Sức mạnh chữa lành của Chánh Niệm 

suc-manh-chua-lanh-cua-chanh-niem 

Barry Boyce đã tổ chức một hội thảo quy tụ nhiều chuyên gia hàng đầu — gồm Jon Kabat-Zinn, Susan Bauer-Wu và Daniel Siegel — để thảo luận về những lợi ích đối với sức khỏe của chánh niệm — nó tác động tới những gì, nó tác động như thế nào, tại sao nó lại

Tác giả: Barry Boyce

Barry Boyce đã tổ chức một hội thảo quy tụ nhiều chuyên gia hàng đầu — gồm Jon Kabat-Zinn, Susan Bauer-Wu và Daniel Siegel — để thảo luận về những lợi ích đối với sức khỏe của chánh niệm — nó tác động tới những gì, nó tác động như thế nào, tại sao nó lại hiệu quả.

Khi chúng ta nghĩ đến chánh niệm hoặc thiền tập, những từ này gợi lên hình ảnh của một khoảng thời gian yên tĩnh, riêng tư của tĩnh lặng và bình an. Khi nghĩ đến bệnh viện và phòng mạch, chúng ta nghĩ đến sự lo lắng, đau đớn và hỗn loạn mà chúng ta có thể gặp ở đó, và cho rằng chánh niệm không có hiệu quả trong việc chăm sóc sức khỏe.

Một số chuyên gia chăm sóc sức khỏe hàng đầu muốn thay đổi ý nghĩ đó. Bởi vì họ có bằng chứng cho thấy chánh niệm có khả năng chữa bệnh sâu sắc, họ đang đưa nó vào trong hệ thống chăm sóc sức khỏe của Mỹ, từ phòng ngừa, chẩn đoán và điều trị, thông qua chữa bệnh, chăm sóc giảm nhẹ và thậm chí là quản lý sức khỏe và đào tạo y tế.

Với sự giúp đỡ của Susan G. Komen for the Cure, mạng lưới cơ sở lớn nhất thế giới gồm các nhà hoạt động và những người vượt qua ung thư vú và nhà tài trợ cho Bài giảng Lynn về y học tích hợp, chúng tôi đã tập hợp ba chuyên gia hàng đầu thế giới về khả năng chữa bệnh của chánh niệm và những lợi ích của y học tích hợp để thảo luận về hiện tại và tương lai của y học tâm thể.

 —Barry Boyce, Tổng biên tập

Tiến sĩ Jon Kabat-Zinn, là người sáng lập kiêm giám đốc điều hành của Trung tâm Chánh niệm trong Y học, Chăm sóc Sức khỏe và Xã hội tại Trường Đại học Y Massachusetts, đồng thời là người tạo ra chương trình Giảm Căng Thẳng Dựa Trên Chánh Niệm (MBSR: Mindfulness-Based Stress Reduction) nổi tiếng. Ông là tác giả của một số đầu sách bán chạy nhất bao gồm Full Catastrophe Living; Wherever You Go, There You Are (Nơi ấy cũng là Bây giờ và Ở đây); và gần đây nhất là, Coming to Our Senses; Healing Ourselves and the World through Mindfulness (Chữa lành bản thân và thế giới thông qua chánh niệm).

Tiến sĩ Susan Bauer-Wu là phó giáo sư về điều dưỡng và học giả xuất sắc của Liên minh ung thư Georgia tại Đại học Emory ở Atlanta. Cô là một nhà nghiên cứu, bác sĩ lâm sàng và nhà giáo dục tập trung vào ứng dụng lâm sàng của thiền và tác động của nó đối với sức khỏe và chất lượng cuộc sống ở những người mắc bệnh hiểm nghèo, đặc biệt là ung thư.

Bác sĩ y khoa Daniel Siegel là một giáo sư lâm sàng về tâm thần học tại Trường Y khoa UCLA. Ông là giám đốc của Viện Mindsight và đồng giám đốc của Trung tâm nghiên cứu nhận thức tư duy UCLA. Ông là tác giả của cuốn sách The Mindful Brain: Reflection and Attunement in the Traning of Well, and Mindsight: The New Science of Personal Transformation.

Một số lợi ích của chánh niệm — cả việc thực hành và trạng thái của tâm — đối với sức khoẻ và sự chữa lành của chúng ta là gì?

Jon Kabat-Zinn: Tương quan với những gì bạn đang trải qua, nắm giữ nó, và ở một khía cạnh nào đó, kết thân với nó — đó là nơi có sức mạnh chữa lành hoặc chuyển hóa của thực hành chánh niệm. Khi chúng ta thực sự có thể hiện diện ngay trong hiện tại, không cố gắng tìm kiếm một trạng thái tâm khác, thì chúng ta sẽ khám phá ra những nguồn nội lực sâu xa mà chúng ta có thể tận dụng. Tiếp cận với mọi thứ như chúng vốn là, chính là định nghĩa của tôi về sự chữa lành.

Đánh giá cao loại nhận thức này có thể có những ảnh hưởng gần như ngay lập tức đến sức khỏe và hạnh phúc. Nghe có vẻ thật điên rồ, bạn có thể làm quen với nỗi đau hoặc nỗi sợ hãi của mình — thay vì cảm thấy rằng bạn không thể đi đến đâu cho đến khi thứ khiến bạn khó chịu bị loại bỏ hoặc bị phá hủy hoặc biến mất. Đó là một nhận thức thực sự sâu sắc mà người thực hành (hành giả) nhận ra.

Thực sự rất có tính chữa lành khi nhận ra rằng, nếu chỉ một trong một khoảnh khắc ở đây và một khoảnh khắc ở kia, bạn có thể ở trong một mối quan hệ khôn ngoan hơn với trải nghiệm nội tâm của mình hơn là chỉ bị thúc đẩy bởi việc ưa thích nó hoặc ghét bỏ nó.

Chúng tôi muốn nói với những bệnh nhân đến với phương pháp Giảm Căng Thẳng Dựa Trên Chánh Niệm rằng có sự phù hợp với họ nhiều hơn là không phù hợp, bất kể chẩn đoán của họ là gì. Chúng tôi sẽ tăng cường những gì phù hợp với họ và xem điều gì sẽ xảy ra. Đó là một cuộc phiêu lưu tuyệt vời và thật hài lòng khi có thể nhìn thấy mọi người bừng tỉnh khi họ trải nghiệm kiến thức rằng hiện diện ngay tại nơi mình đang có mặt là hoàn toàn ổn.

Daniel Siegel: Để giúp mọi người vơi đi nỗi đau, hoặc hiểu về sự di căn của họ, hoặc về tỷ lệ tử vong của họ, việc khám phá một khoảng không rộng rãi trong tâm hồn nơi họ nhận ra mình là một phần của dòng chảy vạn vật —người ta đau ốm, người ta chết đi, và họ là một phần của bức tranh lớn đó là một điều vô cùng giá trị đối với họ.

Trong sự rộng rãi đó, có một sự sáng suốt tuyệt vời không giống như sự thư thái. Nó không chỉ việc nghỉ ngơi cho thoải mái. Bạn vượt ra khỏi cuộc đối thoại nội tâm của bạn về “Tôi muốn trở nên tốt hơn ngay bây giờ.” Bạn có thể đang ở giữa những đớn đau cùng cực nhưng vẫn tìm thấy sự bình tĩnh và sáng suốt vô cùng.

Susan Bauer-Wu: Điều rất quan trọng đối với những người bị ung thư hoặc bất kỳ căn bệnh nghiêm trọng nào khác là phải trở nên hòa hợp với những gì họ đang trải qua, chứ không phải là bị kẹt lại với nó, điều này thường có thể xảy ra.

Một trong những lợi ích quan trọng nhất của chánh niệm là chú ý đến những gì đang xảy ra trong cơ thể, tâm trí và môi trường xung quanh bạn — hiện diện cùng những gì đang xảy ra với bạn, và xung quanh bạn vào một thời điểm cụ thể. Chánh niệm trở thành nền tảng giúp bệnh nhân đưa ra quyết định hợp lý và định hướng tất cả những gì họ phải trải qua.

Một lợi ích khác của chánh niệm là ít phản ứng cảm xúc hơn và tâm trí ổn định hơn. Không phản ứng thái quá về mặt cảm xúc mang lại sự minh mẫn hơn cho tinh thần, điều này có lợi cho sức khỏe thể chất và tâm thần. Tâm trí ổn định giúp bạn có thể chống chọi tốt hơn với trải nghiệm bệnh tật và tất cả những gì liên quan đến nó. Đó là một kết quả rất quan trọng và tích cực.

Jon Kabat-Zinn: Trên thực tế, chúng ta chưa có ngôn ngữ để mô tả chánh niệm là gì. Đó là một trong những phần thú vị của tất cả các nghiên cứu về chánh niệm đang diễn ra.

Với rất nhiều quan điểm khác nhau được triển khai về nó, bao gồm khoa học thần kinh và y học lâm sàng, chúng tôi sẽ có thể mô tả nó phong phú hơn. Tôi thấy phù hợp khi gọi nó là một cách luyện tập, nhưng chúng ta phải phân biệt nó với nhiều loại luyện tập khác. Ví dụ, nó không hoàn toàn giống như luyện tập piano. Theo cách đó, nó liên quan đến kỷ luật, nhưng bạn không cố gắng trở thành một người điêu luyện.

Tôi thích gọi chánh niệm là một cách sống. Điều đó mang lại cho mọi người phạm vi rộng rãi hơn trong những gì họ đang thực sự trải nghiệm, bởi vì nó không phải là cố gắng ở trong một trạng thái đặc biệt, và nếu bạn không ở trong trạng thái đó, thì bạn đang làm sai. Thay vào đó, bạn có thể mang lại sự nhận biết đối với bất kỳ trạng thái nào bạn đang ở trong. Không có gì sai khi bị cuốn vào những khoảnh khắc khó khăn, căng thẳng, kích động hoặc bối rối.

Đó là lý do tại sao việc mô tả chánh niệm như một trạng thái tâm trí có thể có nhiều vấn đề. Nếu chúng ta đang nói về việc chuyển đổi chăm sóc sức khỏe hoặc chuyển hóa mối quan hệ của bất kỳ cá nhân nào với cơ thể của chính họ — đặc biệt nếu họ đang đau đớn hoặc bị ung thư hoặc một căn bệnh đe dọa tính mạng khác — thì ý tưởng rằng chánh niệm là một trạng thái tâm trí cụ thể có thể gây hiểu lầm.

Khi chúng ta gặp những tình trạng này, tâm trí có thể rất kích động và rối loạn. Sẽ có những phản ứng cảm xúc, như Susan đã đề cập. Do đó, ý tưởng rằng cần đạt được một trạng thái tâm trí đặc biệt, và nếu bạn cố gắng thật nhiều, thực sự đủ tốt, bạn sẽ đạt tới nó và mọi thứ sẽ tuyệt vời cho phần còn lại của cuộc đời bạn, sẽ là một sự hiểu nhầm về bản chất thực sự của chánh niệm.

Daniel Siegel: Trong khoa học thần kinh, chúng ta nói về một tập hợp nhất thời các mô hình kích hoạt não mà chúng ta gọi là trạng thái não bộ. Nếu bạn muốn chuyển từ bộ não sang tâm trí, một số người sẽ gọi nó là một trạng thái của tâm trí. Bạn có thể lập luận rằng có một thứ mà chúng ta có thể gọi là “nhận thức,” và trong thuật ngữ chung đó, có nhiều cách nhận thức khác nhau.

Ví dụ, nếu tôi thực sự tức giận và tôi có một khẩu súng trong tay, tôi biết rằng khẩu súng đang ở trong tay tôi. Nếu tôi bắn ai đó, bạn có thể nói rằng tôi hoàn toàn biết rằng tôi đã thực hiện hành vi này. Nhưng khi chúng ta thảo luận về cái mà chúng ta có thể gọi là “nhận thức có chánh niệm,” thì một điều gì đó còn đang diễn ra.

Nếu tôi nhận thức một cách chánh niệm, tôi sẽ thấm nhuần đủ loại phân biệt về việc liệu hành động tôi sắp làm có phải là hành động tốt cho đang ở người trước mặt tôi và cho bản thân tôi hay không. Tôi sẽ có một ý thức rộng hơn so với việc chỉ nhận thức về khẩu súng trong tay. Tôi sẽ có một bức tranh lớn hơn về khoảnh khắc đang diễn ra, không chỉ là cảm giác. Vì vậy, tôi có thể đặt súng xuống.

Như thiền sư Joan Halifax đã chỉ ra trong một khóa tu gần đây mà tôi tham gia, có sự khác biệt giữa nhận thức và nhận thức bằng trí tuệ. Khi bạn nhìn vào khoa học thần kinh, nhận thức bằng trí tuệ có thể liên quan đến toàn bộ những gì chúng ta gọi là những cấu trúc giữa của vùng trước trán.

Một quan điểm có thể nảy sinh là: Khi chúng ta nói về trọng tâm của sự chú ý, chúng ta thường đề cập đến các khu vực thuộc vùng lưng bên hoặc mặt bên. Trí tuệ, lòng trắc ẩn, sự thấu cảm, sự thấu hiểu chính mình, nhận thức được cơ thể của chính mình, khả năng linh hoạt, tạm dừng trước khi bạn hành động — tất cả những yếu tố đó của trải nghiệm tinh thần của chúng ta dường như tương quan với hoạt động trước trán ở giữa, không chỉ hoạt động trước trán mặt bên.

Người sử dụng khu vực lưng bên của mình nhận biết được súng và nhắm mục tiêu chuẩn, vì anh ta có sự chú ý tốt. Nhưng với người nhận thức có chánh niệm, chúng ta có thể đề xuất, khai thác tất cả các mối tương quan của trí tuệ và lòng từ bi, và trong khoảnh khắc đó, anh ta hoặc không cầm súng lên, hoặc nghĩ đến các lựa chọn khác, hoặc dừng lại trước khi sự thôi thúc biến thành hành động.

Thực hành chánh niệm có thể khám phá ra những suy nghĩ đen tối và ác ý, những gì mà mọi người có thể thấy khá sốc. Điều đó có lợi trong cuộc khủng hoảng sức khỏe hay không?

Daniel Siegel: Phần lớn những gì xảy ra trong tâm trí không nằm trong ý thức, tuy nhiên những quá trình không có ý thức này có tác động đến sức khỏe của chúng ta. Đưa sự nhận biết đến với những suy nghĩ tiêu cực này, chẳng hạn như sợ hãi, thù địch, phản bội hoặc buồn bã là một phần của sức khỏe cơ bản, bởi vì những suy nghĩ đó — những gì trong lĩnh vực của tôi được gọi là các quá trình thần kinh không tích hợp — về cơ bản giống như các lỗ đen.

Chúng có lực hấp dẫn lớn đến mức chúng hút cạn năng lượng của sự sống. Chúng ảnh hưởng đến sức khỏe của tâm trí, sự linh hoạt và uyển chuyển, cảm giác vui vẻ và biết ơn. Chúng ảnh hưởng đến các mối quan hệ, dẫn đến những cách cư xử cứng nhắc hoặc những cách tương tác dễ gây xung đột. Chúng cũng ảnh hưởng đến bản thân cơ thể, bao gồm hệ thần kinh và hệ miễn dịch.

Vì vậy, một quá trình khám phá như chánh niệm giúp nhận thức được những suy nghĩ tiêu cực đáng sợ đó có thể rất có lợi. Đôi khi bạn phải đặt tên cho nó để chế ngự nó. Một số nghiên cứu cho thấy rằng khi bạn đưa điều gì đó vào nhận thức và mô tả nó, bạn có thể chuyển năng lượng tiêu cực trước đây — một suy nghĩ hoặc nhận thức hút kiệt sức lực của bạn — sang một dạng mới.

Với chánh niệm, những gì không có sẵn để nhận thức sẽ trở nên sẵn có. Chúng ta cần hỗ trợ mọi người trong cuộc hành trình đó, bởi vì nhận thức được nhiều hơn những gì đang diễn ra trong tâm trí có thể là một sự phát triển rất hữu ích trong cuộc sống của một người.

Jon Kabat-Zinn: Chúng ta thường liên tưởng đến những suy nghĩ của mình, cho dù chúng có tiêu cực dữ dội hay không, như một lời tuyên bố đáng tin cậy về sự thật. Khi bạn tức giận, mọi thứ có thể có vẻ đe dọa hoặc khó chịu hoặc không thỏa đáng.

Bạn tin những gì suy nghĩ của bạn đang nói với bạn. Chánh niệm về những suy nghĩ cho phép bạn nhận thức được một suy nghĩ hoặc cảm xúc mãnh liệt như một cơn bão trong tâm trí hoặc một sự việc trong nhận thức. Một khi bạn xem nó như một sự việc hoặc một cơn bão, nó không còn có quyền lực như trước đối với bạn nữa.

Trầm cảm, điều mà được xem là một mối quan tâm lớn đối với các bệnh nhân, phần lớn là một căn bệnh của việc suy nghĩ không được kiểm soát. Có rất nhiều bằng chứng cho thấy chánh niệm thực sự có thể giúp bạn phát triển một mối quan hệ hoàn toàn khác với luồng suy nghĩ tiêu cực được gọi là suy nghĩ trầm cảm. Chánh niệm có ý nghĩa sâu sắc về mặt sức khỏe đối với bệnh trầm cảm và cả chứng rối loạn lo âu.

Susan Bauer-Wu: Điều quan trọng cần nhấn mạnh là nhận ra những suy nghĩ tiêu cực thông qua chánh niệm không chỉ đơn thuần là một quá trình thụ động. Ghi nhận những suy nghĩ này cho phép bạn hành động. Bạn có được cái nhìn sâu sắc và sau đó bạn có thể làm điều gì đó với nó.

Jon Kabat-Zinn: Đúng như vậy. Thực hành thiền thực sự là cuộc sống của bạn và cách bạn tiến hành nó trong từng khoảnh khắc. Chánh niệm giúp bạn thực hiện hành động khôn ngoan và sáng suốt, điều này cực kỳ quan trọng nếu bạn muốn tham gia vào quá trình chữa bệnh của chính mình.

Chánh niệm có thể đóng vai trò gì trong việc phòng ngừa?

Susan Bauer-Wu: Tôi thấy ba lĩnh vực bao trùm mà chánh niệm có thể hỗ trợ trong việc phòng ngừa đó là: giảm căng thẳng, chẩn đoán sớm và lựa chọn lối sống lành mạnh.

Chúng tôi biết có mối liên hệ rõ ràng giữa căng thẳng và bệnh tật. Bệnh cấp tính, chẳng hạn như nhiễm trùng đường hô hấp trên hoặc khó chịu đường tiêu hóa, thường trở nên trầm trọng hơn hoặc bị khởi phát do căng thẳng. Chúng ta biết rằng chánh niệm và các biện pháp can thiệp liên quan làm giảm phản ứng căng thẳng và giúp người ta ít mắc các bệnh nhiễm trùng và các bệnh cấp tính này hơn. Có nhiều nghiên cứu ủng hộ tác động này, bao gồm cả một nghiên cứu mà Jon đã tham gia cho thấy mức độ kháng thể tăng lên sau khi thực hành chánh niệm.

Về các bệnh mạn tính — từ ung thư đến tim mạch, tiểu đường và bệnh tự miễn dịch — tất cả chúng đều có thành phần gây viêm, và chứng viêm và căng thẳng đều có liên quan mật thiết. Chúng tôi đang chứng minh thông qua các nghiên cứu cho thấy thực hành chánh niệm có tác động đến các quá trình viêm nhiễm trong cơ thể. Có thể hình dung, nếu bạn bắt đầu những phương pháp này sớm hơn, bạn có thể ngăn ngừa một số bệnh mạn tính nghiêm trọng liên quan đến viêm.

Về chẩn đoán sớm, nhiều người chưa thực sự hòa hợp với cơ thể mình nên không để ý khi có điều gì bất thường. Cơ thể của họ có thể đang cảnh báo họ về điều gì đó cần được kiểm tra, nhưng họ không thực sự chú ý đến cách sống và những gì đang xảy ra trong cơ thể của họ. Với chánh niệm, họ có thể nhận ra điều bất thường sớm hơn, khi nó có thể được chẩn đoán ở giai đoạn sớm hơn.

Về lựa chọn lối sống lành mạnh, chúng ta có thể liên tưởng đến sự tương tự với việc bỏ súng trong ví dụ của Dan. Khẩu súng này có thể là một điếu thuốc, một mẩu bánh khác, hoặc hành động cố gắng làm việc đến mức mệt mỏi, kiệt sức. Chánh niệm có thể giúp bạn nhận ra những gì cơ thể cần và giúp bạn có những lựa chọn lối sống tốt. Vì vậy, trong tất cả các khía cạnh, chánh niệm thực sự có thể giúp ngăn ngừa bệnh tật.

Daniel Siegel: Ngoài những gì hữu ích đối với cơ thể, cách sống chánh niệm hỗ trợ một tâm trí khỏe mạnh và các mối quan hệ có tính thấu cảm hơn. Ba khía cạnh đó — cơ thể, tâm trí và mối quan hệ — là ba khía cạnh chính của trải nghiệm con người mà một dịch vụ chăm sóc sức khoẻ tổng hợp cần phải quan tâm. Lòng trắc ẩn dành cho chính mình và lòng trắc ẩn đối với những người khác được tăng cường nhờ cách sống có chánh niệm. Những điều này rất hữu ích đối với những người đang điều trị, đó là một quá trình liên quan đến những mối quan hệ với các thành viên gia đình, bạn bè và đồng nghiệp, cũng như những người chăm sóc và quản lý sức khỏe.

Chánh niệm có thể giúp ích như thế nào trong các giai đoạn chẩn đoán và điều trị bệnh tật?

Susan Bauer-Wu: Trong giai đoạn đầu, sau khi một người nào đó được chẩn đoán mắc bệnh hiểm nghèo, sẽ có một giai đoạn không chắc chắn rất dữ dội. Tất nhiên, có sự không chắc chắn trong toàn bộ quỹ đạo từ chẩn đoán đến điều trị và chữa khỏi hoặc chăm sóc giảm nhẹ, nhưng ngay từ đầu đã có rất nhiều câu hỏi trong tâm trí mọi người. Việc tâm trí chuyển sang tình huống xấu nhất và xoay chuyển toàn bộ câu chuyện về những gì sắp xảy ra là điều rất bình thường. Thực hành chánh niệm giúp con người hiểu được điều gì là đúng với họ ngay lúc này. Nó giúp họ thoát ra khỏi câu chuyện, tập trung hơn và ít bị choáng ngợp hơn. Nó cũng làm tăng khả năng giao tiếp hiệu quả của họ với người chăm sóc và giúp người chăm sóc giao tiếp tốt hơn với họ.

Trong giai đoạn điều trị ung thư bằng xạ trị, hóa trị hoặc phẫu thuật, có rất nhiều triệu chứng cơ thể khác nhau, từ đau đớn đến buồn nôn, ngứa ngáy đến tiêu chảy. Thực hành nhận thức thân-tâm giúp mọi người vượt qua một loạt những triệu chứng vốn liên tục thay đổi này.

Jon Kabat-Zinn: Một trong những lý do khiến hệ thống chăm sóc sức khỏe của chúng ta bị phá vỡ là chúng ta cần sự tham gia nhiều hơn từ những người đang đau khổ. Chánh niệm có thể giúp bạn đóng một vai trò tích cực hơn đối với sức khỏe và việc chữa bệnh của chính mình.

Bạn không phải là một chiếc máy được mang đến cửa hàng để sửa chữa hoặc điều chỉnh. Tốt nhất là bạn có thể bắt đầu tham gia vào việc chăm sóc sức khỏe của chính mình càng sớm càng tốt. Bắt đầu từ thời thơ ấu bằng cách học thực hành chánh niệm trong trường học sẽ đưa mọi người vào con đường dẫn đến một mối quan hệ lành mạnh hơn nhiều đối với cơ thể và cảm xúc của họ. Điều đó lành mạnh hơn nhiều so với chế độ mặc định, nơi bạn chỉ hy vọng điều tốt nhất và coi cơ thể ít nhiều như một chiếc ô tô mà bạn lái vào bệnh viện để sửa chữa khi nó bị hỏng.

Sự tham gia của bạn vào quá trình này là quan trọng vì nhiều lý do. Ngoài nhận thức về lối sống và tình trạng cơ thể và tâm trí của bạn, như Susan và Dan đã nói, một khi bạn đã được chẩn đoán, điều quan trọng là bạn có thể thương lượng với bác sĩ về các lựa chọn điều trị. Có rất nhiều con đường tiềm năng mà bạn có thể bước trên, và bạn cần phải có nhiều sự can thiệp nhất có thể trong tình huống đó. Một lý do đó là, nó mang lại sự yên tâm nhất định khi bạn là một người tham gia tích cực chứ không phải là một người thụ động điều trị.

Điều này nói lên một cách hành nghề hoàn toàn khác là tăng cường những nội lực của người bệnh trong quá trình điều trị. Đó là những gì MBSR được thiết kế để sử dụng. Hiện đã có hơn 31 năm minh chứng cho thấy chương trình có thể tạo ra sự khác biệt đáng kể trong mối quan hệ của mọi người với bệnh tật của họ và cách nó phát triển. Nếu bạn tiến hành xạ trị, hóa trị hoặc phẫu thuật với sự nhận thức và chánh niệm tốt hơn, điều đó sẽ tạo ra sự khác biệt rất lớn. Ngoài ra, khi bạn chấp nhận nhiều hơn những gì đang diễn ra trong thời điểm hiện tại, bạn sẽ giảm bớt sự kháng cự và có thể là người tham gia đầy đủ chứ không chỉ là bệnh nhân xạ trị và hóa trị. Đôi khi bạn thậm chí cần ít thuốc mê hơn nếu bạn đang chánh niệm.

Daniel Siegel: Bạn rất dễ phủ nhận về sự thay đổi của cơ thể, cho dù đó là sự thay đổi trong chức năng đường ruột, khối u ở vú hay nhịp thở không đều, tất cả đều có thể cho thấy sự khởi phát của bệnh. Nhiều người tránh đến bác sĩ ngay cả khi kiểm tra sức khỏe thường xuyên vì sợ những gì họ có thể phát hiện ra. Khi chúng ta không còn suy nghĩ mà chỉ miệt mài làm việc theo lối mòn, giống như việc vận hành theo chế độ lái tự động, chúng ta có xu hướng tránh những điều có thể làm phiền lòng.

Một trong những yếu tố của nghiên cứu về Giảm Căng Thẳng Dựa Trên Chánh Niệm mà tôi thấy ấn tượng nhất là công trình mà Richie Davidson và Jon đã thực hiện cho thấy rằng ngay cả sau một khóa học MBSR kéo dài tám tuần, một “sự dịch chuyển sang trái” đã được ghi nhận, trong đó hoạt động phần trán bên trái của não được tăng cường. Sự thay đổi điện trong chức năng não này được cho là phản ánh việc nuôi dưỡng “trạng thái tiếp cận,” trong đó chúng ta hướng tới, chứ không phải là tránh xa, một hoàn cảnh khó khăn bên ngoài hoặc chức năng tâm thần bên trong như một suy nghĩ, cảm giác hoặc ký ức. Trạng thái tiếp cận như vậy có thể được coi là cơ sở thần kinh cho khả năng phục hồi. Với cách sống có chánh niệm, bạn đã phát triển kỹ năng của mình để luôn hiện diện với những gì bạn có thể cố gắng thoát khỏi. Từ quan điểm đó, chẩn đoán sẽ được nâng cao, bởi vì sự phủ nhận sẽ được khắc phục. Nếu bạn nghĩ về nó, đây là tâm trí đang làm những gì có ích nhất cho tâm trí và thể chất. Việc phớt lờ là thích nghi không tốt.

Cũng được bao hàm trong cách sống có chánh niệm là cơ chế cảm giác mà chúng ta gọi là “nhận thức nội thân” - nhận thức về trạng thái cơ thể bên trong của bạn. Khả năng nhận thức nội thân tăng lên tương quan với hoạt động của một phần não được gọi là thùy đảo bên phải, nằm ở vùng giữa trước trán mà chúng ta đã thảo luận trước đó. Khu vực này đã được chứng minh là được kích hoạt bởi các thực hành nhận thức có chánh niệm. Ngoài ra, hai nghiên cứu của Harvard và UCLA cho thấy những thay đổi về cấu trúc ở thùy đảo trước bên phải cho thấy rằng việc thường xuyên thực hành chánh niệm dẫn đến những thay đổi về kết nối cấu trúc trong hệ thần kinh, điều này sẽ cho thấy sự gia tăng khả năng cảm nhận bên trong.

Jon Kabat-Zinn: Chúng tôi đã thực hiện một nghiên cứu trên những người bị bệnh vẩy nến, một bệnh ngoài da là sự tăng sinh không kiểm soát của tế bào ở lớp biểu bì. Chúng tôi đã chứng minh rằng làn da của những người ngồi thiền trong khi họ đang được điều trị bằng tia cực tím sẽ lành nhanh hơn 4 lần so với những chỉ sử dụng tia cực tím trong điều trị. Đó là một ví dụ về một nghiên cứu cho thấy sự nhận thức ở thời điểm hiện tại có thể tạo ra sự khác biệt sâu sắc như thế nào trong quá trình chữa bệnh. Vì bệnh vẩy nến và ung thư biểu mô tế bào đáy có chung các gen giống nhau mặc dù không quá liên quan, nên có thể tâm trí có thể điều chỉnh theo cách này hay cách khác, thậm chí cả quá trình gây ung thư cũng đang diễn ra. Chúng tôi không biết, nhưng chắc chắn sẽ có giá trị khi nghiên cứu về điều đó.

Chúng ta đã thảo luận về chánh niệm và sức khỏe từ quan điểm của bệnh nhân. Những thực hành chánh niệm và nhận thức có thể đóng vai trò gì đối với người chăm sóc?

Daniel Siegel: Có những dấu hiệu cho thấy thực hành chánh niệm có thể rất có lợi cho bác sĩ, y tá và những người chăm sóc khác. Một nghiên cứu của Krasner và Epstein cho thấy rằng việc dạy các bác sĩ chăm sóc sức khỏe ban đầu thực hành chánh niệm giúp giảm sự kiệt sức và duy trì sự thấu cảm. Nghiên cứu của Shauna Shapiro trên các sinh viên y khoa cho thấy rằng việc dạy họ thực hành chánh niệm làm tăng khả năng thấu cảm của họ và một bác sĩ lâm sàng thấu cảm có thể có tác động mạnh mẽ đến hạnh phúc của bệnh nhân. Một nghiên cứu được thực hiện tại Trường Y khoa và Y tế Công cộng thuộc Đại học Wisconsin – Madison cho thấy rằng các bác sĩ chăm sóc sức khỏe thấu cảm dường như có thể rút ngắn thời gian bị cảm lạnh thông thường ở bệnh nhân và tăng cường hệ thống miễn dịch của họ.

Khi tôi được đào tạo như một bác sĩ, chúng tôi không được dạy về những thứ như lắng nghe hay thấu cảm. Ngay cả khi bạn đã có những sinh viên y khoa thấu cảm ngay từ đầu, vào thời điểm trải nghiệm xã hội hóa của trường y được thực hiện, phần lớn nó đã bị loại bỏ khỏi họ. Chánh niệm có thể đóng vai trò như một liều thuốc giải độc cho những áp lực đáng kinh ngạc mà các bác sĩ lâm sàng trẻ phải chịu đựng. Họ sẽ được hưởng lợi từ việc học các kỹ năng giúp duy trì khả năng phục hồi bên trong, để họ có thể duy trì một tấm lòng cởi mở, từ bi, dễ đón nhận đối với bệnh nhân của họ trong khi đồng thời chăm sóc chính bản thân họ.

Nó giống như hướng dẫn trên máy bay về việc cần đeo mặt nạ dưỡng khí của chính bạn trước và sau đó giúp những người khác đeo mặt nạ của họ. Chúng tôi không đưa mặt nạ dưỡng khí cho những bác sĩ lâm sàng này. Có thể hiểu được rằng họ bị choáng ngợp và chán nản, và thường cảm thấy tuyệt vọng. Họ không biết phải làm gì với thế giới cảm xúc của chính mình nên cứ rút lui. Ai cũng đau khổ vì điều đó.

Susan Bauer-Wu: Tôi chân thành nhất trí. Và tôi muốn nói thêm rằng sức khỏe của chính họ bị ảnh hưởng bởi sự căng thẳng. Khi các y tá bị kiệt sức, họ thường bị ốm và không thể đến làm việc. Điều đó trở thành gánh nặng cho hệ thống chăm sóc sức khỏe. Những người chăm sóc chuyên nghiệp cũng ít chú ý hơn khi họ bị ốm và kiệt sức. Các sai phạm xảy ra và giảm độ an toàn tổng thể. Bệnh nhân gặp rủi ro và thiệt hại gia tăng.

Tôi tin rằng các bác sĩ và y tá thực hành chánh niệm là những nhà chẩn đoán tốt hơn. Họ nhạy cảm hơn với những điều tế nhị của toàn bộ con người, không chỉ là các triệu chứng thể chất mà bệnh nhân xuất hiện tại thời điểm hẹn khám. Một số đồng nghiệp của tôi và tôi đã làm việc với ý tưởng “sự im lặng từ bi.” Thực hành chánh niệm và từ bi có thể giúp bác sĩ lâm sàng hiện diện trọn vẹn và rộng rãi trong thời gian hạn hẹp mà họ phải gặp bệnh nhân. Các bác sĩ và y tá thường không được dạy làm thế nào để có thể cảm thấy ổn trong im lặng. Khi một bác sĩ lâm sàng học cách hiện diện với bất cứ điều gì đang phát sinh, thay vì cố gắng sửa chữa nó, đẩy nó đi, chạy ra khỏi phòng hoặc suy ngẫm về điều cấp bách tiếp theo mà họ phải làm, thì đó chính là chữa bệnh sâu sắc cho bệnh nhân. Chúng tôi cũng biết rằng các bác sĩ lâm sàng cũng thấy những trải nghiệm đó là những điều bổ ích nhất.

Jon Kabat-Zinn: Cho đến mãi gần đây, các bác sĩ vẫn chưa được đào tạo về cách tương tác với một người khác đang đau khổ, người đang hoảng loạn và không hiểu rõ chuyện gì đang xảy ra. Những lợi ích tiềm năng cho cả bệnh nhân và bác sĩ của việc nuôi dưỡng sự hiện diện và sự im lặng thấu cảm đó — và có lẽ thể hiện sự im lặng như một cách tồn tại — là quan trọng đến khó tin.

Cũng là hữu ích đối với các bác sĩ nếu có sự khiêm tốn khi biết rằng họ không thể ngay lập tức chữa trị mọi thứ. Có rất nhiều thứ không thể chữa trị trong y học. Mặc dù sẽ thật tuyệt vời nếu có nhiều phương pháp chữa trị hơn — và nhiều nghiên cứu hơn chắc chắn sẽ mang lại nhiều phương pháp chữa trị hơn trong tương lai — việc chữa bệnh luôn có thể thực hiện được, ngay cả khi không chữa khỏi.

Nếu chúng ta giúp bệnh nhân của mình tham gia vào quá trình tăng cường sức khỏe và hạnh phúc, đồng thời đối mặt với bất kỳ bệnh tật nào mà họ có thể gặp phải bằng lòng từ bi dành cho bản thân và trí tuệ, hệ thống y tế sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí. Bạn sẽ không đưa ra những cách chữa bệnh không thực sự hiệu quả cho những người thực sự không cần chúng. Nhưng hệ thống của chúng ta vẫn tiếp tục làm điều đó theo một kiểu tuyệt vọng.

Có thể nói, sẽ tạo ra một sự khác biệt to lớn nếu chánh niệm được giảng dạy cho nhiều đối tượng, có thể nói là, trước khi mọi người gặp tình trạng nghiêm trọng cần phải phẫu thuật hoặc nằm viện dài ngày. Các bệnh viện và trung tâm y tế của chúng ta có tiềm năng trở thành trung tâm chăm sóc sức khỏe tích hợp. Nếu những bệnh nhân và bác sĩ của họ được tiếp cận với khóa đào tạo chánh niệm, nó có thể làm sống lại chiều kích thiêng liêng của mối quan hệ bác sĩ - bệnh nhân dựa trên các nguyên tắc Hippocrate. Nó có thể di chuyển điều trị theo hướng chữa lành toàn bộ con người hơn là chữa trị các bộ phận cơ thể. Bệnh nhân sẽ được tham gia như một phần quan trọng của quá trình, bác sĩ sẽ hạnh phúc hơn, y tá sẽ hạnh phúc hơn và ban giám đốc bệnh viện sẽ hạnh phúc hơn. Nó sẽ giảm được rất nhiều chi phí.

Daniel Siegel: Chánh niệm là một phần của khung lớn hơn nhiều mà xã hội phải hướng tới: chấp nhận tầm quan trọng của các mối quan hệ của chúng ta với nhau và thấy rằng tâm trí, mặc dù nó không thể đo lường được như những thứ vật chất, nhưng thực sự là một thực thể có thực mà hoạt động của nó có tác động to lớn đến sự định hình của thế giới chúng ta. Từ quan điểm nghiên cứu khoa học ngày nay, có nhiều hỗ trợ hơn cho việc đặt hiểu biết về các mối quan hệ và tâm trí ngang hàng với sự hiểu biết về hoạt động của cơ thể. Tôi thấy nó trở thành một phần cơ bản trong cách các bác sĩ lâm sàng được đào tạo, và tôi thấy một từ vựng thống nhất mới xuất hiện sẽ cho phép chúng ta nói về những điều vi tế chưa được khám phá trong cách nói và thực hành y học trước đây của chúng ta.

Bây giờ chúng tôi có những kết quả nghiên cứu đáng giá để trình bày cho một bộ phận sinh viên y khoa khát khao về mặt khoa học. Chúng tôi có thể cho họ thấy rằng đây không phải là “những thứ mềm mại.” Chúng không phải là những mối quan tâm tự chọn, không bắt buộc. Sự thay đổi liên tục của tâm trí và các mối quan hệ với những người khác là nền tảng cho ý nghĩa của việc trở thành con người và ý nghĩa của việc chữa lành vết thương cho thế giới.

Mời bạn tìm đọc cuốn sách

Chánh niệm - Hướng dẫn thực hành đến giác ngộ

Cuốn sách đúc kết trí tuệ từ bốn thập kỷ miệt mài giảng dạy và nhiệt tâm tu tập của thiền sư Joseph Goldstein. Cuốn sách sẽ là một người bạn đồng hành tin cậy suốt cuộc đời cho bất cứ ai cam kết sống chánh niệm và thành tựu giải thoát nội tâm. Dựa trên sự tham cứu kỹ lưỡng từng chữ từng câu trong Satipaṭ̣ṭ̣hāna Sutta (Kinh Niệm Xứ), bài kinh bất hủ của Đức Phật về bốn nền tảng của chánh niệm vốn là cơ sở cho các phương pháp thiền Vipassanā ngày nay, thiền sư Joseph Goldstein đã trình bày trọn vẹn những lời dạy của Đức Phật một cách có hệ thống. 

 

Nguồn bài: https://meditation-plus.com/mindfulness-meditation-and-healing/

Nguồn dịch: https://kokorogarden.com/suc-manh-chua-lanh-cua-chanh-niem-phan-1

menu
menu