Sự bung vỡ - Tôi đã sống qua hai kỷ nguyên của đời mình: trước và sau chẩn đoán OCD
Tôi đã sống qua hai kỷ nguyên của đời mình: trước và sau chẩn đoán OCD. Nhưng chẳng điều gì chuẩn bị được cho tôi trước những gì mà kỷ nguyên thứ ba mang đến.
Thật khó để xác định chính xác khoảnh khắc tôi bắt đầu “bung chỉ”. Cái chết của cha tôi vào giữa tháng Sáu năm 2023, sau ba tuần kiệt quệ vì cố gắng tìm hiểu xem não ông đã bị tổn thương nặng nề đến đâu sau lần ngừng tim, chắc chắn là một nguyên nhân. Nhưng không hẳn là cái chết ấy, điều mà tôi có đủ cấu trúc và cộng đồng để dựa vào mà vượt qua, mà chính dự án dài hạn mang tên “đi qua mất mát” mới bắt đầu gặm nhấm tôi từng chút một. Khi những ngày nối tiếp nhau thành tuần, rồi thành tháng, tôi càng lúc càng không biết mình phải làm gì, phải đối diện với nỗi đau của mình như thế nào. Cuộc tấn công ở Israel và cuộc chiến tại Gaza còn khiến tất cả trở nên tồi tệ hơn. Bỗng nhiên, nỗi đau riêng của tôi chồng lên nỗi đau chung của thế giới, thứ đang phủ kín các mặt báo bằng những câu chuyện kinh hoàng không thể tưởng tượng nổi. Nhìn đâu tôi cũng thấy cái chết, mất mát, và khổ đau, và tôi vật lộn để tìm hiểu ý nghĩa của tất cả.
Khi mùa đông chuyển sang xuân, những rắc rối của tôi cũng nhân lên. Tháng Năm, tôi biết tin một người bạn qua đời sau một năm chống chọi với ung thư, điều anh giấu kín, chỉ chia sẻ với gia đình thân cận nhất, qua một bài đăng của một người xa lạ trên mạng xã hội. Một tuần rưỡi sau, tôi biết thêm rằng một người bạn khác, người từng là chỗ dựa tinh thần lớn nhất của tôi trong năm đầu tiên giằng xé với nỗi mất cha, đã nói dối tôi gần như mọi điều về cuộc sống của anh suốt gần một năm trời. Sự phản bội ấy cuối cùng đã khiến tình bạn của chúng tôi kết thúc. Và rồi còn cả sức khỏe của mẹ tôi: đúng một năm sau khi gia đình tôi túc trực trong phòng ICU, mong mỏi một tin tốt về cơ hội sống của cha tôi, tôi lại đứng trong phòng cấp cứu cùng mẹ, sau khi biến chứng hậu phẫu khiến bà mất máu nghiêm trọng đến mức đe dọa tính mạng.
Và tôi nghĩ bây giờ, còn cả phần hóa học nữa. Trong những tuần trước giỗ đầu của cha, tôi lên kế hoạch cho một kỳ nghỉ cuối tuần cùng bạn – chúng tôi dành thời gian thư giãn ở sân sau một căn nhà ngoại ô, thả mình trong trạng thái lâng lâng của psilocybin. Tôi đã đọc rất nhiều về lợi ích trị liệu của nấm ảo giác, rằng chúng có thể giúp con người tìm được sự bình an trước tính tất yếu của cái chết. Khi nằm dài trên tấm chăn picnic, cảm nhận các chất gây ảo giác đang tái sắp xếp những đường mạch trong não mình, tôi bắt đầu vẽ màu nước rồi rửa trôi bức tranh như một ẩn dụ cho sự mất mát, một cách sáng tạo để hóa thân cho nỗi buồn mà tôi tin rằng bộ não bình thường của mình chẳng bao giờ có thể mở ra. Tôi tưởng mình đang làm điều tốt cho bản thân. Nhưng tôi đã không lường được rằng chỉ một cuối tuần như vậy cũng có thể tác động thế nào lên một bộ não như của tôi.

Photo by Aidan Smith/Unsplash
Điều duy nhất tôi có thể nói chắc là: khi thức dậy vào một buổi sáng giữa tháng Sáu, sau ngày dài ngồi trong bệnh viện cùng người mẹ đang chảy máu và hoảng loạn, tôi không còn cảm thấy mình là chính mình nữa. Tôi kiệt sức, nhưng càng cố ngủ bao nhiêu, tôi lại càng thấy không được hồi phục bấy nhiêu. Tôi nằm liệt trên giường nhiều ngày liền, tê liệt: không làm việc được, không bước ra khỏi nhà được, thậm chí gần như không thể nghĩ nổi. Tôi chìm trong nỗi sợ mình đang dần chết đi mà không hay biết. Bát đĩa chất đống trong bồn rửa. Quần áo bẩn chồng lên trong tủ. Nhưng tất cả đều không quan trọng. Điều duy nhất tôi có thể làm là đuổi theo một giấc ngủ không bao giờ đến.
Và lần đầu tiên trong đời, tôi bắt đầu nghĩ rằng có lẽ mình không chỉ là người “khác biệt” hay “lệch chuẩn thần kinh”, mà có thể tôi thực sự đang mang một dạng khuyết tật trọn vẹn.
Hành trình đưa tôi đến thời điểm này dài và ngoằn ngoèo; có thể chia đại khái thành ba quãng đời. Có Thời Trước – 35 năm trước khi tôi được chẩn đoán chính thức mắc rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD). Khi nghĩ về phiên bản đó của chính mình, tôi gần như không còn nhận ra cô ấy nữa. Trong đầu cô luôn đầy những tiếng ồn: những cảnh báo rằng cô không bao giờ được phép trễ hẹn, rằng một bộ chén đĩa thiếu chiếc nào đó cũng là chuyện sống còn và cần phải lập tức sửa ngay. Khi căng thẳng, những hình ảnh bạo lực về việc tự gây tổn hại tràn ngập tâm trí cô: nắm đấm của chính mình tung vào mặt, một lỗ đạn xuyên qua má. Cô không thể nhặt một con dao nhà bếp lên mà không lo sợ mình sẽ vô tình (hoặc cố ý?) đâm vào mắt, chưa kể nỗi sợ rằng cô sẽ làm tổn thương người khác ngoài ý muốn, nỗi sợ đôi tay cô, không có sự cho phép của chính cô, sẽ chạm vào hoặc tấn công những người mà cô chỉ muốn bảo vệ.
Tôi bận ám ảnh đến mức, anh ấy nói, tôi đã tự vắt kiệt chính mình.
Vậy mà, ngay cả sau khi nhận chẩn đoán OCD không lâu sau sinh nhật 35 tuổi, ngay cả sau khi kết hợp liệu pháp nhận thức – hành vi và liệu pháp phơi nhiễm giúp tôi bước vào giai đoạn Quản lý OCD – quãng đời thứ hai, vào mùa xuân năm 2018, tôi vẫn không nghĩ phiên bản đầu đời ấy là một người khuyết tật, dù về mặt pháp lý OCD được xem là một dạng khuyết tật. Làm sao tôi có thể nghĩ vậy được? Cô ấy tự tin, có năng lực, một người phụ nữ thành đạt với vô số thành tựu ấn tượng. Cô tốt nghiệp cấp ba năm 16 tuổi, tốt nghiệp đại học năm 20. Cô được bổ nhiệm làm tổng biên tập của một tạp chí nổi tiếng năm 26 tuổi và đưa chính trang web ấy trở thành công ty độc lập của riêng cô trước tuổi 30. Đúng là cô ấy luôn gặp khó khăn khi giữ một công việc toàn thời gian quá lâu, và phải, cô chỉ phát huy tốt nhất khi có thể tự sắp xếp giờ giấc, một lịch trình cho phép cô ngủ đủ. Nhưng điều đó đâu phải “hỗ trợ cho người khuyết tật”, đó chỉ đơn giản là chính cô mà thôi.
Rồi tôi bước vào kỷ nguyên thứ ba, đánh dấu bằng sự suy sụp nhanh chóng mà ban đầu tôi nghĩ chỉ là trầm cảm nặng. Còn điều gì khác có thể giải thích những đêm mất ngủ, sự kiệt quệ của tôi chứ? Nhưng nhà trị liệu của tôi nói rằng có thể đó vẫn là OCD, một kẻ bắt chước rất giỏi, dù tôi chưa bao giờ trải qua nó theo cách này. Tôi bận ám ảnh đến mức, anh nói, tôi đã tự vắt kiệt mình hoàn toàn. Sau buổi trị liệu hôm ấy, tôi còn thuyết phục anh cho tôi nằm ngủ nhờ một tiếng trong căn phòng kế bên, để có đủ sức mà về được tới nhà.
Dù theo hướng nào, giải pháp dường như đã quá rõ ràng: SSRIs – phương pháp điều trị tâm thần quen thuộc cho cả trầm cảm lẫn OCD. Hồi thiếu niên, tôi từng dùng chúng một năm khi được chẩn đoán trầm cảm, và dù tôi đã quản lý OCD thành công mà không cần đến thuốc trong nhiều năm, thời điểm này có vẻ là lúc thích hợp để dùng lại. Nhà trị liệu đồng ý. Bác sĩ và nhà trị liệu đều cảnh báo tôi rằng SSRIs có thể khiến bạn tệ hơn trước khi tốt lên, rằng phải mất vài tuần mới thấy được cải thiện rõ ràng. Nhưng, dù đã được báo trước, không ai chuẩn bị được cho những gì tuần đầu tiên với escitalopram đã làm với tôi.
Ít nhất là với chính tôi.
Sáng ngày thứ hai dùng SSRI, tôi thức dậy và thấy cả thế giới trở nên nhòe mờ. Vài giờ sau, tôi bắt đầu đi vòng quanh căn hộ, chỉ vào từng món đồ rồi hét lên tên màu của chúng. Tôi tin rằng mình đã đánh mất khả năng hiểu tiếng Anh và phải học lại ngôn ngữ từ đầu. Nhưng nếu tôi cứ tiếp tục chỉ và hét như vậy, tôi biết tất cả sẽ trở lại. Não tôi cứ khăng khăng rằng chỉ cần tôi tuân thủ “hệ thống”, cứ tiếp tục hành vi cưỡng bức ấy đủ lâu, thì mọi thứ sẽ ổn. Có lúc tôi ngồi trên ghế sofa, cặm cụi vẽ những câu cổ vũ truyền cảm hứng để tự động viên mình. Tôi không hiểu nổi chúng vào khoảnh khắc ấy, nhưng tôi biết rằng sau này, khi vượt qua được, tôi sẽ hiểu – miễn là tôi cố gắng bám trụ.
Màn trình diễn “hoạt động cao” của tôi xưa nay luôn là một màn đi dây đầy chông chênh.
Niềm tin rằng tôi đang quên sạch mọi thứ về chính mình chỉ là một trong vô số ám ảnh của tuần đó. Nỗi sợ chết bắt đầu nuốt chửng tôi: tôi sợ đến mức không dám ra khỏi nhà, tin chắc rằng cái nóng mùa hè có thể giết tôi thật sự. Tôi bị ám ảnh bởi khả năng mình bị say nắng, và rồi tự quyết rằng không chỉ đã từng say nắng, mà còn bị tổn thương não vì nó. Một đêm, tôi bật dậy lúc 1 giờ 30 sáng, tin rằng thực tại chỉ là một giấc mơ sáng suốt tôi đang mơ trong lúc hấp hối trên giường bệnh; rằng tôi phải tiếp tục nói, tiếp tục hét để chống lại bóng ma tử thần đang lẩn khuất ngay sát bên mình. Một đêm khác, tôi cảm thấy não mình đang “tắt dần”, và quyết rằng không chỉ tôi đang chết, mà thú cưng thân yêu của tôi cũng nhận ra: “Con mèo của tôi nghĩ tôi là ma,” tôi cuống cuồng nhắn cho nhà trị liệu, trước khi gọi mẹ và nằng nặc đòi bà đưa tôi đến bệnh viện để ai đó có thể tìm ra chuyện gì đang xảy ra với tôi. (Không ai tìm ra.)
Nói thẳng ra, tôi không chỉ trải qua một cơn OCD “tệ”, mà là một cơn loạn thần toàn diện, thỉnh thoảng điểm xuyết vài tia hưng cảm như một trò trêu ngươi, những tia hưng cảm thôi thúc tôi viết những email cảm ơn đầy xúc động gửi đến các nhân viên y tế, khiến tôi tin rằng mình đang rơi vào “trạng thái xuất thần”, nơi một nhà tiên tri nào đó nói thông qua tôi. Sau này tôi mới biết, loại năng lượng phấn khích tạm thời này không hiếm khi dùng SSRI, nhưng trong trạng thái mong manh của tôi, nó hóa thành một thứ thực sự đáng sợ.
May mắn thay, chỉ hơn một tuần sau khi dùng escitalopram, mọi thứ bỗng trở lại rõ ràng. Khi não tôi bắt đầu ổn định trong những tuần và tháng tiếp theo, phiên bản hưng cảm ấy bỗng giống như một người xa lạ, xa xôi hệt như phiên bản trước chẩn đoán OCD của tôi.
Nhưng dù vậy, tôi đã mãi mãi thay đổi. Từ mùa hè ấy, từ khi bóng tối từng bao phủ toàn bộ tâm trí tôi, tôi trở nên quá ý thức về thế lực tàn nhẫn ẩn sâu trong tâm trí mình. Thứ tôi sống cùng không chỉ là một nét lập dị hay một sự phiền phức, mà là một căn bệnh mãn tính có thể đe dọa tính mạng, hoặc ít nhất, đe dọa chất lượng cuộc sống, khiến tôi buộc phải xây dựng toàn bộ đời mình xoay quanh nó, để nó không thể lật nhào tôi thêm lần nào nữa.
Khi đã từng chứng kiến mặt tối nhất của bệnh tinh thần mình, giờ đây thật dễ để tôi hiểu bản thân là người khuyết tật. Giờ thì tôi thấy rõ: khả năng “vận hành ở mức cao” của tôi xưa nay chỉ là một màn đi dây mỏng manh. Bao nhiêu xấu hổ từng có vì sợ rằng mình đang “giả vờ” khuyết tật hay đòi hỏi ưu ái “không xứng đáng” đều đã tan biến. Những “hỗ trợ cho người khuyết tật” của tôi thực chất chỉ là cách gọi sang trọng cho thời gian linh hoạt và quỹ nghỉ tôi cần để ăn, ngủ, vận động, và làm đủ mọi công việc duy trì giúp bộ não tôi không rơi vào hố sâu, cùng với những bảo vệ pháp lý chống phân biệt đối xử, và sự hỗ trợ phòng khi tôi một lần nữa đánh mất quyền kiểm soát. Đó là tấm lưới an toàn tôi cần để tự tin bước qua từng ngày.
Và còn một bài học nữa mà tôi rút ra từ tất cả chuyện này: không bao giờ dùng chất gây ảo giác nữa, dù chỉ một lần.
Biên tập bởi Alizeh Kohari
Tác giả: Lux Alptraum là một cây bút có tác phẩm xuất hiện trên The New York Times, New York Magazine, Cosmopolitan và nhiều ấn phẩm khác. Cô từng dẫn dắt podcast, phát triển các chương trình truyền hình, viết sách và đồng sáng lập một tổ chức phi lợi nhuận. Hiện cô sống tại New York.
Nguồn: I’d lived through two eras: pre and post OCD diagnosis | Tạp chí Psyche.co
.png)
