Những khoảng lặng ngượng ngùng

nhung-khoang-lang-nguong-ngung

Vì sao những lúc trò chuyện bỗng chốc im bặt lại khiến ta khó chịu đến thế? Câu trả lời nằm ở cách chúng ta kết nối với nhau.

Triết gia người Mỹ David Lewis được biết đến rộng rãi với học thuyết hiện thực khả thể: quan điểm cho rằng những thế giới khả thể, tuy không hiện hữu, vẫn tồn tại thực như thế giới này. Nhưng với những người từng thân quen ông, David Lewis còn nổi tiếng vì… sự im lặng. “Nếu ai đó đặt câu hỏi cho David trong một buổi thuyết trình và ông chưa nghĩ ra câu trả lời ngay,” D. H. Mellor, thầy hướng dẫn luận văn thạc sĩ của tôi, đồng thời là một người bạn thân thiết của Lewis, từng nói với tôi, “ông ấy sẽ cứ ngồi yên lặng bao lâu tùy ý cho đến khi nghĩ ra điều cần nói.”

Một người bạn thân khác của Lewis, triết gia Barry Taylor, cũng từng kể về khả năng chịu đựng khoảng lặng của ông, những khoảng lặng khiến phần lớn người khác không yên. Trong một buổi nói chuyện tại Lễ hội Nhà văn Melbourne năm 2006, Taylor kể về lần đầu tiên gặp Lewis ở Oxford vào đầu thập niên 1970, người đàn ông “không hề biết xã giao” và có “thói quen gây bối rối là luôn suy nghĩ trước khi nói”:

“Tôi nói: ‘Barry Taylor. Melbourne.’
Ông đáp: ‘David Lewis. Princeton.’

Rồi im lặng. Như thường thấy trong những cuộc trò chuyện với David. Tôi cuống cuồng nghĩ ra điều gì đó để phá tan bầu không khí và hỏi: ‘Dạo này [đồng nghiệp của Lewis là] Richard Montague đang làm gì vậy?’

David dừng lại một lúc để suy nghĩ rồi đáp: ‘Tôi nghe tuần trước rằng ông ấy bị sát hại.’
‘Trời đất!’ tôi thốt lên, hay đại loại vậy. ‘Trời đất! Ai lại đi giết một triết gia chứ?’
David ngẫm nghĩ rồi nói: ‘Ông ấy có đời sống cá nhân, chứ không chỉ có triết học.’
Và thế là kết thúc câu chuyện.”

Trong lúc Taylor kể, người nghe phía dưới bật cười khúc khích. Có lẽ họ đang hình dung ra sự gượng gạo khi phải trò chuyện với một người sử dụng sự im lặng theo cách “gây bối rối” như vậy, và cả việc những câu ông nói ra giữa các khoảng lặng lại chẳng giúp bầu không khí bớt căng thẳng. (Thật đáng tiếc, câu nói của Lewis về Montague không phải lời đùa, vụ sát hại Montague năm 1971 đến nay vẫn chưa được phá giải.) Khi phải đối mặt với một khoảng lặng kéo dài trong cuộc trò chuyện, hầu hết chúng ta, như Taylor, đều rơi vào trạng thái “cuống cuồng nghĩ ra điều gì đó để nói.” Sự im lặng khiến ta bối rối. Nhưng tại sao?

Trước hết, cần nhìn nhận rằng, may mắn thay, không phải mọi sự im lặng đều gượng gạo. Phần lớn thời gian, dù đang ở cùng người khác, ta vẫn có thể im lặng một cách thoải mái. Như hiện giờ, tôi đang ngồi trong một quán cà phê đông đúc. Chung quanh tôi là những cuộc trò chuyện rôm rả, còn tôi thì ngồi đây, gõ máy trong im lặng, hoàn toàn dễ chịu. Tôi không hề có khả năng miễn nhiễm với sự lặng thinh như Lewis; chỉ là sự im lặng lúc này không phải kiểu khiến người ta cảm thấy ngượng nghịu. Chỉ những khoảng lặng hội đủ một số điều kiện nhất định mới có thể trở nên khó xử.

Sự im lặng gây ngượng là sự im lặng trong giao tiếp, nó xảy ra giữa cuộc trò chuyện, và có khả năng gây khó xử khi rơi vào đúng lúc lẽ ra ai đó phải lên tiếng. Tôi không thấy ngượng ngùng với sự im lặng của mình lúc này vì tôi không đang trò chuyện với ai cả. Nếu có, có lẽ tôi sẽ cảm thấy không thoải mái. Để hiểu lý do vì sao, ta có thể quay lại với nhận định rằng những khoảng lặng ngượng ngùng thường xảy ra khi “đáng lẽ” ai đó nên nói. Cái “đáng lẽ” này gắn liền với các quy tắc giao tiếp. Khi trò chuyện, chúng ta, thường là một cách vô thức, tuân theo những quy ước như: khoảng dừng giữa các câu nói nên dài bao nhiêu, ai là người được nói tiếp theo, chủ đề nào thì phù hợp. Những quy tắc ấy thay đổi tùy theo từng nền văn hóa. Haru Yamada, một nhà ngôn ngữ học người Nhật sống ở London, người đã có nhiều nghiên cứu sâu rộng về sự khác biệt giao tiếp giữa người Nhật và người nói tiếng Anh, từng nhận xét rằng những khoảng lặng vốn khiến người Nhật cảm thấy thoải mái lại khiến người Mỹ thấy “dài đến mức không chịu nổi”.

Một trong những chức năng quan trọng của các quy tắc giao tiếp (và cả trong những hành vi xã hội khác) là giúp tương tác giữa con người trở nên dễ đoán. Đặc biệt khi ta không thân thiết với ai đó, việc họ phá vỡ quy tắc, như ngắt lời ta, đứng quá gần, im lặng quá lâu, hay bất kỳ điều gì khác, đều có thể khiến ta bất an. Rồi ta bắt đầu băn khoăn, theo cách nói của Joel Feinberg trong cuốn Offense to Others (1985): rốt cuộc thì người này sẽ còn làm gì nữa đây? Và cảm giác hoang mang, thậm chí bị đe dọa, sẽ len lỏi trong lòng ta.

Photo by Alex Webb/Magnum

Lewis trân trọng việc chia sẻ thông tin; ông không mấy hứng thú với chuyện trò xã giao


Nhưng không phải ai phá vỡ các quy tắc giao tiếp cũng đều mang đến cảm giác đe dọa. Có những người làm vậy vì những lý do vô hại. Chẳng hạn, nhiều người tự kỷ cảm thấy bức bối trước những cuộc trò chuyện không đầu không cuối và họ thích dùng ngôn ngữ để trao đổi thông tin một cách rõ ràng. Chris Packham, nhà tự nhiên học người Anh kiêm người dẫn chương trình truyền hình, từng công khai chia sẻ rằng mình được chẩn đoán mắc chứng tự kỷ khi đã ngoài bốn mươi tuổi, và ông cũng từng minh họa điều này trong một cuộc phỏng vấn. Khi được hỏi liệu có thường xuyên giao lưu xã hội không, Packham kể lại cảm giác bối rối khi bạn gái đề nghị đến thăm bạn bè “vì sẽ vui khi gặp họ.” Ông đáp: “Nhưng để làm gì chứ? Tại sao tôi phải bỏ thời gian chỉ để gặp ai đó, trừ khi họ có điều gì thú vị để kể hoặc chúng tôi có việc gì đó cần làm cùng nhau? Gặp chỉ để gặp thì… có ý nghĩa gì đâu?”

Không ai biết chắc liệu có một chẩn đoán y khoa nào có thể lý giải phong cách giao tiếp của Lewis hay không, nhưng rõ ràng, những điều ông coi trọng khác hẳn phần đông người khác. Lewis trân quý việc chia sẻ thông tin; ông không mấy quan tâm đến chuyện trò tán gẫu. Giao tiếp với những người như thế có thể khiến ta cảm thấy khó hòa hợp lúc ban đầu, nhưng nếu họ cư xử tôn trọng và tinh tế, ta sẽ dần thấy thoải mái. Có lẽ Taylor sau nhiều năm cũng đã quen với những khoảng lặng của Lewis. Và người phỏng vấn Packham thì nhận ra sự ấm áp ẩn sau quan điểm có phần “lạnh lùng” của ông về việc giao tiếp xã hội, nhận xét: “Nghe lời ông nói thì có vẻ vô cảm, thậm chí thực dụng, nhưng giọng điệu lại rất dịu dàng.”

Vậy nên, những khoảng lặng có thể trở nên ngượng ngùng khi chúng đi ngược lại các quy tắc chung. Tuy nhiên, điều thú vị là cảm giác khó chịu do im lặng kéo dài lại không giống với sự khó chịu mà các hành vi lệch chuẩn khác gây ra. Một nét nổi bật của sự bối rối trước khoảng lặng dài là cảm giác bị thúc ép phải lên tiếng. Sự im lặng của Lewis khiến Taylor “cuống cuồng nghĩ ra điều gì đó để nói.” Một người tham gia nghiên cứu của Yamada cũng từng nói rằng, khi rơi vào khoảng lặng, họ sẽ “lấp đầy sự im lặng bằng lời nói.” Áp lực phải nói có thể mạnh đến mức một số nhóm người đã biết cách tận dụng nó. Các nhà đàm phán Trung Quốc được đào tạo để kéo dài sự im lặng, khiến những đối tác phương Tây bối rối và vội vàng nhượng bộ. Và Trường Cao đẳng Cảnh sát của Anh cũng khuyến nghị các sĩ quan, khi thẩm vấn, nên “giữ im lặng trong những khoảng dừng… để khuyến khích nhân chứng tiếp tục nói.”

Cái gọi là “áp lực” ở đây là gì? Có lẽ, một phần đó là áp lực mang tính quy chuẩn: khi một sự im lặng kéo dài quá lâu, ta cảm thấy mình nên lên tiếng để khôi phục lại sự nhịp nhàng vốn có. Bởi trò chuyện là một hành động có tính sẻ chia. Một cuộc đối thoại là thứ ta cùng nhau tạo dựng với người đang trò chuyện, và điều ấy bị đứt gãy nếu một trong hai bên im lặng quá lâu. Trong một nghiên cứu năm 2011 về sự im lặng trong giao tiếp, ba nhà tâm lý học Namkje Koudenburg, Tom Postmes và Ernestine H. Gordijn đã ví cuộc trò chuyện như một điệu nhảy: sự “trao đổi thông tin hài hòa thông qua việc luân phiên nói một cách nhịp nhàng” trong một cuộc đối thoại mạch lạc đem lại cảm giác hài lòng, hệt như khi hai người hòa quyện nhịp bước trong một điệu nhảy. Khi nhịp điệu lệch pha, dù là trong nhảy hay trong trò chuyện, thì sự vụng về sẽ nảy sinh. Koudenburg và cộng sự phát hiện ra rằng con người có xu hướng cảm thấy bị từ chối khi sự im lặng phá vỡ dòng chảy tự nhiên của cuộc trò chuyện. Họ lý giải: “Do vai trò sống còn của việc thuộc về một nhóm trong tiến trình tiến hóa, con người cực kỳ nhạy cảm với cảm giác bị loại trừ.” Nói cách khác, sự im lặng trở nên khó chịu khi nó khiến ta lo sợ rằng mình không còn là một phần của cuộc kết nối này.

Lý giải ấy nghe thật thuyết phục. Khi một sự im lặng kéo dài, ta cảm nhận rõ ràng rằng mình đang thất bại trong việc kết nối với người đối diện. Im lặng khiến ta nhận ra rằng ta đang chật vật trong một cuộc tương tác mà lẽ ra, nếu cả hai có đủ điểm chung, sẽ diễn ra một cách nhẹ nhàng, trôi chảy. (Thật thú vị khi thấy rằng sự im lặng ít có khả năng gây ngượng khi ta không kỳ vọng cuộc trò chuyện sẽ mạch lạc, như lúc nói chuyện qua điện thoại với tín hiệu chập chờn chẳng hạn.) Khi sự kết nối không suôn sẻ, ta bắt đầu băn khoăn liệu người kia có thật sự là “người cùng phe” với mình hay không. Và đặc biệt là khi ta đã đặt nhiều kỳ vọng vào mối quan hệ đó, như cách Taylor mong muốn được nhìn nhận như một người đồng môn triết học với Lewis, thì sự khập khiễng trong giao tiếp khiến ta lo sợ rằng mình sẽ không được chấp nhận.

Tuy nhiên, lời giải thích rằng ta cảm thấy một áp lực mang tính quy chuẩn để lên tiếng khi sự im lặng kéo dài, cũng chỉ mới cho ta hiểu một phần câu chuyện. Có một điều đáng chú ý là ta thường không cảm thấy loại áp lực tương tự trước những hành vi vi phạm quy chuẩn khác. Những người thường xuyên ngắt lời, hay thao thao bất tuyệt chỉ nói về bản thân, họ cũng vi phạm các chuẩn mực trong trò chuyện, cũng phá hỏng dòng chảy mượt mà của cuộc đối thoại. Nhưng ta lại không cảm thấy mình phải đưa tay bịt miệng họ hay nài nỉ họ ngưng lại (dù trong đầu có thể từng mơ đến cảnh đó). Vậy thì, vì sao sự im lặng lại khác biệt?

Một phần lý do là bởi… sự im lặng thì… đúng là im lặng thật. Không có gì xảy ra để đánh lạc hướng ta khỏi cái cảm giác rõ ràng rằng lẽ ra ai đó nên đang nói, khiến cho sự im lặng bỗng trở nên nổi bật một cách khó chịu. Như người ta vẫn nói, “im lặng là lời nói vang dội nhất.” Trái lại, trong những trường hợp vi phạm quy chuẩn giao tiếp nhưng không phải là im lặng, ta vẫn còn điều gì đó để tập trung vào, chính là nội dung đang được nói ra. Thêm nữa, việc chấm dứt một khoảng lặng ngượng ngùng thường dễ dàng hơn nhiều so với xử lý các hành vi sai chuẩn khác. Ta có thể phá vỡ sự im lặng chỉ đơn giản bằng cách góp lời vào cuộc trò chuyện. Nhưng thử ngăn ai đó ngắt lời hoặc đặt những câu hỏi vô duyên xem, kiểu như nói “Làm ơn đừng cắt ngang tôi nữa” hay “Chuyện đó không phải việc của bạn đâu”, thì có thể sẽ khiến mối quan hệ xấu đi ngay lập tức. Trong rất nhiều trường hợp (nếu không muốn nói là phần lớn), ta sẽ chọn cách âm thầm chịu đựng hành vi không đúng mực ấy hơn là làm mọi thứ thêm ngượng bằng cách đối đầu trực tiếp.

Một khía cạnh khác của sự im lặng gượng gạo lại liên quan đến chính việc giao tiếp. Im lặng cũng có thể là một hình thức truyền tải thông điệp, và đôi khi ta giữ im lặng chính là để nói điều gì đó theo cách không lời. Trong bài luận Niềm vui của sự dỗi hờn (2023) trên Aeon, tôi từng lập luận rằng hành động dỗi chính là ví dụ điển hình cho điều này: người đang giận chọn cách im lặng, một phần là để cho người kia biết rằng họ đang tổn thương. Triết gia Anna Klieber từng lập luận rằng im lặng “có thể truyền đạt sự đồng thuận, phản đối, không hài lòng, ủng hộ, và còn rất nhiều điều khác nữa.” Klieber kể lại rằng vào năm 2020, khi được hỏi về ý kiến trước lời kêu gọi sử dụng quân đội đàn áp người biểu tình Black Lives Matter của tổng thống Mỹ Donald Trump, thủ tướng Canada Justin Trudeau đã đáp lại bằng 21 giây im lặng. Klieber ghi nhận rằng “rất nhiều sự chú ý của truyền thông sau cuộc họp báo đó đều tập trung vào khoảnh khắc im lặng,” và các nhà báo thì đồn đoán xem ông muốn nói điều gì qua cái im lặng ấy.

Trudeau không phải người duy nhất sử dụng sự im lặng mang tính truyền đạt trong chính trị. Năm 2016, dưới tiêu đề “Khi Barack Obama phát biểu sau các vụ xả súng hàng loạt, chính những khoảnh khắc im lặng mới nói lên nhiều điều nhất”, Aeon đã giới thiệu đoạn phim Mất mát của nghệ sĩ thị giác người Mỹ Dawn Kim: một video dài 1 phút 3 giây, ghi lại những khoảng lặng day dứt, đầy suy tư trong các phát biểu công khai của Obama sau những vụ bạo lực xảy ra thường xuyên đến mức đáng sợ.

Im lặng có thể là một chiến lược giao tiếp rất hiệu quả, nhưng điều khó chịu là ta thường không biết rõ hoặc không biết chắc một sự im lặng nào đó đang muốn nói điều gì, nếu có. Điều hiện ra rõ rệt qua những câu chuyện mà Taylor và Mellor kể về sự im lặng nổi tiếng của Lewis, đó là: phần lớn chúng chẳng nhằm truyền đạt điều gì cả. Chúng đơn giản chỉ là dấu hiệu ông chưa sẵn sàng lên tiếng. Nhưng thật dễ hiểu khi Taylor thấy chúng “gây bối rối”, nhất là khi ông chưa thân thiết với Lewis. Đôi khi, ta có thể dễ dàng hiểu được sự im lặng của ai đó, nhưng để làm được như thế, ta cần có bối cảnh. Bối cảnh đó có thể là sự quen thuộc với người đang im lặng, hiểu cách họ thường giao tiếp, và đoán được họ sẽ cảm nhận thế nào trong tình huống hiện tại. Nếu bạn từng nhìn vào ai đó và cả hai cùng hiểu nhau mà chẳng cần nói thành lời, thì chính nhờ vào bối cảnh chung ấy mà sự kết nối im lặng ấy mới trở nên nhẹ nhàng đến vậy. Nhưng khi ta không có bối cảnh, ta sẽ rất khó giải mã những khoảng lặng. Những nhà báo từng phân tích sự im lặng của Trudeau hẳn sẽ dễ hiểu hơn nếu họ được chứng kiến phản ứng thật của ông trước lời lẽ của Trump, khi ông ở một mình hoặc đang ở cạnh những người thân tín. Tương tự, có lẽ Taylor cũng cần thời gian để nhận ra rằng sự im lặng của Lewis đơn giản là vì ông “muốn nghĩ cho kỹ trước khi lên tiếng.” Trong lần gặp đầu tiên, rất có thể Taylor đã thầm tự hỏi trong đầu: “Ông ấy không muốn nói chuyện với mình sao?” khi Lewis cứ im lặng quá lâu. Chính sự thiếu vắng bối cảnh, cụ thể là việc Taylor chưa quen với phong cách giao tiếp của Lewis, đã khiến sự im lặng ấy trở nên khó xử đến vậy.

Những ví dụ trên xoay quanh cảm giác ngượng ngùng khi sự im lặng xảy ra vì người khác không lên tiếng đúng lúc ta chờ đợi họ nói.

Nhưng dĩ nhiên, cũng có những khoảng lặng khó xử xuất phát từ chính việc ta không nói được điều gì. Điều này có thể xảy ra khi ta lúng túng trong những câu xã giao vụn vặt, khi ta quá nhút nhát, quá choáng ngợp, hay đang chìm trong cảm xúc mãnh liệt, hoặc đơn giản là bị bất ngờ. Trong những tình huống như vậy, ta thường lo lắng không biết người khác sẽ nghĩ gì về sự im lặng của mình. Cụ thể, có hai nỗi lo lớn: một là họ sẽ hiểu lầm, hai là họ sẽ hiểu đúng những gì ta đang cố giấu. Hãy lần lượt cùng nhìn vào hai nỗi lo ấy.

Không khó để hình dung vì sao ta lại sợ bị hiểu lầm khi im lặng. Người mà bạn đang gắng gượng trò chuyện xã giao có thể sẽ nghĩ rằng bạn nhạt nhẽo, trong khi thực chất bạn chỉ là người rụt rè. Ông sếp vừa buộc tội bạn biển thủ công quỹ có thể xem sự câm lặng của bạn là một sự thừa nhận, trong khi thực ra bạn chỉ đang chết sững vì quá sốc. Cảm giác sợ bị hiểu lầm thật không dễ chịu chút nào. Bởi ai cũng muốn mình xuất hiện trong mắt người khác một cách tốt đẹp, và việc bị diễn giải sai khiến điều đó trở nên khó khăn hơn nhiều.

Khát khao được người khác nhìn nhận tích cực là điều hết sức quan trọng. Nhà xã hội học Erving Goffman từng cho rằng mỗi khi ta tương tác với người khác, ta như đang thủ một vai trong một vở kịch. Khi ở nơi làm việc, dù có ý thức hay không, ta đều đang cố gắng thể hiện vai Người Nhân Viên. Có thể ta còn muốn là Người Nhân Viên Thông Minh, Người Nhân Viên Trung Thực, hay bất kỳ hình ảnh nào khác. Cũng vậy, khi hẹn hò, ta nỗ lực để đóng vai Người Bạn Đời Hấp Dẫn, hoặc Người Có Khiếu Ăn Nói. Danh dự xã hội của ta bị lung lay mỗi khi ta không giữ được vai diễn của mình, và đó là lý do việc bị hiểu lầm lại gây căng thẳng đến vậy. Nếu bạn đang vào vai Người Nhân Viên Trung Thực nơi công sở, rồi bị buộc tội gian lận, thì bạn hẳn sẽ rất mong những người xung quanh đừng hiểu sự chết lặng của mình là lời thú tội, bởi nếu họ nghĩ thế, toàn bộ vai diễn của bạn sẽ bị đổ vỡ.

Bạn không muốn người đang hẹn hò với mình nhìn thấy mặt này của bạn, sự bối rối chính là một phần của “hậu trường” con người bạn.

Vậy còn nỗi lo khi người khác hiểu đúng sự im lặng của ta thì sao?

Nghe qua có vẻ kỳ lạ, nhưng mô hình “diễn vai xã hội” của Goffman sẽ giúp ta hiểu rõ điều này. Goffman tin rằng, khi tương tác với người khác, ta thường mang một “bộ mặt sân khấu”, nhưng đồng thời, ta cũng có một “bộ mặt hậu trường”. Đó là khi ta tạm gác vai diễn, thả lỏng chính mình, như một diễn viên rời khỏi sân khấu và cởi bỏ trang phục biểu diễn. Ta ở hậu trường khi nằm dài ở nhà trong bộ đồ ngủ, chẳng bận tâm ai sẽ nhìn thấy và nghĩ gì về mình. Nhưng việc phần hậu trường ấy vô tình bị phơi bày lại có thể trở thành một trải nghiệm căng thẳng, chẳng hạn như lúc ta lén chạy ra ngoài đổ rác và bất ngờ chạm mặt người hẹn hò tối qua, khi tóc còn rối và đồ ngủ vẫn chưa thay. Phần con người ấy không có gì phải xấu hổ, nhưng cũng chẳng phải là thứ ta muốn đem ra trước ánh nhìn của người khác.

Sự im lặng trở nên ngượng ngùng khi nó mang theo nguy cơ phơi bày phần “hậu trường” ấy. Hãy tưởng tượng bạn đang trong một buổi hẹn hò. Bạn muốn người đối diện thấy bạn thú vị và dễ chịu, nhưng bạn lại hồi hộp đến mức không tìm được điều gì để nói. Sự im lặng xuất hiện, và rồi người ấy, một cách hoàn toàn chính xác, nhận ra bạn đang lo lắng. Điều đó khiến bạn không thoải mái, vì bạn không muốn họ nhìn thấy khía cạnh ấy của mình. Sự bối rối kia là một phần của “hậu trường” bạn.

Sau khi đã vật lộn để bóc tách những khoảng lặng gượng gạo, ta hãy thử nghĩ đến những khoảng lặng dễ chịu. Đó là khi hai người hiểu nhau đủ để có thể trò chuyện, đang ở bên nhau trong một không gian không hề cản trở việc giao tiếp (tức là không ở nơi quá ồn ào, không trong rạp chiếu phim hay những tình huống không tiện nói chuyện), nhưng họ lại chọn im lặng, và cảm thấy hoàn toàn thoải mái với sự im lặng ấy. Những khoảng lặng êm đềm thường xuất hiện giữa những người thân thiết, nhưng cũng có những bối cảnh được thiết kế để tạo điều kiện cho sự im lặng dễ chịu xảy ra. Ví dụ, một nhà trị liệu tâm lý có thể chọn cách im lặng trong những khoảng ngừng của thân chủ, để họ có không gian chiêm nghiệm. Hay trong truyền thống của Hội Quakers, người tham dự các buổi lễ thường giữ im lặng, ai muốn nói điều gì đều có thể lên tiếng, còn nếu không, mọi người cứ yên lặng bên nhau như vậy.

Những điều ta rút ra từ các khoảng lặng ngượng ngùng cũng giúp ta hiểu vì sao một số sự im lặng lại trở nên êm dịu. Ta từng thấy rằng, sự im lặng dễ gây khó xử khi nó vi phạm các quy tắc trò chuyện, cụ thể là khi lẽ ra ai đó phải lên tiếng. Nhưng với những khoảng lặng dễ chịu, yếu tố vi phạm chuẩn mực ấy không tồn tại. Trong các buổi trị liệu tâm lý hoặc hành lễ trong im lặng, những quy chuẩn vốn có được nới lỏng để chấp nhận khoảng lặng dài hơn bình thường. Và những khoảng lặng giữa bạn bè thân thiết cũng có thể được bao dung bởi những quy tắc riêng của tình bạn. Các mối quan hệ thân thiết dần dần tự hình thành nên những chuẩn mực riêng, thường là theo cách tự nhiên, không cần phải nói ra, như tần suất gặp gỡ, những chủ đề nào có thể thoải mái chia sẻ, và người này có thể nhờ vả người kia đến mức độ nào. Khi những quy ước thân quen ấy dần hiện rõ, các quy tắc xã hội chung chung trở nên bớt quan trọng. Chẳng hạn, giữa bạn bè thân thiết, việc bàn đến những chủ đề mà ta chẳng thể chia sẻ với người ngoài có thể hoàn toàn tự nhiên. Tương tự, kỳ vọng rằng ta phải lấp đầy sự im lặng cũng dần mờ nhạt đi, nhường chỗ cho cảm giác thân tình, rằng đôi khi, chỉ cần cùng nhau im lặng cũng đủ để kết nối.

Ta đã thấy rằng, sự im lặng có thể trở nên gượng gạo khi nó làm đứt đoạn dòng chảy mượt mà của cuộc trò chuyện, giống như hai bạn nhảy bỗng vụng về lệch bước. Nhưng không phải lúc nào sự im lặng cũng gây xáo trộn. Có thể, như phép so sánh của Koudenburg và cộng sự, điệu nhảy ở đây vốn dĩ là một cuộc dạo chơi nhẹ nhàng, nơi người ta có thể dừng lại, nghỉ ngơi, lặng yên. Tương tác giữa bạn bè đôi khi giống như một phiên trị liệu, nơi một người bạn lặng lẽ ngồi bên để người kia gom lại dòng suy nghĩ trong những khoảng ngừng giữa cuộc trò chuyện. Và cũng rất thường khi, khi bạn bè ở cạnh nhau, chẳng ai biết rõ là “liệu lúc này chúng ta có đang trò chuyện không nhỉ?” Khoảng thời gian bên nhau ấy có thể giống như nghi thức thờ phượng trong im lặng của những tín đồ Quakers: ai muốn lên tiếng thì cứ lên tiếng, còn nếu không thì tất cả cùng yên lặng. Trong những khoảnh khắc như vậy, sự im lặng không hề gây gián đoạn, bởi thực ra, chẳng có điều gì cần bị gián đoạn cả.

Chúng ta không trông đợi bạn bè sẽ hiểu lầm mình, họ đã hiểu quá rõ con người ta rồi.

Một điều khác khiến ta khó chịu là cảm giác bối rối khi không thể hiểu nổi sự im lặng của ai đó có nghĩa là gì, nếu nó có ý nghĩa gì đó. Nhưng nếu không có cuộc vật lộn để diễn giải ấy, thì sự im lặng sẽ chẳng còn gì khó xử nữa. Trong những phiên trị liệu hay nghi lễ thờ phượng thinh lặng, người tham gia, với điều kiện họ hiểu rõ ngữ cảnh, sẽ không cảm thấy cần phải diễn giải sự im lặng, vì ai cũng hiểu lý do sự im lặng ấy có mặt. Dĩ nhiên, đôi lúc ta vẫn phân vân không biết sự im lặng của một người bạn có ẩn ý gì, nhưng những khoảnh khắc đó thường ít nặng nề hơn so với khi ta giao tiếp với người chưa thân quen. Khi một người bạn im lặng, chính sự thân thuộc giúp ta dễ dàng đoán biết được điều gì đang diễn ra. Ta có thể nghĩ: “Cô ấy đang giận vì anh ta lại đến trễ”, hoặc “Cậu ấy đang cố nhịn cười đây mà.” Ta cũng hiếm khi nghĩ rằng một người bạn im lặng là vì đang có ác cảm với mình. Vì thế, dù ban đầu Taylor có thể lo rằng sự im lặng của Lewis là do ông ấy khó chịu, thì nỗi lo đó hẳn sẽ dần phai nhạt khi Taylor ngày càng tin chắc rằng Lewis thật lòng quý mến mình.

Cuối cùng, ta đã thấy rằng, khi sự im lặng bắt nguồn từ việc chính ta không biết phải nói gì, thì ta thường lo người khác sẽ hiểu sai, hoặc nhìn thấy phần “hậu trường” thật thà, dễ tổn thương của mình, và điều đó khiến ta bối rối. Nhưng nếu không có những nỗi lo ấy, thì sự im lặng sẽ trở nên dễ chịu. Ta không kỳ vọng bạn bè sẽ hiểu sai mình, họ biết rõ ta quá rồi mà. Và ta cũng ít lo bị lộ phần “hậu trường” khi ở bên những người thân quen. Với họ, ranh giới giữa con người “trên sân khấu” và con người “sau cánh gà” trong ta không còn quá khác biệt nữa. Nếu bị người hẹn hò tối qua bắt gặp khi đang mặc đồ ngủ, ta có thể đỏ mặt bối rối, nhưng nếu là người bạn thân thì chắc ta chẳng bận tâm.

Từ tất cả những điều này, có thể thấy rằng, sự im lặng tự thân không phải là thứ khiến người ta khó chịu hay thoải mái. Việc một khoảng lặng trở nên gượng gạo hay dễ chịu còn tùy thuộc vào những nỗ lực kết nối, thấu hiểu, mong muốn được người khác nhìn nhận đúng như ta mong muốn, và được họ chấp nhận. Trong mọi khía cạnh của sự im lặng gượng gạo mà ta đã khám phá, luôn thấp thoáng một sợi dây xuyên suốt, đó là nỗi lo: liệu ta có đang kết nối tốt, có đang hiểu và được hiểu bởi người kia hay không? Trong một sự im lặng êm đềm, như giữa những người thân quen, yêu thương nhau, sợi dây lo lắng ấy không còn nữa. Vì với họ, ta không cần cố gắng để hiểu hay kết nối. Ta đã ở đó rồi.

Nguồn: Awkward silences | Aeon.co 

menu
menu