Nạn nhân 'âm thầm' sau thảm họa
Sau một thảm họa, cộng đồng thường dành nhiều sự quan tâm, hỗ trợ y tế cho các nạn nhân và người nhà của họ. Nhưng còn có một dạng nạn nhân khác thường “âm thầm” chịu đựng sang chấn tinh thần
Sau một thảm họa, cộng đồng thường dành nhiều sự quan tâm, hỗ trợ y tế cho các nạn nhân và người nhà của họ. Nhưng còn có một dạng nạn nhân khác thường “âm thầm” chịu đựng sang chấn tinh thần: Đó chính là những người cứu hộ, cứu nạn.
- Tối 1/10/2017, Stephen Paddock, 64 tuổi, nã đạn từ tầng 32 khách sạn Mandalay Bay, Las Vegas, Nevada (Mỹ) xuống đám đông hơn 22.000 người tham dự lễ hội âm nhạc phía dưới. Vụ xả súng gây chấn động thế giới kéo dài khoảng 10 phút, khiến ít nhất 59 người thiệt mạng, hơn 500 người bị thương. Vào tối “đẫm máu” ấy, y tá Antoinette Mullan ở trung tâm y tế Đại học Nam Nevada đã chứng kiến cảnh tượng hoảng loạn ở bệnh viện khi tiếp nhận nhiều xác chết nằm trên băng ca, đồng thời phải liên tục chữa trị hàng loạt nạn nhân bị thương nặng, máu me bê bết ở đầu, ngực, bụng, chân tay do đạn súng. Mullan nhớ lại: “Ở thời điểm đó, tôi và các bác sỹ, nhân viên cứu hộ không suy nghĩ gì khác ngoài việc cứu người”. Dù tự hào về những gì mà bản thân và đồng nghiệp đã làm, Mullan thừa nhận: “Đó là đêm kinh hoàng nhất đời tôi. Tôi có thể chắc rằng sau 30 năm nữa vẫn còn cảm giác suy sụp. Chắc chắn không ít người khác cũng sẽ phải đối diện với nỗi ám ảnh này suốt cuộc đời còn lại”.
Không riêng gì Antoninette Mullan, nhiều nhân viên sơ cứu (first responder – gồm cảnh sát phòng cháy chữa cháy, nhân viên y tế khẩn cấp, lực lượng cứu hộ, cứu nạn…) cũng trải qua cảm giác tương tự sau các thảm họa. Họ thường là những nhân chứng đầu tiên chứng kiến sự điêu tàn, tang tóc, bất lực ở hiện trường các vụ xả súng, thảm sát, tai nạn giao thông, lũ lụt, cháy rừng, hỏa hoạn…Trên truyền thông, họ có thể được tung hô như những người anh hùng và được công chúng ngưỡng mộ. Nhưng đằng sau, ít ai biết họ bị tổn thương sâu sắc từ những trải nghiệm kinh hoàng, đau buồn trong thảm họa. Một số người bị rối loạn stress sau sang chấn (PTSD) với những triệu chứng điển hình như: có hồi ức bắt buộc và lặp đi lặp lại hoặc tái diễn sự kiện trong óc, trong mơ mộng ban ngày hay giấc mơ; cảm xúc “tê cóng”, cùn mòn, tách khỏi những người khác, không đáp ứng với môi trường xung quanh, mất thích thú; né tránh các hoạt động và các hoàn cảnh gợi lại sang chấn; có những cơn sợ hãi cấp, bi đát, cơn hoảng sợ do những kích thích làm đột ngột nhớ lại hoặc diễn lại sang chấn hay phản ứng ban đầu đối với sang chấn; lạm dụng rượu, ma túy; biểu hiện lo âu, trầm cảm, thậm chí tự sát…
Mùa hè năm 2015, Tim Casey – một cựu lính cứu hỏa 35 năm tuổi nghề thuộc Sở Phòng cháy chữa cháy thành phố Colorado Spring, tiểu bang Colorado (Mỹ) – bắt đầu đăng các đoạn video trên Youtube mô tả nhiều thảm họa mà ông đã chứng kiến. Trong một video, Tim Casey – 57 tuổi - hồi tưởng về sự bất lực của bản thân nhằm cứu một đứa trẻ trong đám cháy: “Người mẹ trao đứa bé bị thương ở đầu cho tôi và cầu xin: hãy cứu con tôi. Lúc đó, đứa bé còn thoi thóp. Nhưng cuối cùng, tôi không thể. Đứa bé chết”. Vì dằn vặt bởi những lời cầu cứu của các nạn nhân trong thảm họa, Casey thường xuyên mơ thấy những cảnh khủng khiếp mà ông trải qua. Ban ngày, ông cũng bị những hình ảnh thảm họa bủa vây tâm trí, cảm giác như nó hiện diện ngay trong thực tại. Dần dần, Casey mắc PTSD. Ông phải dùng rượu để đối phó với những chấn thương tâm lý. Cuối cùng, vào tháng 7/2015, cựu lính cứu hỏa Casay tự kết liễu cuộc đời bằng cách đâm xe ô-tô vào gara ở nhà riêng tại Colorado Springs.
Tại Mỹ, tình trạng những người lính cứu hỏa như ông Casey tự tử vì ám ảnh công việc đã trở nên “đáng báo động”. Năm 2016, The Badge of Life (Dấu hiệu của sự sống) – một chương trình phòng chống tự tử cho cảnh sát Mỹ - thống kê rằng có hơn 105 trường hợp nhân viên thực thi pháp luật Mỹ tự vẫn. Theo Hiệp hội Sức khỏe Lính cứu hỏa Mỹ, ước tính 113 lính cứu hỏa và nhân viên trợ giúp y tế tự tử trong năm 2015. Thực tế, số người tự tử có thể còn cao hơn vì rất ít đơn vị phòng cháy chữa cháy thông báo cho nhà chức trách về các vụ việc. Tại Australia, số liệu thống kê năm 2015 của Hệ thống thông tin quốc gia Australia cho thấy cứ 6 tuần thì có 01 nhân viên sơ cứu ở “xứ sở chuột túi” tự tử. Báo cáo năm 2016 của Hiệp hội lính cứu hỏa quốc tế cho thấy tỷ lệ lính cứu hỏa và nhân viên hỗ trợ y tế mắc chứng PTSD cao ngang với tỷ lệ cựu binh mắc PTSD.
Các chuyên gia y tế cảnh báo việc nhiều nhân viên sơ cứu được đào tạo bài bản để cứu người, song lại không được chuẩn bị đầy đủ tinh thần để ứng phó trước các thảm họa. Họ thậm chí từ chối tư vấn, khám và chăm sóc sức khỏe tinh thần sau thảm họa. Nguyên nhân là họ sợ lòng kiêu hãnh bị tổn thương, ngại bị bêu xấu, chế giễu, phân biệt đối xử. Thực tế là trong ngành cứu hỏa ở Mỹ cũng như tại Australia, tồn tại “văn hóa” cho rằng các chứng bệnh tâm lý là biểu hiện của “sự ốm yếu”; do vậy, việc thừa nhận có vấn đề tâm lý có thể ảnh hưởng đến sự nghiệp của lính cứu hỏa. Đáng buồn là “văn hóa chế giễu” tồn tại dai dẳng bởi chính những người thiếu hiểu biết rõ ràng về rối loạn tâm thần cũng như chăm sóc sức khỏe tinh thần. Jeff Dill – cựu lính cứu hỏa và giờ là tư vấn viên y tế – nói : “Khi xảy ra thảm họa quốc gia hoặc có một kẻ lái xe tải đâm vào nhiều người…, nếu không được chuẩn bị tinh thần thì các nhân viên sơ cứu có thể sốc nặng”.
- Những năm gần đây, ngày càng có nhiều thảm hoạ do thiên tai (lũ lụt, bão, núi lửa, sóng thần, nắng nóng…) cũng như do chính con người (chiến tranh, khủng bố, các tai nạn lớn…) gây ra. Không chỉ gây tổn thất về sinh mạng, của cải vật chất, các thảm hoạ còn gây tổn thương rất lớn về mặt tâm thần cho các nạn nhân và cả cộng đồng. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) coi những người đến cứu hộ, cứu nạn, nhân viên sơ cứu (first responder) là một trong sáu loại nạn nhân (gồm người trực tiếp gặp nạn, người thân của nạn nhân, các thành viên trong cộng đồng, người bị rối loạn khi nghĩ đến thảm họa, người tình cờ liên quan thảm họa) chịu tác động của thảm họa cần được chăm sóc sức khỏe tâm thần và hỗ trợ tâm lý. Ở một số nước, đang có những nỗ lực nhất định để thay đổi “văn hóa chế giễu” và đảm bảo sức khỏe tinh thần cho lực lượng cứu hộ, cứu nạn. Tại Australia, Cơ quan cấp cứu New South Wales cung cấp các dịch vụ hỗ trợ, điều trị sức khỏe tâm thần cho nhân viên sơ cứu, gồm việc tiếp cận với bác sỹ tâm lý, tư vấn tâm lý 24/24h, tổ chức hội thảo về sức khỏe tinh thần…Cơ quan này cũng tăng cường thông tin cho các nhân viên về tầm quan trọng của trợ giúp y tế sớm đối với các rối loạn tâm thần, cảm xúc…Tại Mỹ, tổ chức phi lợi nhuận “The Badge of Life” đưa ra các chương trình quản lý stress và chống tự tử cho cảnh sát như: cung cấp kiến thức về thực trạng vấn đề sức khỏe tâm thần trong lực lượng thực thi pháp luật; hiểu biết về stress và chấn thương tâm lý; kiểm tra y tế định kỳ; hỗ trợ tìm kiếm bác sỹ trị liệu…
Tờ Psychology Today (Tâm lý học ngày nay) của Mỹ cho rằng đã đến lúc nâng cao nhận thức trong cộng đồng những người cứu hộ, cứu nạn về tầm quan trọng của chăm sóc sức khỏe tâm thần. Trước hết, để giảm dần “văn hóa xấu hổ”, phải nhận thức rằng tâm thần và chăm sóc sức khỏe tâm thần cũng giống như các loại chăm sóc sức khỏe thể chất cần thiết khác. Theo thống kế của Liên minh quốc gia Mỹ về các bệnh tâm thần, cứ 5 người sống ở Mỹ thì có 4 người bị ảnh hưởng bởi các chứng rối loạn tâm thần (ước tính khoảng 42,5 triệu người). Do vậy, vấn đề sức khỏe tâm thần cần được coi là biểu hiện của con người; nó phổ biến như “chim bay trên trời hoặc kiến bò dưới đất”.
Tờ Psychology Today đưa ra một số lời khuyên giúp những người cứu hộ, cứu nạn xóa bỏ “văn hóa xấu hổ, chế giễu”. Thứ nhất, họ cần được giáo dục về vấn đề sức khỏe tâm thần. Thứ hai, họ cần được dạy để cảm thông, chia sẻ kinh nghiệm ứng phó thảm họa không chỉ với các thành viên trong cộng đồng gặp thảm họa mà còn với chính những đồng nghiệp của mình. Thứ ba, những người cứu hộ, cứu nạn cần có một người bạn tri kỷ đáng tin cậy, sẵn sàng lắng nghe, chia sẻ khi họ rơi vào tuyệt vọng. Thứ tư, người cứu hộ, cứu nạn cần tham gia vào cộng đồng để không cảm thấy cô độc.
Kinh nghiệm từ nhiều nước cho thấy, vai trò của các thầy thuốc chuyên khoa tâm thần và tâm lý là rất quan trọng để hỗ trợ tâm lý và chăm sóc sức khoẻ tâm thần cho nạn nhân thảm hoạ, trong đó có các nạn nhân là người cứu hộ, cứu nạn. Người thầy thuốc không chỉ điều trị cho những người rối loạn tâm thần sau thảm họa thiên tai, mà còn phải lập kế hoạch và điều phối, tập hợp các đội tư vấn sức khỏe tâm thần, cụ thể như: mở các buổi tập huấn kỹ năng ứng phó khi xảy ra thảm họa; liên kết những người cứu hộ đồng cảnh với các nguồn lực trợ giúp; khuyên giải, an ủi và giải tỏa lo lắng …
Ở một số nước, việc hỗ trợ tâm lý xã hội và chăm sóc sức khỏe tâm thần cho lực lượng cứu hộ, cứu nạn trước, trong và sau thảm họa vẫn là một vấn đề hầu như còn “bỏ ngỏ”, chưa được quan tâm đúng mức. Đây là vấn đề không chỉ của riêng ngành y tế mỗi nước mà còn là của các ngành liên quan cộng đồng, gồm giáo dục, lao động xã hội…
Khi xảy ra thảm họa quốc gia hoặc có một kẻ lái xe tải đâm vào nhiều người…, nếu không được chuẩn bị tinh thần thì các nhân viên sơ cứu có thể sốc nặng.
Jeff Dill – cựu lính cứu hỏa
Nguồn: ngaynay.vn