Lạc quan vô lý, nỗi sợ mê tín

Liệu giãn cách có thể giúp chúng ta điều hòa cảm xúc và giành lại quyền làm chủ?
Đại dịch hiện nay có thể đưa đến vô vàn kết cục, có những viễn cảnh sáng sủa hơn, cũng có những kịch bản tồi tệ hơn—và thật khó để ước lượng xác suất của mỗi khả năng. Vì vậy, ta có thể lựa chọn dán mắt vào điều tệ hại nhất có thể xảy ra; hoặc quay mặt đi, như con đà điểu chôn đầu trong cát; hoặc ta sẽ dao động đâu đó ở giữa hai cực ấy. Tôi muốn nhìn kỹ hơn vào những phản ứng này và chia sẻ đôi điều về tác động của giãn cách xã hội lên lo âu và sợ hãi.
George Eliot từng viết về một nhân vật trong tiểu thuyết Silas Marner như sau:
“Thay vì cố xoa dịu nỗi sợ, anh lại nuôi dưỡng nó, với một niềm tin mê tín vẫn bám lấy tất cả chúng ta: rằng nếu ta lo sợ điều xấu một cách mãnh liệt, thì điều đó ít có khả năng xảy ra hơn.”
Vì sao ta lại tin rằng càng lo sợ điều tồi tệ, ta càng làm giảm khả năng nó xảy đến? Một câu hỏi đáng để nghiền ngẫm. Có lẽ, ta ngầm tin rằng việc khiếp sợ điều xấu là một biểu hiện của sự khiêm nhường, và rằng tai họa chỉ giáng xuống kẻ ngạo mạn, những người cho rằng họ không có gì phải lo, chứ không phải người biết cúi đầu. Nhưng đó là chuyện để dành cho một dịp khác. Điều tôi muốn nói lúc này chỉ đơn giản là: đôi khi, ta cư xử đúng như nhân vật trong Silas Marner.
Source: Cottonbro/Pexels
Thế nhưng ở những lúc khác, ta lại hành xử hoàn toàn ngược lại: thay vì nhìn thẳng vào hiểm nguy, ta quay lưng lại. Gavin de Becker, tác giả cuốn Món Quà Của Nỗi Sợ, đã đề cập đến phản ứng này. Trong sách, ông lập luận rằng nỗi sợ là một món quà bởi nó cảnh báo ta về những mối nguy thực sự (theo nghĩa đó, nỗi sợ là điều quý giá). Ông cũng đưa ra nhiều chiến lược để đối mặt với hiểm họa, ví dụ như phải làm gì nếu bị ai đó cố bắt cóc. Trong một cuộc phỏng vấn, de Becker kể rằng khi ông cố gắng nói chuyện với mọi người về những chiến lược ấy, nhiều người từ chối lắng nghe ngay từ đầu. Họ không muốn, thậm chí không thể tưởng tượng đến việc mình có thể là nạn nhân của một cuộc tấn công tàn bạo. Vì sao lại như thế? Một phần có thể vì họ tin khả năng xảy ra thấp. Nhưng cũng có thể vì một điều khác: trong lòng ta như thể tin rằng, nếu ta nghĩ đến một viễn cảnh kinh hoàng, nó sẽ sống dậy trong trí óc ta và bằng cách nào đó, trở nên hiện thực hơn.
Đây cũng là một lối nghĩ đầy mê tín, mang tính “ma thuật”, nhưng là hình ảnh phản chiếu của niềm tin mà Eliot từng mô tả. Một đằng, ta tin rằng nỗi sợ sẽ giúp tránh điều xấu; đằng khác, ta tin rằng né tránh điều xấu sẽ khiến nó không xảy ra.
Rõ ràng, cả hai chiến lược đều có mặt trái. Run rẩy lo sợ, thay vì mang lại cảm giác an tâm như lời Eliot, có thể chỉ khiến ta thêm căng thẳng. Về điều này, tôi chợt nhớ đến một câu chuyện cổ tích tôi nghe từ thuở bé: dịch tả hứa chỉ giết 5000 người rồi rời đi. Nhưng cuối cùng, 50.000 người đã chết. Thượng đế hỏi dịch tả: “Ngươi nói sẽ giết 5000 người rồi rời đi, nhưng giờ có đến 50.000 người chết. Hãy giải thích đi!” Dịch tả trả lời: “Tôi chỉ giết 5000 người, đúng như đã hứa. 45.000 người còn lại chết vì sợ hãi.”
Còn quay lưng lại thì chắc chắn không phải cách hay, nhất là nếu những người chôn đầu trong cát lại chính là những người đang nắm quyền. Về điều này, Thomas Mann kể một câu chuyện cảnh tỉnh trong truyện vừa Cái Chết Ở Venice. Câu chuyện xoay quanh thành phố Venice trong một đợt bùng phát dịch tả hư cấu. Chính quyền ở đây phủ nhận mức độ nghiêm trọng của dịch bệnh, và hậu quả là nhiều du khách, những người hoàn toàn có thể được cứu sống, đã thiệt mạng.
Vậy có chiến lược nào khôn ngoan hơn không? Có lẽ, điều đáng nói ở đây là tách biệt hành động khỏi cảm xúc. Thật khó có lời khuyên nào sáng suốt hơn câu: “Hy vọng điều tốt nhất, nhưng chuẩn bị cho điều tồi tệ nhất.” Nói rộng hơn, không phải những người hoảng loạn là người đối mặt tốt nhất với hiểm họa. Hãy nghĩ đến các phi hành gia trong sứ mệnh Apollo 13: sau khi bình oxy phát nổ, họ bình tĩnh phối hợp với đội kiểm soát mặt đất (những người cũng không hoảng loạn) để ứng biến ra một giải pháp giúp ba người sống sót trong bốn ngày, dù mô-đun đổ bộ mà họ phải trú tạm chỉ được thiết kế cho hai người trong hai ngày. Một ví dụ tuyệt vời về sức mạnh của sự điềm tĩnh. Sự điềm tĩnh có thể cứu sống. Luôn luôn có lối thoát, nhưng ta phải tỉnh táo để tìm ra nó, chứ không được đầu hàng nỗi sợ.
Tôi muốn gợi ý rằng, có thể chính đợt giãn cách vừa qua đã đưa chúng ta đến một điểm cân bằng hơn, ít bị chi phối bởi sợ hãi và có khả năng phản ứng hợp lý hơn; không còn quá mê tín như những ví dụ kể trên, mà gần hơn với tinh thần của các phi hành gia trong Apollo 13. Không phải ai cũng có thể gạt bỏ nỗi sợ ngay lập tức, nhưng nhiều người trong chúng ta có thể vượt qua sự hoảng loạn nếu được cho một chút thời gian để chuẩn bị.
Tôi không chắc những biện pháp giãn cách xã hội sẽ giúp đạt được mục tiêu “làm phẳng đường cong” đến đâu. Nhiều điều còn phụ thuộc vào diễn biến sau khi lệnh giãn cách được dỡ bỏ, và tình hình lây nhiễm cũng như tử vong sẽ ra sao. Nhưng có lẽ, những biện pháp đó đã mang lại một hiệu ứng khác, mang tính tâm lý: chúng cho ta thời gian để vượt qua nỗi sợ.
Điều quan trọng nữa là: nỗi sợ thường giảm dần theo thời gian, ngay cả khi mối nguy vẫn còn đó. Nó giảm không hẳn vì ta trở nên lý trí hơn, dù ở một nghĩa nào đó thì có thể là vậy, mà vì ta mỏi mệt với việc phải sống trong sợ hãi. Tôi nghĩ, chính điều này đã xảy ra trong trường hợp hiện nay. Giờ đây, người ta tích trữ ít hơn, đi dạo công viên nhiều hơn so với vài tuần trước. Và nhờ thế, ta đang ở một vị trí tốt hơn để không sa vào việc chỉ nhìn về một trong hai cực: hoặc quá hy vọng, hoặc quá tuyệt vọng; mà thay vào đó, có thể hy vọng điều tốt đẹp, nhưng vẫn sẵn sàng đối diện điều xấu nhất; tránh cả lạc quan mù quáng lẫn nỗi sợ mê tín.
Nguồn: Irrational Optimism, Superstitious Fear | Psychology Today