nhưng nhiều người không phải. Sự khác biệt giữa chứng thái nhân cách và rối loạn nhân cách chống xã hội là ở chỗ chứng thái nhân cách bao gồm những đặc điểm tính cách như thiếu khả năng đồng cảm, tính khoa trương và cảm xúc hời hợt, mà định nghĩa của APD không có. APD phổ biến trong xã hội nói chung và trong cộng đồng tù nhân hơn chứng thái nhân cách từ 3 đến 4 lần. Mức độ phổ biến của những kẻ mà chúng ta có thể gọi là thái nhân cách xã hội là không xác định, nhưng có nhiều khả năng là cao hơn nhiều so với APD.

Ai đó có thể lập luận rằng những kẻ thái nhân cách sống tự do trong xã hội đơn giản là chưa bị bắt vì phạm tội ác hay thực hiện hành vi chống xã hội. Căn cứ vào đặc điểm tính cách, xu hướng coi thường luật lệ và đi sát đến giới hạn của những gì được coi là hành vi có thể chấp nhận được của những kẻ thái nhân cách, lập luận trên cũng không phải không có lý. Tuy nhiên, chỉ vì ai đó là thái nhân cách không có nghĩa rằng kẻ đó là tội phạm. Một số kẻ thái nhân cách sống trong xã hội và xét chi li ra thì không vi phạm pháp luật - mặc dù chúng đến rất gần điểm đó, với những hành vi thường là rất khó chịu cho những người xung quanh. Một số khác có thể sống những cuộc sống có vẻ như bình thường, không làm hại người khác một cách rõ ràng, nhưng lại gây ra những vấn đề về kinh tế, tâm lý và tình cảm theo những cách khó nhận thấy. Chúng sẽ không phải là những cha mẹ, con cái hay thành viên gia đình kiểu mẫu. Chúng cũng sẽ không phải là những bạn bè hay đồng nghiệp đáng tin cậy. Nhiều kẻ thái nhân cách chọn cách sống ăn bám, sống dựa vào sự hào hiệp hay cả tin của những người khác bằng cách lợi dụng lòng tin và sự giúp đỡ của bạn bè hay gia đình. Chúng có thể di chuyển từ nơi này qua nơi khác, từ nguồn hỗ trợ này đến nguồn hỗ trợ khác. Có nhiều khả năng bạn biết ai đó như vậy. Bạn có thể làm việc cho, làm việc cùng hay kết hôn cùng ai đó với chứng thái nhân cách mà không biết rằng có một thuật ngữ tâm thần cho cái kẻ đã gây cho bạn biết bao đau khổ. Đó cũng có thể là hàng xóm, bạn bè, thành viên gia đình với những hành vi mà bạn thấy khó hiểu và đáng ghê tởm.

Vậy làm thế nào các nhà tâm lý học và bác sĩ tâm thần xác định chính xác ai đó là thái nhân cách? Trong buổi sơ khai của lĩnh vực nghiên cứu về thái nhân cách, không có phương pháp tiêu chuẩn được chấp nhận rộng rãi nào cho mục đích đó. Các tiêu chí chẩn đoán khi đó mơ hồ, đôi khi dễ nhầm lẫn, và có thể thay đổi tùy theo kinh nghiệm cá nhân của người chẩn đoán. Cái quá khứ tối tăm u ám này đã sáng tỏ lên rất nhiều trong 50 năm qua và chứng thái nhân cách đã trở thành một trong những hội chứng tâm thần được nghiên cứu nhiều và hiểu rõ nhất.

Một người tiên phong trong những năm đầu của lĩnh vực này là tiến sĩ Hervey Cleckley, làm việc với tư cách bác sĩ tâm thần tại một cơ sở tâm thần cuối những năm 1930. Các phạm nhân và bệnh nhân được gửi đến bệnh viện tâm thần để điều trị nếu người ta cho rằng họ bị căn bệnh tâm thần nào đó. Cleckley có cơ hội nghiên cứu các bệnh nhân của ông một cách cẩn thận, và ông nhận ra rằng nhiều người trong số họ không biểu lộ các triệu chứng thông thường của bệnh tâm thần, mà thay vào đó có vẻ “bình thường” trong hầu hết mọi lúc. Ông quan sát họ mê hoặc, điều khiển và lợi dụng các bệnh nhân khác, hay người thân, hay thậm chí cả nhân viên bệnh viện. Trong con mắt chuyên môn của Cleckley, những cá nhân đó là những kẻ thái nhân cách.

Cuối cùng Cleckley đã viết cuốn sách mà về sau trở thành cuốn giáo khoa kinh điển về chứng thái nhân cách Mặt Nạ Của Sự Bình Thường (The Mask of Sanity). Xuất bản lần đầu vào năm 1941, cuốn sách này giờ đang ở phiên bản thứ năm (1976), và là một trong những cuốn sách đầu tiên đưa ra một bức tranh rõ ràng về chứng thái nhân cách. Mặc dù có trí tuệ bình thường, các bệnh nhân của Cleckley thường có những quyết định sai lầm, không học hỏi được từ kinh nghiệm bản thân, khiến họ lặp lại những hành vi lệch lạc, không mang lại kết quả tốt đẹp. Họ thiếu khả năng nhận thức về bản thân và về tác động của những hành vi của họ lên người khác, nhưng có vẻ hoàn toàn không bận tâm về điều đó. Họ không hiểu và cũng không bận tâm đến cảm xúc của người khác, không có khả năng cảm thấy xấu hổ hay hối lỗi về những thiệt hại họ gây ra cho người khác. Họ rất không đáng tin cậy, ngay cả về những thứ liên quan đến hoàn cảnh hiện tại của họ, và có vẻ không có mục đích rõ ràng nào trong cuộc sống. Điều nổi bật nhất là những bệnh nhân này là những kẻ nói dối bậc thầy, nói dối về gần như tất cả mọi thứ (kể cả những thứ không quan trọng mà hầu hết mọi người không bỏ phí thời gian và năng lượng để nói dối). Họ không thành thật, nhưng bề ngoài lại thường tỏ ra rất thành thật với những ai ít kinh nghiệm tiếp xúc với họ, đặc biệt là các nhân viên mới.

Xem xét hồ sơ của họ cho thấy họ trở nên bạo lực hay chống đối xã hội vì những lý do dường như ngẫu nhiên hay phi logic. Họ có thể vị kỷ đến mức cùng cực, và dường như không có khả năng trải nghiệm những cảm xúc sâu sắc của con người, đặc biệt là tình yêu và lòng trắc ẩn. Họ không có mối quan hệ lâu dài hay thân tình nào. Ngay cả những quan hệ tình dục của họ cũng hời hợt và không có tình cảm. Trên thực tế, họ dường như không có khả năng cảm nhận một cách mãnh liệt bất cứ cảm xúc nào mà những người khác cảm nhận, có lẽ ngoại trừ những cảm xúc sơ đẳng như giận dữ, thịnh nộ hay thất vọng. Theo Cleckley, bề ngoài những kẻ thái nhân cách tỏ ra hấp dẫn và thông minh. Chúng thường có khả năng dễ dàng làm người khác vui, có thể kể những câu chuyện bịa nghe như thật. Họ không có vẻ có suy nghĩ hoang tưởng hay phi logic, đặc điểm thường thấy của rối loạn tâm thần, và họ cũng không có xu hướng tỏ ra lo lắng hay dễ xúc cảm. Bề ngoài họ tỏ ra bình thường, lành mạnh về tinh thần, có khả năng kiểm soát bản thân. Trên thực tế, nhiều người trong số họ khá là đáng yêu. Như Cleckley viết, “kẻ thái nhân cách trình diễn một vẻ bề ngoài hoàn toàn bình thường, thậm chí nhiều khi tỏ ra có khả năng trí tuệ cao, và khá thường xuyên thành công trong kinh doanh hay các hoạt động nghề nghiệp khác.”

Tiêu đề cuốn sách của ông, Mặt Nạ Của Sự Bình Thường (The Mask of Sanity), phản ánh niềm tin của Cleckley rằng mặc dù những kẻ thái nhân cách không bộc lộ các triệu chứng tâm thần rõ ràng, chúng mắc một chứng rối loạn sâu sắc trong đó thành phần ngôn ngữ và tình cảm của suy nghĩ không liên kết được với nhau, một hội chứng ông gọi là rối loạn ngữ nghĩa. Bạn đọc có thể bị cám dỗ bởi ý nghĩ có thể chẩn đoán ai đó có phải là thái nhân cách không chỉ bằng việc quan sát hay lắng nghe anh ta hay cô ta nói chuyện và đánh dấu các đặc điểm tương đồng trên danh sách của Cleckley. Tuy nhiên, Cleckley chưa bao giờ có ý định biến danh sách những quan sát của mình thành một danh sách tiêu chí chính thức dành cho việc chẩn đoán, và cũng chưa bao giờ thử nghiệm mô hình của mình bằng phương pháp thống kê. Với tư cách một bác sĩ nhiều năm tiếp xúc với những kẻ thái nhân cách, ông chỉ ghi lại những đặc điểm mà theo ông là đặc trưng của chứng thái nhân cách.

Việc xác nhận các quan sát của ông và phát triển những phương pháp khoa học để chẩn đoán được dành lại cho những người khác, một trong số đó là Hare, tác giả thứ hai của cuốn sách này. Hare mô tả những nỗ lực của ông trong cuốn sách Không Có Lương Tâm: Thế Giới Ghê Sợ Của Những Kẻ Thái Nhân Cách Giữa Chúng Ta (Without Conscience: The Disturbing World of the Psychopaths Among Us) như sau:

Khi mới bắt đầu sự nghiệp, tôi làm việc với tư cách bác sĩ tâm thần tại một trại giam an ninh cao để kiếm thêm tiền học cao học. Khi ở đó, tôi bắt đầu quan tâm đến hành vi của những kẻ thái nhân cách mà thỉnh thoảng tôi gặp. Mối quan tâm ban đầu của tôi là tìm hiểu xem có sự khác nhau gì về mặt tâm lý giữa những tội phạm thái nhân cách và không thái nhân cách hay không. Cleckley đã lưu ý rằng những kẻ thái nhân cách sử dụng ngôn ngữ hơi khác hầu hết những người bình thường. Sự khác nhau đó ở cấu trúc câu, cách lựa chọn từ ngữ và âm điệu của chúng. Tôi và một số nhà nghiên cứu khác còn nhận thấy rằng những kẻ thái nhân cách gặp khó khăn trong việc hiểu sắc điệu tình cảm của từ ngữ. Chúng thường mô tả những tội ác man rợ nhất của chúng một cách thản nhiên, không biểu lộ chút tình cảm nào. Chỉ nghe những lời miêu tả thản nhiên ấy cũng đủ làm ớn lạnh nhiều nhân viên điều tra, mặc dù họ thường có nhiều năm kinh nghiệm làm việc với tội phạm. Liệu có khác biệt gì đó trong não bộ những kẻ thái nhân cách có thể giải thích điều này?

Tôi muốn tìm hiểu sâu hơn về bộ não để tìm câu trả lời. Trong những thí nghiệm ban đầu, tôi thường cho các tội phạm thái nhân cách và không phải thái nhân cách đọc các từ mang nội dung tình cảm khác nhau và đo phản ứng sinh lý của họ. Những từ mang nội dung tình cảm cao như “hiếp dâm”, “máu me” hay “dao”, trong khi những từ mang nội dung tình cảm thấp như “cây cối”, “nhà cửa”, “đá”. Do được đào tạo chuyên về tâm lý học thực nghiệm, tôi biết rằng những từ có nội dung tình cảm cao sẽ gây ra những phản ứng sinh lý trên cơ thể các đối tượng tham gia và có thể được đo bằng các máy đo độ nhạy cao. Liệu điều đó có đúng với những kẻ thái nhân cách không?

Trở ngại đầu tiên là xác định chứng thái nhân cách. Không có đánh giá tiêu chuẩn và đáng tin cậy nào cho phép các nhà nghiên cứu xác định chứng rối loạn đó. Mức độ chính xác của chẩn đoán khi đó phụ thuộc rất nhiều vào khả năng và kinh nghiệm của nhà nghiên cứu. Một số nhà nghiên cứu có thể dùng tiêu chuẩn của Cleckley, một số khác dùng cuốn Sổ tay Chẩn đoán và Thống kê (DSM) của Hiệp hội Tâm thần Mỹ, cuốn sách hướng dẫn cho các bác sĩ tâm thần khi đó mới ra đời, một số khác nữa dựa vào kinh nghiệm của bản thân. Không có đồng thuận trong việc chẩn đoán, làm sao một nhà nghiên cứu ở Canada có thể chắc rằng một đồng nghiệp ở nơi nào khác trên thế giới sẽ lặp lại được những kết quả nghiên cứu của ông? Lỡ ra hai người không đồng ý trong việc xác định đối tượng nào là thái nhân cách, đối tượng nào không?

Tôi cần xây dựng một phương pháp chẩn đoán thái nhân cách cho việc nghiên cứu, và công cụ mới này phải đáng tin cậy và có cơ sở vững chắc về tâm lý học. Danh sách các mô tả về hành vi của Cleckley, mặc dù là điểm khởi đầu tốt, nhưng vẫn không đầy đủ. Bằng cách thu thập một số lớn những mô tả hành vi và đặc điểm của chứng thái nhân cách được biết đến khi đó và dùng các kỹ thuật thống kê để xử lý, tôi bắt đầu xác định được những đặc điểm và hành vi phổ biến và cụ thể nhất để phân biệt giữa người thái nhân cách và không thái nhân cách.

Kết quả của công trình nghiên cứu đó là Bảng Kiểm tra Thái nhân cách - Có Sửa đổi (Psychopathy Checklist – Revised), hay gọi tắt là PCL-R, một danh sách bao gồm 20 đề mục về đặc điểm và hành vi trong giao tiếp, tình cảm và lối sống. Những kẻ thái nhân cách “thực sự” có tất cả hoặc hầu hết các đề mục trong PCL-R, trong khi những người chỉ có một vài đề mục không phải là thái nhân cách. Trong suốt 20 năm trở lại đây, các nghiên cứu thống kê trong nhiều cộng đồng tội phạm trên khắp thế giới luôn cho thấy PCL-R là khuôn mẫu chính xác trong việc chẩn đoán chứng thái nhân cách.

Tự nhiên? Nuôi dưỡng? Cả hai?

Chứng thái nhân cách là sản phẩm của tự nhiên hay do nuôi dưỡng? Như với hầu hết những thứ khác của con người, câu trả lời là cả hai đều góp phần. Một câu hỏi hợp lý hơn là “Tự nhiên và nuôi dưỡng ảnh hưởng đến sự phát triển của những hành vi và đặc điểm đặc thù của chứng thái nhân cách đến mức nào?” Câu trả lời cho câu hỏi này đang trở nên ngày một rõ hơn với việc ứng dụng di truyền học hành vi vào các nghiên cứu về đặc điểm tính cách và hành vi.

Một số nghiên cứu trên các cặp song sinh gần đây cung cấp bằng chứng thuyết phục rằng yếu tố di truyền có tầm quan trọng ít nhất là tương đương với các yếu tố môi trường trong sự phát triển của các đặc điểm cốt lõi của chứng thái nhân cách. Các nhà nghiên cứu Blonigen, Carlson, Krueger & Patrick tuyên bố rằng kết quả nghiên cứu trên 271 cặp song sinh người lớn của họ cung cấp “bằng chứng đáng kể về sự đóng góp của yếu tố di truyền vào những đặc điểm tính cách của chứng thái nhân cách.” Sau đó, các nhà nghiên cứu Larrson, Andershed & Lichstenstien cũng đi đến kết luận tương tự trong nghiên cứu trên 1090 cặp thiếu niên song sinh của họ: “Yếu tố di truyền có thể giải thích hầu hết các sự khác nhau của tính cách thái nhân cách.” Viding, Blair, Moffitt & Plomin nghiên cứu 3687 cặp song sinh bảy tuổi và cũng kết luận rằng “những triệu chứng cốt lõi của chứng thái nhân cách được quyết định chủ yếu bởi di truyền.” Họ báo cáo rằng sự đóng góp của di truyền là mạnh nhất ở những trường hợp có đặc điểm tính cách nhẫn tâm - vô cảm kết hợp với hành vi chống xã hội.

Những bằng chứng này không có nghĩa là con đường dẫn đến chứng thái nhân cách ở người lớn là cố định và không thể thay đổi, nhưng nó chỉ ra rằng môi trường xã hội sẽ rất khó có thể khắc phục những gì tự nhiên đã mang lại. Như đã nêu ra trong cuốn Không Có Lương Tâm, những yếu tố cần cho sự phát triển của chứng thái nhân cách - như không có khả năng đồng cảm, không có khả năng cảm nhận tất cả các cảm xúc bình thường của con người trong đó có sợ hãi - được mang lại bởi tự nhiên, có thể là di truyền hoặc những ảnh hưởng sinh học chưa biết đến trong quá trình phát triển của bào thai. Kết quả là khả năng hình thành năng lực tự kiểm soát hành vi, lương tâm và khả năng “kết nối” tình cảm với người khác bị suy giảm rất nhiều.

Dùng cách ví von đơn giản, nó cũng như người thợ gốm nặn ra sản phẩm từ đất (nuôi dưỡng), nhưng đặc tính của đồ gốm đó còn phụ thuộc vào loại đất được dùng (tự nhiên).

Công cụ đáng tin cậy và được sử dụng rộng rãi nhất để chẩn đoán chứng thái nhân cách là Bảng Kiểm tra Thái nhân cách - Có Sửa đổi (PCL-R) của Hare. PCL-R là một thang đánh giá lâm sàng chứ không phải một bảng tự đánh giá. Đối tượng được đánh giá không tự trả lời các câu hỏi, như các trắc nghiệm tâm lý khác thường làm. Thay vào đó, một bác sĩ tâm lý hay tâm thần đã được làm quen với phương pháp đánh giá sẽ hoàn thành bản trắc nghiệm dựa trên một cuộc phỏng vấn kỹ lưỡng và dựa vào thông tin trong hồ sơ của đối tượng. Qua đó, với mỗi đề mục trong bảng kiểm tra, người bác sĩ tâm lý hay tâm thần phải đưa ra quyết định xem đặc điểm đó có ở đối tượng đang được đánh giá hay không. Với mỗi đề mục, nhiều tiêu chí đánh giá và kiểm tra được áp dụng. Có cả một cuốn hướng dẫn kỹ thuật chứa định nghĩa rất chi tiết và nhiều ví dụ hành vi cho tất cả 20 đề mục trong bảng kiểm tra.

Nếu người đánh giá cho rằng đối tượng được đánh giá rõ ràng có một đặc điểm nào đó, 2 điểm sẽ được ghi lại cho đề mục đó. Nếu đặc điểm đó chỉ xuất hiện đôi lúc hoặc không rõ ràng thì nó sẽ được nhận 1 điểm. Và nếu nó hoàn toàn không có ở đối tượng được đánh giá thì 0 điểm được ghi lại. Vì có cả thảy 20 đề mục trong bảng PCL-R, một người có thể được nhận điểm số từ 0 (nghĩa là không có chút triệu chứng thái nhân cách nào) đến 40 (nguyên mẫu thái nhân cách hoàn hảo).

Bảng PCL-R và phiên bản rút gọn PCL:SV đã cho phép các nhà nghiên cứu ở khắp nơi trên thế giới tiến hành nghiên cứu về mọi khía cạnh của chứng thái nhân cách, bao gồm cả khía cạnh thần kinh của nó. Như đã lưu ý lúc trước, một vấn đề được đặc biệt quan tâm là cách thức kẻ thái nhân cách xử lý các từ ngữ, hình ảnh mang nội dung tình cảm cao. Kết quả từ nhiều thí nghiệm chụp não (dùng máy chụp cộng hưởng từ MRI) cho thấy những kẻ thái nhân cách không có phản ứng não bộ giống người bình thường đối với những tác nhân kích thích bằng lời nói hay hình ảnh mang nội dung tình cảm cao. Trong khi những người bình thường có phản ứng não bộ đối với những từ ngữ và hình ảnh mang nội dung tình cảm cao khác hẳn so với những tác nhân kích thích trung tính, những kẻ thái nhân cách có cùng một phản ứng não bộ. Những kẻ thái nhân cách xử lý kích thích mang nội dung tình cảm cao như thể nó mang nội dung trung tính.

Trả lời được câu hỏi đó lại dẫn đến câu hỏi khác. Tại sao những kẻ thái nhân cách lại phản ứng khác so với người bình thường? Có phải bộ não của chúng có cấu trúc khác? Có phải sự nghèo nàn về tình cảm của chúng là do quá trình nuôi dưỡng từ nhỏ? Sẽ phải mất nhiều năm nghiên cứu nữa để có lời giải đáp cho những câu hỏi này, nhưng những tiến bộ đáng kể trong thiết bị thí nghiệm đang giúp chúng ta tiến tới một hiểu biết sâu sắc hơn về kẻ thái nhân cách. Nhiều nhà nghiên cứu vẫn tiếp tục nghiên cứu của họ trong những năm gần đây.

Từ những nghiên cứu ban đầu về PCL-R, một số lớn các nhà nghiên cứu đã dùng công cụ đó để đánh giá các tội phạm thái nhân cách ở nhiều quốc gia và điều kiện khác nhau. Những đề mục trong bảng đó đã vượt qua sự thử thách của thời gian và sự nghiên cứu kỹ lưỡng của các nhà khoa học. Mặc dù PCL-R được phát triển dựa trên cộng đồng tội phạm, nó cũng đã được dùng trên các nhóm khác, bao gồm cả các bệnh nhân tâm thần và công chúng nói chung. Tuy nhiên, đối với công chúng nói chung, một phiên bản khác của PCL-R có vẻ phù hợp hơn. Đó là Bảng Kiểm tra Thái nhân cách : Phiên bản Phân loại (PCL:SV), phát triển bởi Hare và các đồng nghiệp. Các đề mục trong PCL:SV được liệt kê dưới đây và được cho điểm theo cùng một cách cho điểm trong PCL-R. Tổng số điểm của 12 đề mục trong PCL:SV có thể dao động từ 0 đến 24.

Chúng ta có thể phân loại cách đặc điểm tính cách của kẻ thái nhân cách dựa trên một mô hình bốn yếu tố hay phạm trù. Phạm trù giao tiếp mô tả cách kẻ thái nhân cách trưng bày hay thể hiện bản thân đối với những người khác; phạm trù tình cảm mô tả những gì chúng có thể hoặc không thể cảm nhận về mặt tình cảm; phạm trù lối sống mô tả cách chúng sống trong cộng đồng; và phạm trù chống xã hội mô tả xu hướng hướng đến các hành vi chống xã hội của chúng. Lưu ý rằng việc cho điểm mỗi đề mục đòi hỏi phải có trình độ chuyên môn, phải tuân thủ theo hướng dẫn cho điểm trong cuốn Hướng dẫn Sử dụng PCL:SV, và phải có trong tay đầy đủ các thông tin qua nhiều cuộc phỏng vấn kỹ lưỡng và hồ sơ cá nhân chi tiết. Cuốn Không có Lương tâm (Without Conscience) cung cấp nhiều mô tả kỹ lưỡng hơn.

Các phạm trù và đặc điểm của kẻ thái nhân cách (từ PCL:SV)

Giao tiếp:

Hời hợt

Khoa trương

Dối trá

Tình cảm:

Thiếu khả năng hối lỗi

Thiếu khả năng đồng cảm

Không nhận trách nhiệm

Lối sống:

Bốc đồng

Không có mục tiêu trong cuộc sống

Vô trách nhiệm

Chống xã hội: Có lịch sử lâu dài

Kém khả năng kiểm soát hành vi

Hành vi chống xã hội lúc vị thành niên

Hành vi chống xã hội lúc trưởng thành

Một điểm số trong bảng PCL-R như thế nào thì được chẩn đoán là thái nhân cách? Hầu hết mọi người trong cộng đồng dân số nói chung sẽ có số điểm thấp hơn 5 trên bảng PCL-R, trong khi điểm số trung bình cho tội phạm nam và nữ là 22 và 19. Ngưỡng điểm 30 thường được dùng để chẩn đoán chứng thái nhân cách, mặc dù một số nhà nghiên cứu và bác sĩ dùng ngưỡng điểm 25 cho mục đích nghiên cứu. Khoảng 15% tội phạm nam và 10% tội phạm nữ có điểm số từ 30 trở lên.

Phiên bản PCL:SV có ít đề mục hơn PCL-R nhưng điểm số của cả hai bảng có cùng ý nghĩa về mặt lý thuyết cũng như thực hành. Hầu hết mọi người trong cộng đồng dân số nói chung sẽ có số điểm thấp hơn 3 trên bảng PCL:SV, trong khi điểm số trung bình trong cộng đồng tội phạm là khoảng 13. Ngưỡng điểm 18 thường được dùng để chẩn đoán chứng thái nhân cách.

Dù ngưỡng điểm nào được dùng đi chăng nữa, những cá nhân có điểm số cao rõ ràng là khác hẳn những cá nhân điểm số thấp. Sự khác biệt này là thuộc về bản chất hay mức độ thì vẫn còn chưa được xác định chắc chắn, mặc dù những bằng chứng nghiên cứu gần đây cho thấy cái sau có nhiều khả năng đúng hơn.

Tôi có phải thái nhân cách không?

Danh sách những đặc điểm thái nhân cách thường gợi lên sự lo ngại: “Chúa ơi! John rất là bốc đồng và vô trách nhiệm. Có khi anh ta là thái nhân cách!” Hoặc, “Tôi là người thích mạo hiểm và tôi lang chạ với rất nhiều người. Chết rồi, tôi là thái nhân cách!” Có thể là vậy, nhưng điều đó chỉ đúng khi nhiều đặc điểm liên quan khác cũng có mặt.

Hãy nghĩ về chứng thái nhân cách như một biến thiên đa chiều liên tục, như là huyết áp vậy. Nó có thể dao động từ thấp đến mức đáng báo động cho đến cao một cách nguy hiểm. Chúng ta có thể gọi những người có huyết áp tâm thu và tâm trương rất thấp hay rất cao là người huyết áp thấp hay người huyết áp cao. Ở giữa hai thái cực này là một dải các chỉ số huyết áp, một số được coi là bình thường, một số khác phản ánh những mức độ đáng lo ngại khác nhau, nhưng chưa đến mức được coi là bệnh lý.

Cũng tương tự như vậy, điểm số và mức độ nghiêm trọng (mật độ) của các đặc tính thái nhân cách có thể dao động từ gần như bằng 0, người đó có lẽ đã gần thành phật, cho đến cao một cách bất thường, biểu thị một rắc rối lớn. Chúng ta gọi những kẻ ở mức độ cao đó là thái nhân cách. Chúng có mức độ đặc biệt cao của những đặc điểm giao tiếp, tình cảm, lối sống và chống xã hội cấu thành định nghĩa của chứng thái nhân cách.

Hầu hết mọi người rơi vào giữa hai thái cực, nhưng chủ yếu ở gần thái cực thấp. Những người ở khoảng giữa có một số đáng kể những đặc điểm thái nhân cách, nhưng họ không phải là thái nhân cách theo đúng định nghĩa của từ này. Hành vi của họ sẽ phụ thuộc vào tập hợp những đặc điểm mà họ có. Dĩ nhiên, nhiều người trong số họ sẽ không phải là những công dân kiểu mẫu hay dễ chịu cho lắm. Những người còn lại có thể được mô tả với những từ như mạnh mẽ, tham vọng, thích quyền lực, thực dụng, thích chơi bời v.v...

Về tác giả:

Tiến sĩ Paul Babiak là một nhà tâm lý học chuyên về tổ chức doanh nghiệp và là giám đốc của HRBackOffice, một công ty tư vấn trong lĩnh vực phát triển nhân sự cấp cao. Những bài viết của ông đã được đăng trên các tờ New York Times, Washington Post, Harvard Business Review và nhiều tờ báo khác.

Tiến sĩ Robert D. Hare là tác giả cuốn Without Conscience (Không có lương tâm) và là người phát minh Bản Kiểm tra Thái nhân cách (The Pychopathy Checklist), công cụ chẩn đoán chứng thái nhân cách được sử dụng rộng rãi hiện nay. Ông là giáo sư danh dự khoa tâm lý học ở trường Đại học British Columbia, và là giám đốc Darkstone Research Group, một công ty nghiên cứu và tư vấn pháp y. Ông đã dành được rất nhiều giải thưởng cho những nghiên cứu về chứng thái nhân cách.

menu
menu