Công việc của con người trong tương lai sẽ là những việc đòi hỏi lao động cảm xúc

cong-viec-cua-con-nguoi-trong-tuong-lai-se-la-nhung-viec-doi-hoi-lao-dong-cam-xuc

Công việc của con người trong tương lai sẽ là những việc đòi hỏi lao động cảm xúc: hiện tại đang bị xem thường và trả lương thấp nhưng thật vô giá.

Đầu năm 2016, Diễn Đàn Kinh Tế Thế Giới đã xuất bản một nghiên cứu cảnh báo rằng sự thay đổi công nghệ đang trên đà thúc đẩy nền kinh tế toàn cầu. Để thỏa mãn yêu cầu của những công việc phức tạp của tương lai, các tác giả lập luận rằng “việc đào tạo lại và nâng cao tay nghề của nhân lực hiện tại là điều tối quan trọng”. Cũng trong khoảng thời gian này, cựu tổng thống Barack Obama đã công bố một chương trình với tên gọi “khoa học máy tính cho tất cả” dành cho các trường tiểu học và trung học trên toàn nước Mỹ. Ông nói “Chúng ta cần phải đảm bảo rằng tất cả trẻ em nước Mỹ được chuẩn bị cho công việc của tương lai, điều này có nghĩa rằng các em không chỉ có khả năng làm việc với máy tính mà còn có thể phát triển những kỹ năng lập trình và phân tích để thúc đẩy nền kinh tế đổi mới của chúng ta.”

Nhưng trên thực tế, sau thời hậu hiện đại hóa công nghiệp, chỉ có một phần trăm rất nhỏ nhân lực là làm việc trong ngành công nghệ phần mềm, công nghệ sinh học hay sản xuất nâng cao. Cũng giống như những máy móc khổng lồ của cuộc cách mạng công nghiệp đã khiến cho sức mạnh thể chất của con người không còn quá quan trọng nữa, giờ đến lượt cuộc cách mạng thông tin đã giải phóng chúng ta để giúp chúng ta bổ trợ, thay vì là cạnh tranh với năng lực kỹ thuật của máy tính. Sẽ có rất nhiều công việc quan trọng bậc nhất trong tương lai không đòi hỏi toán cao cấp mà sẽ đòi hỏi những kỹ năng mềm.

Quay ngược lại năm 1983, nhà sinh vật học Arlie Russell Hochschild đã đề ra thuật ngữ “lao động cảm xúc” (emotional labour) để miêu tả quá trình liên quan đến việc quản lý những đòi hỏi về mặt cảm xúc trong công việc. Bà nghiên cứu các kỹ thuật mà những tiếp viên hàng không sử dụng để duy trì thái độ thân thiện mà hãng yêu cầu khi đối diện với một khách hàng khó tính: hít thở sâu, tự nhắc nhở bản thân phải bình tĩnh, hoặc cố gắng đồng cảm với vị khách hàng khó chịu kia. Một tiếp viên giải thích “Tôi cố nhắc nhở mình rằng nếu như người này uống quá nhiều rượu, hẳn là anh ta quá sợ máy bay.” Tôi tự nhủ với mình: “Anh ta chỉ như đứa trẻ ấy mà.”

Ngày nay, sự thu hẹp nhanh chóng của ngành công nghiệp đồng nghĩa với việc hầu hết các công việc của chúng ta đòi hỏi những kỹ năng liên quan đến cảm xúc, dù là làm việc trực tiếp với khách hàng hay là cộng tác với một “nhóm” trong một dự án nào đó. Vào năm 2015, nhà kinh tế học David Deming của Đại học Harvard đã phát hiện ra rằng hầu như tất cả sự tăng trưởng công việc tại Mỹ từ năm 1980 đến 2012 đều nằm trong những công việc đòi hỏi kỹ năng xã hội cao. Bên cạnh đó, Rosemary Haefner – giám đốc nhân sự của trang web tìm việc CareerBuilder – đã chia sẻ với Bloomberg BNA vào tháng 1 năm 2017 rằng nhu cầu tuyển dụng của các công ty năm nay sẽ ưu tiên những kỹ năng này cao hơn nhiều so với những đợt phục hồi kinh tế trước đó. Bà cho hay “Kỹ năng mềm có thể tạo nên sự khác biệt giữa một nhân viên xuất sắc và một nhân viên trung bình.”

Công nghệ đang thúc đẩy con người tiến sâu hơn vào lĩnh vực cảm xúc xuyên suốt nền kinh tế. Trong lĩnh vực bán lẻ, với nhu cầu mua sắm thường xuyên, Amazon và đối thủ của nó đang nuốt chửng thị trường một cách chóng mặt, nhưng các cửa hàng bán lẻ và tiệm tạp hóa vẫn có thể tồn tại là vì nhiều người thích việc tán gẫu với nhân viên cửa hàng hơn là nhấp chuột mua hàng. Những cuộc tranh luận để bảo tồn các bưu điện nông thôn đã không còn tập trung vào các dịch vụ của nó (chủ yếu được xử lý trực tuyến), mà thay vào đó là giá trị của nó như là một trung tâm dành cho sinh hoạt cộng đồng.

Điểm lại lịch sử, chúng ta đã lờ đi vai trò trung tâm của “lao động cảm xúc” đối với những tổn hại của người lao động và những người mà họ phục vụ. Theo George T Patterson - một học giả về lao động công tại New York, người thường tư vấn cho các sở cảnh sát - các sĩ quan cảnh sát dành 80% thời gian của mình cho những “chức năng liên quan đến phục vụ”. Mỗi ngày, các sĩ quan này thực hiện trách nhiệm hòa giải trong các gia đình và phản ứng với những khủng hoảng liên quan đến sức khỏe tinh thần. Mặc dù vậy, công tác đào tạo của Sở cảnh sát Mỹ gần như chỉ tập trung vào việc sử dụng vũ khí, các chiến lược phòng vệ và luật hình sự. Cũng dễ đoán được lý do chúng ta thường nghe thấy những báo cáo về việc người dân gọi điện nhờ cảnh sát giúp đỡ một người thân của mình đang hoang mang giữa dòng giao thông, chỉ để cuối cùng nhìn thấy người ấy bị bắn gục ngay trước mắt họ.

Trong ngành y, một trong những khoảnh khắc khó khăn nhất của bác sĩ đó là ngồi với bệnh nhân và trao đổi với họ về kết quả chẩn đoán mà có thể làm thay đổi toàn bộ cuộc đời họ. Đây là kiểu công việc mà công nghệ không thể thực hiện được – khác với việc phẫu thuật, nơi mà các robot tự hành đang ngày càng học cách thực thi với mức độ chính xác như siêu nhân (superhuman). Với việc Trí tuệ Nhân tạo hiện đang được phát triển để trở thành một công cụ chẩn đoán, các bác sĩ đã bắt đầu suy nghĩ đến cách để bổ trợ cho nó những kỹ năng tự động này. Một báo cáo chiến lược năm 2013 về Dịch vụ Sức khỏe Quốc gia (NHS) của nước Anh viết: “NHS có thể thuê hàng trăm ngàn nhân viên với những kỹ năng công nghệ phù hợp, nhưng nếu họ không có lòng trắc ẩn để quan tâm đến bệnh nhân, thì chúng ta đã thất bại trong việc đáp ứng nhu cầu của họ.”

Nhu cầu tăng trưởng nguồn nhân lực có khả năng đồng cảm và tố chất giúp cho người khác cảm thấy thoải mái đòi hỏi chúng ta phải có một sự thay đổi nghiêm túc về mặt tư duy. Điều này đồng nghĩa với việc không coi kết quả học tập là con đường duy nhất dẫn đến thành công. Cũng có nghĩa rằng ta cần phải tôn trọng hơn và trả lương cao hơn cho những công nhân mà thường bị coi là “nhân sự tay nghề kém”. Ngoài ra nó còn có nghĩa là trân trọng những kỹ năng mà thường được tìm thấy ở những phụ nữ thuộc tầng lớp lao động hơn là ở nam giới có học vấn cao.

Sự thay đổi này dễ thấy nhất là ở trong y học. Hiện trạng chung của ngành hiện đã thay đổi để bao gồm nhiều hơn những nhân viên có kỹ năng chủ yếu liên quan đến cảm xúc. Cục Thống kê Lao động Mỹ dự đoán rằng trong khi các công việc cho bác sĩ và bác sĩ phẫu thuật sẽ tăng 14% từ năm 2014 đến năm 2024, thì tốp ba công việc chăm sóc trực tiếp – phụ tá chăm sóc cá nhân, trợ lý chăm sóc sức khỏe tại nhà và trợ lý điều dưỡng – được kỳ vọng sẽ tăng 26%. Không công việc nào trong tốp ba đòi hỏi bằng cấp đại học, và tổng cộng đã có đến hơn 5 triệu nhân sự trong ba công việc này, so với chỉ 708.000 bác sĩ trên toàn quốc.

Công việc chăm sóc trực tiếp là một ví dụ hoàn hảo cho nền kinh tế lao động cảm xúc. Dĩ nhiên công việc này thường đòi hỏi sức mạnh thể chất - khả năng giúp đỡ một bệnh nhân bị hạn chế về khả năng di chuyển và ra khỏi giường chẳng hạn. Nó cũng có thể đòi hỏi thêm chút kiến thức y khoa. Nhưng vào năm 2007, trong các nghiên cứu điền dã dân tộc học (ethnographic studies) về những học viên theo học ngành chăm sóc trực tiếp, học giả giáo dục Inge Bates của Đại học Sheffield đã nhận thấy rằng những kỹ năng bắt buộc và quan trọng nhất ở đây là ứng phó với sự bẩn thỉu, bạo lực và cái chết.

Bates nghiên cứu một nhóm các cô gái độ tuổi 16 đang tham gia vào chương trình đào tạo nghề để chuẩn bị cho công việc chăm sóc người cao tuổi tại gia. Những “cô gái chăm nom” này - trước đây từng hy vọng sẽ được làm việc với trẻ em, hay trong môi trường bán lẻ hoặc văn phòng - thường cảm thấy kinh hãi bởi tính chất công việc của mình. Họ mô tả mình đã từng bị đánh bởi những người già đãng trí, phải chứng kiến những cái chết và giúp khiêng xác chết, cũng như tiếp xúc gần với chất thải của con người. Một học viên hồi tưởng lại cảm giác khi thấy một bệnh nhân đang tự chơi với phân của mình: “Tôi phải kỳ cọ tay và móng tay của bà ấy, rồi phải cởi áo ngủ và tất cả mọi thứ ra. Sau đó tôi ngồi xuống và nói rằng hãy ở yên đây, tôi đi lấy cho bà áo mới. Khi tôi quay lại, bà ấy đã lại tiếp tục chơi với phân của mình. Tôi bị ném vào mặt cái thứ mà bạn biết rồi đấy… tôi phải học cách né tránh nó.”

Mặc dù vậy, trải qua quá trình đào tạo, rất nhiều học viên cảm thấy vô cùng tự hào về công việc của mình, họ biết rằng không phải ai cũng có khả năng làm được như họ. Bates viết: “Đến năm đào tạo thứ hai, hầu hết mọi người đều tha thiết muốn trở thành trợ lý chăm sóc và bất kỳ ai nhận được công việc đều sẽ được ăn mừng bằng một chuyến vui chơi tại bar hay thậm chí là một buổi tiệc ăn mừng.”

Các nhà nghiên cứu càng lúc càng nhận thấy rằng những người thuộc tầng lớp công nhân thường có những kỹ năng cảm xúc sắc bén hơn so với những người có giáo dục và giàu có hơn họ. Năm 2016, hai nhà tâm lý học Pia Dietze và Eric Knowles của Đại học New York phát hiện ra rằng những người có địa vị xã hội cao thường dành ít thời gian quan sát những người mà họ lướt qua hơn là những người ở tầng lớp thấp hơn. Trong một thí nghiệm trực tuyến khác, những đối tượng này cũng khá kém trong việc để ý đến những thay đổi nhỏ trong các bức chân dung người.

Việc nửa đêm bị dựng dậy bởi tiếng khóc của trẻ nhỏ, hay việc tắm rửa cho một bệnh nhân mắc chứng Alzheimer, đều là những trải nghiệm vừa khắc nghiệt nhưng cũng mang đến cho ta một cái nhìn tích cực về cuộc đời. Trong một nghiên cứu năm 2007, Bates cũng phát hiện rằng gia cảnh của các “cô gái chăm nom” cũng có sự liên hệ với năng lực làm việc của họ. Những người thành công trong nghề sở hữu những kỹ năng mà họ có được do lớn lên trong những gia đình lao động, nơi mà các cô gái ấy phải làm việc nhà, chăm sóc em bé hay người già, và phải học cách chịu đựng trước những đòi hỏi nặng nề. Bates kết luận rằng “Rõ ràng những trải nghiệm như làm việc nhà, phục vụ người khác, và quên đi những nhu cầu của chính mình (ví dụ như ngủ thẳng giấc vào ban đêm, hay được nghỉ ngơi vào Chủ Nhật) đều là những đòi hỏi mà các cô gái này đã quá quen thuộc khi họ đến tuổi 16.”

Công việc chăm nom thường thuộc dạng “việc nặng lương thấp”, nhưng theo nhà kinh tế học Nancy Folbre của Đại học Massachusetts, Amherst thì “phần thưởng tinh thần” của việc làm những điều có ý nghĩa lại là một dạng đền đáp đối với họ. Suy cho cùng thì đây là kiểu công việc mà chúng ta thường có định kiến rằng là việc của phụ nữ (họ phải làm, và làm miễn phí) - xuất phát từ lòng thương người của họ. Dĩ nhiên chúng ta cần phải thấy rằng kiểu định kiến về phụ nữ như vậy có thể rất gây hại, nhưng ta cũng không thể phủ nhận niềm vui của họ khi làm công việc chăm nom này. Với cả đàn ông lẫn phụ nữ, dù được trả lương hay không, thì việc thức giấc lúc 3 giờ sáng để vỗ về một đứa bé hay tắm rửa cho một bệnh nhân Alzheimer đều là những trải nghiệm vừa vất vả nhưng cũng đầy tích cực.

Thật khó để tự thuyết phục bản thân chúng ta rằng những công việc liên quan đến cảm xúc thực sự là một loại hình công việc. Những việc khó khăn nhất lại được trả lương tệ nhất, ví dụ như làm việc với những người cận tử hay mất kiểm soát. Có thể chúng ta không cho nó là loại hình công việc bởi ta không dám nghĩ đến việc nó khó khăn và khắc nghiệt đến mức độ nào. Trong những trường hợp khác, thường thì chúng ta không có từ chuyên môn để mô tả công việc liên quan đến cảm xúc mà chúng ta đang làm. Có thể việc gật đầu và cười phụ họa với câu chuyện dài ngoằng không đầu đuôi của khách hàng sẽ là mấu chốt giúp ta ký được hợp đồng to béo, nhưng chúng ta sẽ không ghi vào hồ sơ xin việc là “có khả năng chịu đựng những người chán ngắt và thô lỗ.” Hầu hết thời gian thì “lao động cảm xúc” không mang lại cảm giác là lao động thực sự. Cũng không khó để thấy những nhà hoạch định chính sách kinh tế có học vị cao, thường là đàn ông, sẽ có những điểm mù khi nói đến những kỹ năng đặc biệt thường tập trung ở tầng lớp lao động nữ.

Câu hỏi đặt ra là làm thế nào để giúp cho những nhân viên chăm sóc này có thể kiếm được nhiều tiền hơn? Đáp án thường là “mang đến cho họ sự giáo dục tốt hơn”. Những nhà hoạch định chính sách ra rả về việc “chuyên nghiệp hóa” ngành chăm sóc trực tiếp này bằng cách cố gắng thúc đẩy những đề xuất như “đào tạo nâng cao” về bệnh tiểu đường hay chăm sóc người bị mất trí. Gần đây, chính phủ đã quyết định những nhân viên chăm trẻ bắt buộc phải có bằng cử nhân. Đây là một động thái mà theo như chính quyền của một học khu cho rằng sẽ “giúp thúc đẩy ngành và thiết lập nền tảng tích cực cho trẻ em để học tập và phát triển.” Dĩ nhiên bất kỳ ai làm việc với người cao tuổi, khuyết tật hay với trẻ em nhỏ, đều sẽ được hưởng lợi từ việc nghiên cứu nhu cầu cụ thể của nhóm đối tượng này; và việc có thể tiếp cận giáo dục đại học một cách rộng rãi là một ý tưởng tốt vượt xa mục đích đào tạo nghề. Tuy nhiên, nếu chỉ giả định rằng việc dành nhiều thời gian trong lớp học sẽ là chìa khóa để tạo nên những nhân công “chất lượng hơn”, về mặt cơ bản, là một sự thiếu tôn trọng những kỹ năng phi-học-thuật cần thiết để làm dịu một đứa trẻ đang sợ hãi, hay duy trì sự bình tĩnh trước một người phụ nữ đang chơi với chất thải của chính mình.

Hai nhà kinh tế học Mỹ W. Norton Grubb và Marvin Lazerson gọi niềm tin vào việc học nhiều thêm là giải pháp cho mọi vấn đề lao động là “phúc âm giáo dục”. Như Grubb đã lập luận trong một cuộc nói chuyện năm 2005, việc có thêm giáo dục thường giúp các cá nhân tìm được việc làm tốt hơn, tuy nhiên điều đó không biến việc học trở thành một chiến lược kinh tế tổng quan tốt. Trong thực tế, ông nói, 30-40% lao động ở các nước phát triển đã có nhiều giáo dục hơn yêu cầu công việc của họ.

Cho đến thời điểm này thì có lẽ nỗ lực được nghiên cứu nhiều nhất để đào tạo kỹ năng cảm xúc chính là phong trào truyền đạt năng lực đồng cảm cho các y bác sĩ. Trong thập kỷ qua, các trường y và bệnh viện đã ghi nhận một lượng lớn nghiên cứu cho thấy rằng khi các bác sĩ có thể tự đặt mình vào vị trí của bệnh nhân, bác sĩ đưa ra kết quả chẩn đoán lâm sàng chính xác hơn, bệnh nhân hài lòng hơn và ít có bác sĩ bị kiệt sức hơn. Bên cạnh đó, có nhiều bằng chứng cho thấy kỹ năng này có thể được đào tạo. Nhìn lại năm 2014, trong 10 nghiên cứu chất lượng cao thì có tới 8 nghiên cứu nhận thấy việc đào tạo kỹ năng giao tiếp và nhập vai sẽ gia tăng mức độ đồng cảm của các sinh viên y khoa và bác sĩ.

Việc cung cấp các chương trình đào tạo kỹ năng cảm xúc cho những ngành nghề danh giá, được trả lương cao, yêu cầu về chuyên môn cũng cao dường như là chuyện hiển nhiên. Nhưng để làm điều tương tự cho những ngành nghề còn lại thì lại là một câu chuyện khác. Tuy nhiên, một tín hiệu đáng mừng cho thấy sự tiến triển đó là “năng lực cảm xúc và xã hội” (Social Emotional Learning - SEL) cho trẻ em ngày càng được quan tâm nhiều hơn.

Những chương trình SEL dạy cho học sinh các chiến lược để phát triển khả năng đồng cảm, làm chủ cảm xúc bản thân và làm việc với người khác. Các em được luyện tập sử dụng ngôn ngữ tích cực với nhau; cùng nhau thiết lập các quy tắc quản lý lớp học; hay sử dụng “chánh niệm” để thấu hiểu hơn quá trình suy nghĩ của mình. Các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng những chương trình này giúp cho học sinh có thái độ tích cực hơn, hành xử tinh tế và lịch sự hơn. Rất nhiều học khu đã đưa chương trình SEL vào nội dung giảng dạy của mình. Năm ngoái, tám tiểu bang của Hoa Kỳ đã công bố một sáng kiến hợp tác để phát triển bộ tiêu chuẩn SEL trên toàn bang.

Ngoài ra, những thảo luận về SEL còn cho ta thấy chúng ta đang xem nhẹ các kỹ năng cảm xúc như thế nào. Thường thì các chương trình này được quảng bá là phương pháp để giảm thiểu bạo lực học đường, chứ không phải là cách thức để phát triển những năng lực cần có của con người. Và trong môi trường học thuật - nơi áp lực kiểm tra và giáo dục truyền thống thường lấn át các môn học có phần “nhẹ nhàng” hơn - những chương trình này nghe có vẻ khá hấp dẫn vì chúng khuyến khích lũ trẻ “kiểm soát bản thân” và ngồi yên trong suốt cả tiết học. Nhưng thật là bất khả thi khi muốn một vị bác sĩ đã làm việc 80 tiếng mỗi tuần mà vẫn có thể hiện diện ở hiện tại với bệnh nhân của mình.

Một điều khác nữa đó là mặc dù những chương trình đào tạo chính quy này rất có giá trị, nó cũng không phải là yếu tố cốt lõi giúp chúng ta thành công trong việc “lao động cảm xúc”. Hochschild lưu ý rằng các công nhân có thể chỉ “diễn bề mặt” - hành động cố tình bày ra biểu hiện của một cảm xúc nào đó - và nó cũng kém hiệu quả hơn “diễn sâu” - nghĩa là thực sự gọi ra cảm xúc đó. Việc thể hiện cảm xúc chân thành thậm chí còn tốt hơn nữa. Năm 2013, chuỗi nhà hàng bánh mì sandwich Pret A Manger của Anh đã bị chỉ trích vì đã thuê những người mua hàng bí ẩn để đảm bảo rằng nhân viên của họ luôn luôn niềm nở với khách hàng. Dĩ nhiên, những người làm trong ngành phục vụ được kỳ vọng phải có thái độ thân thiện với khách hàng. Nhưng hành động bí mật theo dõi đội ngũ của Pret A Manger để đảm bảo sự vui vẻ cởi mở - trong khi lại trừ bớt tiền lương và tước đi môi trường làm việc mà có thể thật sự khuyến khích sự vui vẻ chân thành - được cho là không trung thực và quá thiếu lòng tin. Hơn thế nữa, về cơ bản thì việc phải giả mạo một kết nối cảm xúc có thể khiến ta cảm thấy bị lợi dụng và bóc lột theo những cách mà ngay cả những việc lao động chân tay nặng nhọc nhất cũng không so sánh được.

Với một góc nhìn khác, David Scales, một bác sĩ tại Cambridge Health Alliance, chỉ ra rằng sự tập trung vào việc đào tạo cho các bác sĩ năng lực đồng cảm đã không tính đến “sự thiếu hụt rõ rệt trong môi trường làm việc mà rút cạn hết khả năng đồng cảm mà các bác sĩ sở hữu.” Các bác sĩ hẳn sẽ khó mà thật sự hiện diện ở hiện tại với bệnh nhân ngồi trước mặt họ khi phải đối diện với dòng người bệnh ào ạt như thác lũ, cũng như áp lực kinh tế đòi hỏi mỗi lượt khám phải nhanh và một tuần làm việc đến 80 tiếng đồng hồ. Cũng giống như Bates đã phát hiện trong cuộc nghiên cứu về các cô gái chăm nom, Scales gợi ý rằng chúng ta nên nhìn vào sự căng thẳng giữa việc giải quyết những nhu cầu cấp thiết nhất của con người một cách nhanh nhất có thể trong một hệ thống đã quá tải và việc thật sự dành thời gian chăm sóc cho họ. Việc có một số quyền tự chủ nhất định, được đối xử tử tế và không bị căng thẳng quá mức thường xuyên có thể là những mấu chốt để tạo nên một nhân viên làm việc hiệu quả.

Chúng ta đang đứng trước một cơ hội cực kỳ to lớn do robot và các thuật toán đã đảm nhận các công việc đòi hỏi tư duy thay chúng ta. Chúng ta có thể chọn bỏ thêm nguồn lực vào việc cung cấp nhân sự tốt hơn, trả lương cao hơn và nhiều thời gian nghỉ hơn cho các nhân viên chăm sóc - những người thực hiện công việc có đòi hỏi khắt khe nhất với mức lương thấp nhất. Đồng thời, chúng ta có thể biến đổi các thành phần khác của nền kinh tế, bằng cách giúp cho nhân viên cảnh sát, nhân viên văn phòng và tất cả mọi người học cách thực sự tương tác với những người xung quanh mình.

Đây không phải điều mà hệ thống kinh tế của chúng ta - một hệ thống đánh giá chất lượng công việc qua cách mà nó đóng góp vào GDP cả nước - được thiết kế để thực hiện. Trên thực tế, một số nhà kinh tế lo lắng rằng chúng ta đã chưa nỗ lực đủ để cải thiện 'năng suất' của các công việc phục vụ như chăm sóc người cao tuổi, theo cách mà chúng ta đã làm trong các lĩnh vực như sản xuất xe hơi. Công việc liên quan đến cảm xúc có lẽ sẽ không bao giờ là một cách hay để kiếm tiền hiệu quả hơn. Câu hỏi thực sự ở đây là liệu xã hội chúng ta có sẵn sàng hướng nhiều nguồn lực hơn vào nó bất kể điều đó hay không.

Sự hiệu quả nhờ công nghệ đã đạt được những thành tựu tuyệt vời. Nó đã mang lại một tiêu chuẩn sống mới đáng kinh ngạc cho người dân ở các nước phát triển và giải thoát hầu hết chúng ta khỏi công việc tự canh tác hay tự sản xuất. Nhưng việc áp dụng chỉ số hiệu quả vào lĩnh vực lao động cảm xúc đang ngày càng phát triển có thể sẽ đi ngược lại với lời hứa của sự tiến bộ công nghệ - đó là với các công việc tay chân và trí óc được giảm tải, công việc của tương lai có thể là cơ hội để mọi người thật sự quan tâm đến nhau một cách chân thành.

 

Nguồn: https://aeon.co/essays/the-key-to-jobs-in-the-future-is-not-college-but-compassion

Dịch: Openedu.vn

menu
menu