Ảo giác về ý thức

ao-giac-ve-y-thuc

Ý thức mà ta vẫn tin rằng mình đang trải nghiệm thực chất chỉ là một câu chuyện hư cấu mà bộ não dựng lên để giúp ta theo dõi tác động của thế giới đối với chính mình.

Trong bộ phim The Matrix (1999), Morpheus trao cho Neo một viên thuốc màu đỏ. Nếu uống nó, Neo sẽ phát hiện ra rằng thực tại mà anh vẫn tin tưởng chỉ là một ảo ảnh, được tạo ra bởi những cỗ máy thống trị nhằm giam cầm loài người. Tôi cũng muốn trao cho bạn một viên thuốc – nhưng lần này, nếu nó có tác dụng, bạn sẽ nhận ra rằng chính ý thức của mình cũng chỉ là một ảo giác, một câu chuyện mà bộ não dệt nên để giúp bạn theo dõi những hoạt động của chính nó. Quan điểm này – mà tôi gọi là thuyết ảo giác – thường bị xem là điều ngớ ngẩn (Galen Strawson từng gọi đó là “luận điểm ngốc nghếch nhất từng có”), nhưng cũng có những học giả bảo vệ nó, nổi bật nhất là Daniel Dennett. Và tôi muốn thuyết phục bạn rằng nó không hề ngớ ngẩn, mà biết đâu còn là sự thật. Bạn đã sẵn sàng để đi sâu vào hang thỏ chưa?

Điều đầu tiên cần làm rõ là chúng ta đang nói về điều gì. Thuật ngữ “ý thức” được sử dụng theo nhiều cách khác nhau, và khi tôi nói rằng ý thức là một ảo giác, tôi chỉ đang đề cập đến nó theo một nghĩa cụ thể. Chúng ta có thể làm sáng tỏ điều này bằng một ví dụ. Hãy lấy thị giác làm minh họa – dù bất kỳ giác quan nào khác cũng đều phù hợp. Giả sử bạn có đôi mắt khỏe mạnh và đang tập trung nhìn vào một quả táo đỏ ngay trước mặt, dưới ánh sáng tốt. Lúc này, bạn đang ở trong một trạng thái tinh thần nhất định, mà ta có thể gọi là trải nghiệm thị giác có ý thức về quả táo. Nếu bạn bất tỉnh hoặc đang ngủ, bạn sẽ không ở trong trạng thái này (dù nếu đang mơ, bạn có thể trải nghiệm một trạng thái tương tự). Nếu bạn chỉ lướt qua quả táo mà không thực sự để ý, hoặc chỉ nhìn thấy nó trong thoáng chốc một cách mơ hồ, bạn cũng không có trải nghiệm đó. Cuộc sống của chúng ta ngập tràn những khoảnh khắc như vậy, và không ai phủ nhận rằng chúng là có thật. Điều quan trọng ở đây là ta phải hiểu bản chất của những trải nghiệm này – và liệu trong đó có sự hiện diện của một dạng ý thức đặc biệt hay không.

Vậy, điều gì xảy ra khi bạn có một trải nghiệm thị giác có ý thức về quả táo? Rất nhiều thứ. Bạn đang tiếp nhận một lượng thông tin khổng lồ: màu sắc, hình dạng, kết cấu, vị trí, khoảng cách… Bạn nhận diện được nó là một vật thể rắn, là một loại trái cây, là một quả táo, thậm chí là một quả Red Delicious. Bạn hình thành những niềm tin tương ứng – rằng có một thứ như vậy ngay trước mắt mình. Bạn cũng vô thức đánh giá xem có thể tương tác với nó như thế nào: bạn có thể cầm lên, tung hứng, ăn, nấu chín… Các nhà tâm lý học gọi đây là khả năng tác động của vật thể. Đồng thời, bộ não bạn cũng đang chuẩn bị phản ứng: bạn hình thành kỳ vọng rằng quả táo sẽ không di chuyển hay tấn công mình; có thể bạn sẽ cảm thấy thôi thúc muốn cắn một miếng. Những ký ức và liên tưởng cũng trỗi dậy, ảnh hưởng đến tâm trạng của bạn hoặc dẫn dắt suy nghĩ sang một hướng khác. Dù bạn không chủ động nghĩ về tất cả những điều này, nhưng nếu ai đó hỏi, bạn có thể mô tả phần lớn chúng. Các thí nghiệm khoa học cũng cho thấy khi ta có một trải nghiệm có ý thức, vô số tín hiệu và liên kết được kích hoạt, giúp ta sẵn sàng phản ứng với các kích thích trong tương lai và quyết định ý nghĩa của trải nghiệm đó đối với ta.

Các nhà khoa học thần kinh đang dần hé lộ cơ chế não bộ phía sau những điều này. Nói một cách đơn giản, ánh sáng phản chiếu từ quả táo kích thích các tế bào nhạy sáng trong võng mạc, gửi tín hiệu điện hóa dọc theo dây thần kinh thị giác đến vùng nhân gối bên, sau đó truyền đến vỏ não thị giác ở phía sau đầu. Tại đây, các tín hiệu này kích hoạt hoạt động của các nhóm tế bào có cấu trúc phân tầng, chuyên xử lý những đặc điểm ngày càng phức tạp hơn – như đường nét, màu sắc, chuyển động, khuôn mặt… Khi bạn tập trung vào thứ mình đang nhìn thấy, thông tin thị giác này được phát sóng trên toàn bộ hệ thống tinh thần, đến các khu vực liên quan đến trí nhớ, lý luận, cảm xúc và ra quyết định. Chính quá trình lan tỏa thông tin này – được gọi là ý thức tiếp cận (access consciousness) – giúp thông tin tri giác trở nên khả dụng với toàn bộ tâm trí bạn, tức là với chính bạn, cá thể được hình thành từ hệ thống tinh thần này.

Chúng ta vẫn chưa hiểu đầy đủ về ý thức tiếp cận, và còn nhiều tranh cãi về cách thức hoạt động của các hệ thống thần kinh liên quan. Nhưng theo thời gian, khoa học có thể làm sáng tỏ những điều này. Tuy nhiên, nhiều triết gia cho rằng ngay cả khi ta hiểu hết mọi cơ chế trên, ta vẫn chưa thực sự nắm bắt được ý thức. Họ lập luận rằng bên cạnh toàn bộ quá trình xử lý thông tin ấy, còn một điều gì đó khác đang diễn ra. Đó là trải nghiệm chủ quan – hay nói cách khác, việc nhìn thấy quả táo có một cảm giác nào đó. Bạn cảm nhận màu đỏ của nó, độ sáng, độ bóng… mỗi đặc tính đều có một chất riêng. Những cảm giác này dường như là một phần bổ sung của trải nghiệm, vượt lên trên tất cả các phản ứng và nhận thức đi kèm. Và ta có thể tưởng tượng (đúng không?) rằng toàn bộ quá trình xử lý thông tin trên vẫn diễn ra, nhưng không thực sự có trải nghiệm nào xảy ra cả. Hay như David Chalmers từng nói trong cuốn The Conscious Mind (1996), “bên trong chỉ là bóng tối hoàn toàn”. (Có lẽ đó chính là cách thế giới tồn tại trong mắt của một con robot?)

Detail of Picture from 8 Sides (1930-6), by Kurt Schwitters; oil and wood relief on panel. Courtesy Museo Nacional Thyssen-Bornemisza, Madrid

Điều này không chỉ giới hạn ở thị giác. Chúng ta cũng có những trải nghiệm có ý thức liên quan đến các giác quan khác. Hãy nghĩ đến việc lắng nghe tiếng sáo du dương, ngửi một bông hồng đang nở rộ, nếm thử một ly rượu vang hay chạm vào một tấm vải mềm như nhung. Hãy nghĩ đến cả những trải nghiệm của cơ thể: một ngón chân vừa bị va đập, một cơn đau nửa đầu hay một cảm giác hân hoan dâng trào. Trong mỗi trường hợp, ta có thể kể một câu chuyện tương tự như với thị giác. Lại một lần nữa, trải nghiệm ấy bao gồm quá trình tiếp nhận thông tin (về âm thanh, mùi vị, kết cấu hay trạng thái cơ thể), nhận diện đối tượng, hình thành niềm tin, đánh giá khả năng tương tác, tạo ra dự đoán và phản ứng, đồng thời kích hoạt ký ức, liên tưởng và cảm xúc. Và cũng giống như trước, đây chính là ý thức tiếp cận– quá trình các tín hiệu giác quan được truyền đến những khu vực xử lý chuyên biệt trong não bộ, sau đó được phát sóng trên toàn bộ hệ thống tinh thần, tạo ra hàng loạt hiệu ứng.

Nhưng một lần nữa, dường như trải nghiệm không chỉ dừng lại ở những phản ứng và cảm nhận ấy. Có một điều gì đótrong việc nghe tiếng sáo, ngửi bông hồng, nếm rượu vang… Mỗi trải nghiệm dường như mang một sắc thái cảm giác riêng biệt. Một ngón chân bị va đập không chỉ đơn thuần cung cấp thông tin về tổn thương cơ thể và khơi gợi hàng loạt phản ứng tiêu cực – mà (theo cách ta thường nghĩ) nó còn mang theo một cảm giác rất riêng, một nỗi đau thuần túy.

Đến đây, bạn có thể phản đối (và tôi nghĩ điều này hoàn toàn hợp lý) rằng những sắc thái cảm giác ấy không phải là đặc điểm của chính trải nghiệm mà là đặc điểm của thế giới bên ngoài. Khi nhìn một quả táo, màu đỏ mà bạn thấy dường như thuộc về chính quả táo đó, nó là nguyên nhân tạo ra phản ứng trong bạn. (Bạn tin rằng quả táo màu đỏ vì nó trông đỏ.) Tương tự, âm thanh dường như ở trong không khí, vị nằm trong rượu, đau đớn nằm ở ngón chân… Nhưng nhìn từ góc độ khoa học, điều này không hoàn toàn chính xác.

Khoa học cho chúng ta biết rằng thế giới bên ngoài không có những thuộc tính cảm giác như ta vẫn nghĩ, mà chỉ có những đặc tính vật lý phức tạp – thứ mà vật lý và hóa học có thể mô tả. Các nguyên tử tạo nên lớp vỏ quả táo không có màu đỏ. Nếu xét trên phương diện vật lý, màu sắc chỉ là cách bề mặt phản xạ ánh sáng, âm thanh chỉ là dao động trong không khí, mùi và vị là các hợp chất hóa học, còn cơn đau ở ngón chân thực chất là tổn thương tế bào. Nói cách khác, những sắc thái màu sắc, âm thanh, mùi vị, đau đớn… dường như chỉ tồn tại trong tâm trí chúng ta, như những đặc tính của chính trải nghiệm mà ta có. Triết học gọi những phẩm chất chủ quan này là qualia hay tính hiện tượng, và những sinh vật có những trải nghiệm kiểu này được cho là có ý thức hiện tượng.

Tuy nhiên, tôi cho rằng ý thức hiện tượng thực chất là một ảo giác. Bởi lẽ, khoa học chưa từng tìm thấy bất kỳ yếu tố “chất lượng cảm giác” nào trong não bộ – cũng giống như trong thế giới bên ngoài. Các nguyên tử trong não không có màu sắc, và chúng cũng không tạo thành một hình ảnh rực rỡ nào đó trong tâm trí. (Mà ngay cả nếu có, thì cũng chẳng có con mắt nào bên trong để nhìn thấy nó.) Não bộ cũng không chứa bất kỳ âm thanh, mùi vị, cảm giác đau đớn nội tại nào – và ngay cả nếu có, cũng không tồn tại một “người quan sát” bên trong để trải nghiệm chúng.

Đúng là các nhà khoa học nhận thức thường nói về những biểu tượng (representations) trong não. Nhưng điều này không có nghĩa là có những bức tranh nhỏ xíu bên trong bộ não, mà ta quan sát thay vì nhìn trực tiếp vào thế giới. Thay vào đó, nó chỉ đơn thuần là những mô thức hoạt động của các nơ-ron, phản ứng với những đặc điểm cụ thể của môi trường, giúp bộ não xây dựng mô hình về thế giới xung quanh. Những biểu tượng này không phải là thứ ta nhận thức được, mà là một phần của bộ máy giúp ta cảm nhận thế giới. Khi xây dựng mô hình về thực tại, bộ não tạo ra những phản ứng và khuynh hướng hành động, đặt bạn – con người bạn – vào mối liên kết trực tiếp với thế giới. Những biểu tượng ấy không nhất thiết phải chia sẻ đặc điểm với thứ mà chúng biểu diễn. Một biểu tượng tinh thần về màu đỏ không nhất thiết phải có màu đỏ – cũng giống như từ “đỏ” hay con số biểu diễn màu đỏ trong một bức tranh theo số.

Nếu bạn vẫn không thể từ bỏ niềm tin rằng ý thức hiện tượng là có thật, thì có hai hướng tiếp cận chính. Một là cho rằng ý thức hiện tượng là một đặc tính bổ sung của bộ não, bên cạnh các đặc tính vật lý mà khoa học mô tả. Quan điểm này được gọi là nhị nguyên tính chất (property dualism), vì nó cho rằng bộ não có cả hai thuộc tính – vật lý và phi vật lý. Nhưng có một vấn đề lớn với quan điểm này: nó làm cho ý thức hiện tượng trở nên bất khả tác động.

Khoa học chưa từng ghi nhận bất kỳ bằng chứng đáng tin cậy nào về tác động của yếu tố phi vật lý lên thế giới vật lý. Không có trường hợp nào được xác nhận trong đó một yếu tố phi vật lý làm chệch hướng một electron, kích hoạt một phản ứng hóa học, khiến một nơ-ron phát tín hiệu, hay gây ra bất kỳ sự thay đổi vật lý nào khác. (Trên thực tế, nếu điều đó xảy ra, nó sẽ vi phạm nguyên tắc bảo toàn năng lượng cơ bản.) Nếu các cảm giác của ta thực sự là những yếu tố phi vật lý, thì dường như chúng không có tác động nào lên bất cứ thứ gì – thậm chí là cả suy nghĩ và phản ứng của chính ta. Chúng ta sẽ suy nghĩ và hành động y hệt như vậy, kể cả khi ta không có những trải nghiệm ấy, hoặc có những trải nghiệm hoàn toàn khác. Và đây là một kết luận kỳ lạ.

Lựa chọn hiện thực khác là khẳng định rằng, dù có vẻ bề ngoài ra sao, ý thức hiện tượng thực chất chỉ là một quá trình vật lý thuần túy. Những trạng thái hiện tượng, như cảm giác về màu đỏ, mùi hương của hoa hồng hay cơn đau khi ngón chân bị va đập, thực ra chẳng có gì ngoài những trạng thái của não bộ – những thứ mà về nguyên tắc, người khác có thể quan sát được. Một bác sĩ phẫu thuật não, chẳng hạn, có thể nhìn thấy chính xác nỗi đau của bạn! (Quan điểm này được gọi là chủ nghĩa duy vật.)

Những người ủng hộ quan điểm này lập luận rằng, lý do ta không nhận thấy các cảm giác của mình là trạng thái của não bộ, là vì ta đang nhìn chúng từ một góc độ đặc biệt – từ bên trong. Ta nhận ra chúng thông qua tự quan sát nội tâm(introspection). Điều này không có nghĩa là có một “con mắt bên trong”, mà là một hệ thống giám sát nội tại, ghi nhận thông tin về các trạng thái trong não bộ. Khi bạn nhìn một quả táo, cơ chế tự quan sát sẽ phát hiện trạng thái não bộ sinh ra từ trải nghiệm đó, rồi truyền thông tin đến các hệ thống tâm trí khác, khiến bạn nhận thức được nó. Nhưng, theo lập luận này, hệ thống tự quan sát chỉ cung cấp cho bạn một lượng thông tin rất hạn chế. Nó không mô tả trạng thái ấy như một trạng thái của não bộ, mà chỉ đơn giản như một điều gì đó đang diễn ra bên trong bạn – điều mà bạn chỉ có thể gọi là cảm giác khi nhìn thấy màu đỏ. Đây là cách tiếp cận chính thống của chủ nghĩa duy vật đối với ý thức hiện tượng.

Tuy nhiên, quan điểm này đối mặt với một vấn đề lớn. Không chỉ vì tự quan sát không thể trình bày cảm giác như một trạng thái của não bộ, mà còn vì nó còn khiến ta có ấn tượng rằng những cảm giác này hoàn toàn khác biệt với các trạng thái não bộ. Và ngay cả khi ta tin chắc rằng chúng phải là trạng thái của não, cảm giác về sự khác biệt này vẫn không biến mất. Dường như chính tự quan sát đã bóp méo cách ta nhìn nhận về chính bộ não của mình.

Đây là lúc ta đến với chủ nghĩa ảo tưởng (illusionism). Những người theo chủ nghĩa này đồng ý với các nhà duy vật rằng cảm giác về một ý thức phong phú mà ta có là kết quả của các cơ chế tự quan sát. Nhưng họ bổ sung thêm rằng, những cơ chế này đã bóp méo chính mục tiêu mà chúng theo dõi. Hãy nghĩ đến việc xem một bộ phim. Thực chất, mắt bạn chỉ đang nhìn một loạt hình ảnh tĩnh kế tiếp nhau với tốc độ nhanh. Nhưng hệ thống thị giác của bạn lại diễn giải chúng như một cảnh phim chuyển động mượt mà. Cảm giác về chuyển động đó là một ảo giác.

Tương tự như vậy, các nhà ảo tưởng luận lập luận rằng hệ thống tự quan sát của bạn đã diễn giải các mô thức hoạt động phức tạp của não bộ thành những thuộc tính hiện tượng đơn giản. Tính hiện tượng, theo họ, cũng chỉ là một ảo giác.

Tôi tin rằng điều đang diễn ra có thể được hiểu như thế này. Hệ thống ý thức tiếp cận (access consciousness) có thể vận hành mà không cần đến sự giám sát cấp cao hơn, giúp ta phản ứng nhanh nhạy và linh hoạt với môi trường. Nhưng để có một cái nhìn tổng thể về trải nghiệm – một “bản tóm lược đã qua biên tập” (theo cách gọi của Dennett) về sự tương tác phức tạp giữa ta và thế giới – thì rất hữu ích. Khi ta mô tả cảm giác của mình, thực chất ta đang nhắc đến cái nhìn tổng quan này, chứ không phải trải nghiệm chi tiết của từng khoảnh khắc.

Hệ thống tự quan sát theo dõi ý thức tiếp cận, ghi nhận các mô thức hoạt động cấp cao trong não bộ – những mô thức mã hóa đặc điểm của các vật thể ta cảm nhận, cũng như những liên tưởng, kỳ vọng, cảm xúc và tác động mà chúng gây ra. Nhưng hệ thống này không ghi nhận chính xác từng chi tiết, mà chỉ vẽ nên một bức tranh khái quát, giản lược, giống như một hình vẽ biếm họa. Nó thể hiện toàn bộ trải nghiệm của ta dưới dạng những thuộc tính hiện tượng đơn giản – những màu sắc, âm thanh, hương vị, cảm giác – nhằm phản ánh tổng thể tác động mà thế giới đang gây ra lên ta.

Tất nhiên, những biểu tượng này không thực sự tính hiện tượng. Chúng không phải là những bức tranh phát sáng hay những bản ghi âm sống động trong não bộ. (Như đã đề cập trước đó, biểu tượng tinh thần không phải là thứ ta nhận thức được, mà là một phần của bộ máy giúp ta nhận thức thế giới.) Thay vào đó, chúng chỉ là những mô thức phát tín hiệu của nơ-ron, báo hiệu rằng có một thuộc tính hiện tượng nào đó đang hiện diện – giống như cách chữ viết báo hiệu sự tồn tại của một sự vật nào đó. (Dĩ nhiên, những tín hiệu này là giả, nhưng chúng giúp ta theo dõi các đặc điểm vật lý thực sự của thế giới.) Hệ thống tâm trí sau đó sử dụng những biểu tượng này cho việc kiểm soát cấp cao hơn – giúp ta nhận ra và ghi nhớ những trải nghiệm quan trọng, quyết định có nên lặp lại hoặc tránh né chúng trong tương lai, và thậm chí quyết định có nên kể lại cho người khác hay không.

Vậy nên, có thể nói rằng tự quan sát không trực tiếp theo dõi những thuộc tính hiện tượng, mà theo dõi tác động mà các vật thể tạo ra lên ta. Màu đỏ mà bạn thấy khi nhìn quả táo thực chất chỉ là cách bộ não bạn phản ứng với quả táo – hay nói như nhà tâm lý học Nicholas Humphrey trong cuốn Seeing Red (2006), đó là hành động đỏ hóa (redding) của bạn. Tuy nhiên, hệ thống tự quan sát không mô tả những thuộc tính này như là của chính bạn, mà như là những sức mạnh đến từ thế giới bên ngoài.

Màu đỏ được biểu diễn như một sức mạnh của bề mặt có thể gây tác động lên bạn theo một cách nào đó. Mùi hoa hồng được biểu diễn như một sức mạnh của những phân tử trong không khí có thể tác động lên bạn theo một cách khác. Cơn đau nhói được biểu diễn như một sức mạnh của một bộ phận cơ thể có thể gây ảnh hưởng lên bạn theo một cách nữa. Trong mỗi trường hợp, tính chất của thuộc tính được biểu diễn phản ánh chính xác bản chất của tác động mà nó gây ra lên ta.

(Điều này cũng giống như các thuộc tính thẩm mỹ, chẳng hạn như vẻ đẹp. Khi đánh giá một thứ đẹp hay không, ta thực chất chỉ đang phản ánh cảm xúc của mình trước nó. Nhưng ta vẫn có xu hướng coi vẻ đẹp như một đặc tính của chính sự vật đó.)

Cách thiết kế này có lý do của nó. Cách dễ nhất để ta ghi nhớ, hồi tưởng và kể lại những trải nghiệm quan trọng là liên hệ chúng với các vật thể đã gây ra chúng. Vì vậy, tâm trí của ta biểu diễn thế giới bằng những thuộc tính cảm giác ảo tưởng, để nhấn mạnh tầm quan trọng của chúng với ta.

Quan điểm này, xét cho cùng, không quá khác biệt so với nhận thức thông thường. Nhận thức thông thường cho rằng các thuộc tính cảm giác là những đặc điểm mạnh mẽ, tồn tại độc lập với tâm trí ta. Chủ nghĩa ảo tưởng cũng nói rằng các biểu tượng của những thuộc tính đó đang theo dõi chính những đặc điểm như vậy.

Và thế nên, ta không nên mong đợi tìm thấy những thuộc tính hiện tượng trong não bộ – cũng như ta không mong tìm thấy thùng rác thật bên trong một chiếc laptop vậy.

Những người theo chủ nghĩa ảo tưởng đồng ý rằng ý thức không chỉ dừng lại ở mức độ tiếp cận thế giới bên ngoài, mà còn có một tầng lớp tự giám sát, nơi ảo giác về tính hiện tượng xuất hiện. Ta có thể gọi đó là ý thức giả-hiện tượng. Nếu ý thức tiếp cận giúp ta kết nối trực tiếp với thế giới, đan xen ta vào một mạng lưới phức tạp của cảm nhận và phản ứng, thì ý thức giả-hiện tượng lại mở ra một tầng ý thức mới, giúp ta nhận biết chính sự kết nối đó và phản hồi lại quá trình tương tác. Đó là một cơ chế có thật, đóng vai trò quan trọng. Sai lầm chỉ xảy ra khi ta quá tin vào những gì nó vẽ ra – khi ta nhầm lẫn những biểu trưng mang tính ẩn dụ của các thuộc tính vật lý phức tạp với những thuộc tính phi vật lý đơn giản và chân thực.

Trong Consciousness Explained (1991), Dennett so sánh điều này với giao diện người dùng của máy tính, nơi ta thấy các biểu tượng như tập tin, thư mục, thùng rác, v.v. Tất cả chỉ là một lớp giả lập, được thiết kế để thuận tiện cho người dùng – một ảo giác của người dùng. Khi ta thao tác trên các biểu tượng này, ta có thể điều khiển máy tính mà không cần hiểu biết về phần cứng hay lập trình bên trong. Tương tự, những gì ta gọi là thuộc tính hiện tượng cũng chỉ là những biểu trưng giản lược của thực tại, giúp ta kiểm soát bản thân một cách dễ dàng hơn. Ta không nên mong tìm thấy tính hiện tượng trong não bộ, cũng như ta không mong tìm thấy thư mục và thùng rác thật bên trong một chiếc laptop.

Vậy tại sao ta nên chấp nhận quan điểm của chủ nghĩa ảo tưởng? Trước hết, nó đưa ra một cách tiếp cận mới để giải quyết vấn đề ý thức, đồng thời tôn trọng trực giác của cả hai phe tranh luận. Những người theo chủ nghĩa ảo tưởng đồng ý với những người theo thuyết nhị nguyên rằng ý thức có vẻ như mang những đặc tính phi vật lý, nhưng cũng đồng ý với những người theo chủ nghĩa duy vật rằng mọi tác động của ý thức đều có thể được giải thích bằng các cơ chế vật lý. Bằng cách tập trung vào những biểu trưng của tính hiện tượng, nó hòa giải cả hai lập luận này. Ngoài ra, còn có những lý do cụ thể hơn để ủng hộ chủ nghĩa ảo tưởng. Tôi sẽ nêu ba luận điểm.

Luận điểm đầu tiên liên quan đến sự đơn giản trong giải thích. Khi ta đối mặt với một điều gì đó mà khoa học chưa thể lý giải, giả thuyết đơn giản nhất là đó chỉ là một ảo giác – đặc biệt là khi điều đó chỉ có thể quan sát từ một góc độ duy nhất. Đây chính là trường hợp của ý thức hiện tượng. Những thuộc tính hiện tượng không thể được giải thích bằng các phương pháp khoa học tiêu chuẩn, và chúng chỉ có thể được cảm nhận từ góc nhìn chủ quan của mỗi cá nhân – không ai ngoài ta có thể trực tiếp trải nghiệm cảm giác của ta. Điều này không chứng minh rằng chúng không có thực, nhưng nếu phải chọn một giả thuyết mặc định, thì như Dennett nói, xem chúng là ảo giác vẫn là lựa chọn hợp lý nhất.

Luận điểm thứ hai liên quan đến cách ta nhận thức về những thuộc tính hiện tượng. Ta chỉ có thể nhận thức được những đặc điểm của thế giới tự nhiên nếu ta có một hệ thống cảm nhận có khả năng phát hiện và tạo ra biểu trưng về chúng để phục vụ các quá trình tâm trí khác. Điều này cũng áp dụng cho những đặc điểm của chính tâm trí ta (vốn cũng là một phần của thế giới tự nhiên), và nó cũng phải áp dụng với các thuộc tính hiện tượng – nếu chúng thực sự tồn tại. Ta sẽ cần một hệ thống tự quan sát có khả năng phát hiện và biểu trưng hóa chúng. Nếu không có hệ thống này, ta cũng sẽ không nhận thức được các thuộc tính hiện tượng của não bộ mình, giống như cách ta không hề hay biết về các đặc tính từ tính của nó vậy. Nói cách khác, nếu ta có nhận thức về các thuộc tính hiện tượng, thì đó là nhờ ta có những biểu trưng về chúng trong tâm trí. Nhưng điều này cũng có nghĩa là, dù những biểu trưng đó có chính xác hay không, thì tác động của chúng vẫn như nhau. Nếu quá trình tự quan sát của ta vẽ nên một hình ảnh sai lệch rằng ta đang có những thuộc tính hiện tượng, thì về mặt chủ quan, điều đó cũng chẳng khác gì so với việc thực sự có chúng. Mà bởi khoa học đã chỉ ra rằng não bộ ta không chứa đựng những thuộc tính hiện tượng, suy luận hợp lý nhất là những biểu trưng về chúng trong tâm trí ta chỉ là ảo giác.

Luận điểm thứ ba là một phản biện trực tiếp với chủ nghĩa nhị nguyên tính chất. Nếu ta có thể giải thích các niềm tin về một điều gì đó mà không cần đến sự tồn tại thực sự của nó, thì ta nên bác bỏ niềm tin ấy. Chẳng hạn, nếu ta có thể lý giải niềm tin của con người về các hiện tượng siêu nhiên bằng các cơ chế tâm lý, mà không cần đến sự tồn tại thực sự của chúng, thì ta chẳng có lý do gì để tin vào chúng nữa. Điều này cũng áp dụng với ý thức hiện tượng. Như tôi đã đề cập, có lý do để tin rằng mọi quá trình tâm trí của ta, bao gồm cả việc hình thành niềm tin, đều có thể được giải thích hoàn toàn bằng các cơ chế vật lý. Dù cho ta tin rằng ý thức hiện tượng là có thật, sống động và không thể phủ nhận, ta cũng vẫn sẽ có những niềm tin y hệt như vậy ngay cả khi nó không tồn tại. Vậy nên, ta không nên tin vào những niềm tin đó.

Đến đây, có lẽ trong đầu bạn đã đầy ắp những phản biện. Một trong những phản đối phổ biến nhất là: Chẳng phải ý thức chính là điều không thể là một ảo giác hay sao? Nó chẳng phải là nền tảng của mọi tri thức về thế giới tự nhiên ư? Tất cả những gì ta có thể chắc chắn khi tri giác là ta đang có những trải nghiệm nhất định (chẳng hạn, ta thấy một vùng màu đỏ có hình quả táo). Sự tồn tại của thế giới bên ngoài chỉ là điều ta suy luận từ đó.

Đây là một quan điểm phổ biến, nhưng tôi cho rằng nó đang nhìn vấn đề theo hướng hoàn toàn sai. Hãy thử nghĩ về nó dưới góc độ kỹ thuật. Nếu bạn muốn xây dựng một con robot tự hành, việc đầu tiên bạn làm không phải là trang bị cho nó hệ thống tự nhận thức phức tạp, mà là lắp đặt các cảm biến để phát hiện những đặc điểm quan trọng của thế giới bên ngoài và những trạng thái cốt yếu của chính cơ thể nó. Nhờ vậy, robot có thể thực hiện nhiệm vụ, tìm kiếm tài nguyên cần thiết và bảo vệ bản thân khỏi nguy hiểm. Chỉ sau đó, bạn mới nghĩ đến việc bổ sung các cơ chế tự quan sát để giúp nó giám sát quá trình cảm nhận của mình và nâng cao khả năng kiểm soát hành vi.

Và đó cũng chính là cách bộ não của ta vận hành.

Sẽ thật bất ngờ nếu quá trình tiến hóa không đi theo con đường đó với con người. Thực tế, có một nghĩa nào đó mà ý thức giả-tưởng (pseudo-phenomenal consciousness) là một trạng thái cơ bản. Chúng ta có thể nhận ra rằng mình đang phản ứng như thể có một quả táo trước mặt ngay cả khi thực ra không có quả táo nào, chẳng hạn khi chúng ta gặp ảo giác. Nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta suy luận ra sự tồn tại của những quả táo thực từ những phản ứng của mình. Vì chúng ta có cơ chế tự theo dõi các quá trình tri giác, ta thường nghĩ rằng việc theo dõi này là một phần thiết yếu của tri giác, nhưng điều đó có thể không đúng. Đôi khi, chúng ta thực hiện những công việc phức tạp, như lái xe, mà không thực sự để tâm đến từng hành động.

Thêm vào đó, con người có xu hướng tin tưởng tuyệt đối vào những gì trực giác mách bảo, bởi không có cách nào dễ dàng để kiểm chứng độ chính xác của nó. Nhưng điều đó không đồng nghĩa rằng nó không thể sai lầm. (Chúng ta có tiếng nói sau cùng về trải nghiệm của chính mình, nhưng chưa chắc đó đã là sự thật tuyệt đối.) Trên thực tế, có nhiều bằng chứng cho thấy trực giác có thể không đáng tin cậy. Ví dụ, các thí nghiệm đã chỉ ra rằng chúng ta có ý thức về các vật thể ở vùng ngoại vi tầm nhìn ít hơn nhiều so với những gì ta tưởng. Và tất nhiên, nếu ta có thể quan sát quá trình hoạt động của bộ não từ bên ngoài như một nhà thần kinh học, ta sẽ không tìm thấy bất kỳ đặc tính hiện tượng nào ở đó.

Vậy có phải chính khái niệm ảo tưởng là một sai lầm?

Một số người lập luận rằng bản thân ý tưởng về chủ nghĩa ảo tưởng (illusionism) là mâu thuẫn. Họ nói rằng để bị ảo giác thấy một quả táo có nghĩa là ta có một trải nghiệm y hệt như khi thấy quả táo thật, dù thực tế không có quả táo nào. Vậy làm sao chúng ta có thể rơi vào ảo tưởng về một trải nghiệm? Nếu bạn có một trải nghiệm giống hệt như khi bị đau, thì tức là bạn đang trải qua cảm giác đau. Như triết gia John Searle từng nói trong The Mystery of Consciousness (1997), khi bàn về ý thức, vẻ ngoài chính là thực tại.

Đây có vẻ là một phản bác nghiêm túc, nhưng thực ra nó có thể dễ dàng được giải quyết. Các thuộc tính của trải nghiệm không thể là ảo giác theo nghĩa thông thường, nhưng chúng có thể là ảo giác theo một nghĩa khác rất gần gũi. Khi những người theo chủ nghĩa ảo tưởng nói rằng các thuộc tính hiện tượng là ảo giác, họ có ý rằng chúng ta có những biểu diễn trực giác giống như những gì ta sẽ có nếu trải nghiệm của chúng ta thực sự mang những thuộc tính đó. Và ta hoàn toàn có thể có những biểu diễn như vậy mà không cần những trải nghiệm thực sự có các thuộc tính hiện tượng.

Tất nhiên, điều này giả định rằng bản thân những biểu diễn đó không có thuộc tính hiện tượng. Nhưng như tôi đã đề cập, một biểu diễn không nhất thiết phải mang thuộc tính mà nó đại diện. Một bức tranh vẽ về màu đỏ không cần phải là màu đỏ, và một biểu diễn về thuộc tính hiện tượng cũng không cần phải mang tính hiện tượng.

Nhưng làm thế nào mà một trạng thái của não có thể biểu diễn một thuộc tính hiện tượng?

Đây là một câu hỏi khó. Tôi cho rằng câu trả lời nằm ở tác động của trạng thái đó. Một trạng thái của não đại diện cho một thuộc tính nhất định nếu nó gây ra những suy nghĩ và phản ứng phù hợp với sự hiện diện của thuộc tính đó. Tôi sẽ không đi sâu vào chi tiết ở đây, nhưng đây không chỉ là vấn đề dành riêng cho những người theo chủ nghĩa ảo tưởng. Khái niệm biểu diễn tinh thần (mental representation) là một vấn đề trung tâm trong khoa học nhận thức hiện đại, và việc giải thích cách bộ não biểu diễn thế giới là một nhiệm vụ mà tất cả các trường phái triết học về ý thức đều phải đối mặt.

Vậy ai là chủ thể của ảo tưởng này?

Liệu chủ nghĩa ảo tưởng có mặc nhiên thừa nhận một chủ thể có ý thức đang trải nghiệm ảo tưởng đó? Câu trả lời của tôi là chủ thể ấy chính là con người nói chung – một cá thể sống có ý thức, được tiến hóa với những hệ thống sinh học liên kết chặt chẽ. Chúng ta nhận biết một điều gì đó khi thông tin về nó được truyền đến đủ số lượng các hệ thống thần kinh con trong não, giúp chúng ta có thể suy nghĩ và phản ứng linh hoạt về điều đó – sử dụng nó, ghi nhớ nó, kể lại với người khác, v.v. Hãy hình dung một tổ chức lớn có nhiều phòng ban, mỗi bộ phận có nhiệm vụ riêng nhưng luôn chia sẻ thông tin với nhau. Nếu đủ số bộ phận tiếp nhận và xử lý một thông tin nào đó, ta có thể nói rằng toàn bộ tổ chức ‘nhận thức’ được thông tin đó. Điều này cũng đúng với các sinh vật như chúng ta. Khi các hệ thống tinh thần đủ số lượng tiếp nhận và sử dụng biểu diễn của một thuộc tính nào đó, thì bản thân sinh vật cũng có thể được xem là đang ý thức về thuộc tính đó. Và nếu những biểu diễn đó là ảo giác, thì sinh vật ấy cũng đang sống trong một ảo tưởng.

Chúng ta dễ bị cám dỗ bởi ý tưởng về một hệ thống trung tâm, một ‘cái tôi’ đóng vai trò như một ông chủ mà tất cả các hệ thống tinh thần khác đều phải báo cáo. Nhưng tôi cho rằng hệ thống trung tâm đó cũng chỉ là một ảo tưởng. Đó lại là một câu chuyện khác.

Thế giới chủ quan của ý thức hiện tượng là một câu chuyện hư cấu do bộ não viết nên để giúp chúng ta theo dõi sự tác động của thế giới lên chính mình.

Nhưng gọi đó là hư cấu không có nghĩa là xem thường nó. Những câu chuyện hư cấu có thể là những điều kỳ diệu, mang lại ý nghĩa cho cuộc sống, bộc lộ những sự thật sâu sắc về thế giới và đôi khi còn lôi cuốn hơn cả thực tế. Không giống như Neo trong Ma trận, bạn không cần phải tìm cách thoát ra khỏi thế giới hư cấu này. Đó là một thế giới nhân từ, được tiến hóa để giúp bạn phát triển. Nhưng cũng đừng nhầm lẫn nó với thực tại.

Nguồn: The consciousness illusion | Aeon.co

menu
menu