Tại sao người tốt lại chịu khổ?  

tai-sao-nguoi-tot-lai-chiu-kho-  

Chỉ bảy từ đơn giản, nhưng đủ dẫn bạn bước vào mê cung rối rắm của triết học, tâm lý học và thần học. Bắt đầu từ đâu đây?

Khổ đau là một trong những cảm nhận chủ quan nhất mà con người từng biết đến. Ngay cả cách ta phân loại nỗi đau – “thể xác” hay “tinh thần” – cũng không rõ ràng, bởi hiếm khi cái này tồn tại mà không kéo theo cái kia. Cơ thể đau thì tâm trí cũng đau, và ngược lại.

Nếu ta tạm gác lại chuyện phân định ai “tốt” ai “xấu”, mà chỉ đơn thuần hỏi: vì sao con người phải chịu đựng khổ đau, ta có thể bắt đầu từ khởi điểm: khoảnh khắc ta bị tách rời khỏi cơ thể mẹ, lần đầu tiên bị ném vào thế giới, một mình. Đó là khoảnh khắc chào đời.

Trong cuốn Nỗi Sang Chấn Khi Chào Đời (1924), nhà phân tâm học Otto Rank, một trong những cộng sự thân thiết nhất của Freud – đã viết rằng con người, bởi lẽ sinh ra làm người, tất yếu phải trải qua sang chấn. Mở rộng từ lý thuyết của Freud đầu thế kỷ XX, khi ông gọi sự ra đời là “trải nghiệm đầu tiên của sự lo âu, và là nguồn gốc, khuôn mẫu cho mọi nỗi lo về sau”, Rank tin rằng việc sinh ra không chỉ là nỗi lo đầu đời, mà còn là bản thiết kế cho toàn bộ những âu lo ta sẽ gặp trong suốt hành trình làm người.

Từ một trạng thái kết nối hoàn hảo, ấm áp với mẹ, ta bị đẩy ra, rơi vào một thế giới lạnh lẽo, đầy hoang mang – quả thực là một khởi đầu chẳng dễ chịu gì cho cuộc sống này. Các nhà phân tâm học bị cuốn hút bởi sang chấn khi sinh và dấu ấn tâm lý để lại nếu có biến chứng xảy ra. Bản thân tôi từng chào đời trong tình trạng dây rốn quấn quanh cổ như một con trăn (mẹ tôi kể mặt tôi lúc ấy “tím như nước nho”), và đến giờ tôi vẫn mang một cơ địa đầy lo lắng. Một nhà trị liệu phân tâm từng theo dõi tôi dường như rất bận tâm về sự trùng hợp giữa hai chi tiết này.

Ta dễ phản ứng gay gắt với tư tưởng quyết định luận (“Tôi không sinh ra để chịu khổ! Tôi làm chủ số phận của mình!”) cũng như dễ mắc kẹt trong đó (“Tất cả là do bố mẹ làm hỏng tôi!”), vì việc đó ít đáng sợ hơn là phải soi chiếu thật sâu vào chính mình. Nhưng nếu sang chấn là một phần không thể tránh khỏi trong những năm tháng đầu đời, thì nghiên cứu đã chỉ ra rằng có nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng đến mức độ chịu đựng khổ đau của mỗi người khi trưởng thành.

Nhà phân tâm học người Anh Wilfred Bion cho rằng: trải nghiệm chào đời có thể mãi là một nỗi đau khó nguôi hoặc trở nên có thể quản lý về mặt tâm lý, tuỳ thuộc vào mức độ gắn bó giữa ta với mẹ. Ông nói rằng: chúng ta không chỉ cần sự bảo vệ về thể chất, mà còn cần mẹ mình “ôm trọn” những trạng thái cảm xúc ban sơ, những cảm giác hỗn loạn tràn vào tâm trí trước khi ta có khả năng suy nghĩ hay đặt chúng vào bối cảnh. Ta cần cảm thấy rằng sang chấn của mình là thứ có thể sống sót qua được.

Bion tin rằng điều đó xảy ra khi những cảm xúc thô sơ đầu đời được người mẹ đón nhậngọi tên – nhờ thế mà chúng có thể được định hình, được giới hạn hoặc giải quyết. Với một mối gắn bó an toàn, ta học được cảm giác của sự đau đớn – dù chỉ là cơn đầy bụng nhẹ nhàng – nhưng đồng thời, ta cũng biết rằng yêu thương và hỗ trợ sẽ giúp mình thấy dễ chịu hơn. Đó là cách ta học cách sống cùng khổ đau.

Khi trưởng thành, có người dường như biết cách chịu đựng và sống cùng nỗi đau. Có người lại thấy điều đó thật khó khăn. Ngày nay, tâm lý học đã thừa nhận tầm quan trọng của sự gắn bó an toàn từ thuở bé đối với khả năng hồi phục cảm xúc về sau. Sau nhiều thập kỷ coi nhẹ ảnh hưởng của những biến cố tiêu cực thời thơ ấu, các nhà nghiên cứu đã xác lập rằng: một loạt trải nghiệm bất lợi thời nhỏ là yếu tố rủi ro lớn cho hầu hết các vấn đề sức khỏe tâm thần trong cuộc sống sau này.

Các nghiên cứu về Trải nghiệm Bất lợi Thời thơ ấu (Adverse Childhood Experiences) cho thấy rằng sang chấn và sự bỏ mặc trong những năm đầu đời không chỉ bộc lộ qua đau khổ tinh thần, mà còn biểu hiện thành viêm mãn tính và suy yếu hệ miễn dịch trong cơ thể. Cơ thể ta đau khi tâm trí ta đau. Nếu ta suy ngẫm về trải nghiệm hiện sinh của nỗi đau thể xác, nó có thể như một lỗ đen khoét sâu vào đời sống cảm xúc. Những người sống chung với cơn đau mãn tính không chỉ phải chịu đựng phần xác, mà còn phải vật lộn với nỗi mất mát về bản thân, khi bị tách biệt khỏi những điều từng mang lại ý nghĩa cho cuộc sống.

Trong một kỳ thực tập lâm sàng tại trung tâm điều trị đau mãn tính, tôi đã gặp những bệnh nhân nói rằng: điều khiến họ khổ sở nhất không phải là cơn đau, mà là sự đơn điệu, bế tắc mà nó áp đặt lên đời sống của họ.

Còn về câu hỏi muôn thuở – tại sao con người phải chịu khổ – nhà tâm lý học Jay Watts đã viết trên tờ The Guardian đầu năm nay rằng: với nhiều người trong chúng ta, nguyên nhân chủ yếu bắt nguồn từ các yếu tố tâm lý và xã hội.

“Cái nghèo, sự bất bình đẳng, phân biệt chủng tộc, bất công giới tính, mất nơi cư trú và văn hóa cạnh tranh khốc liệt, tất cả đều làm tăng nguy cơ khổ đau tinh thần,” cô viết. Những mối liên hệ này rất rõ ràng, trái ngược với sự hời hợt của giới chính trị trong việc lắng nghe các chuyên gia sức khỏe tâm thần về tác động của bất bình đẳng hệ thống.

“Hãy cộng thêm vào đó những trải nghiệm cá nhân như lạm dụng tình dục thời thơ ấu, chia ly sớm, bị bỏ mặc cảm xúc, sống trong môi trường phủ nhận thường xuyên hoặc bị bắt nạt, và ta sẽ thấy bức tranh về nỗi khổ của con người rõ ràng hơn: tại sao có người đau khổ hơn người khác.”

Có lẽ, điều an toàn nhất ta có thể khẳng định, là: mọi con người đều chịu khổ theo cách riêng của mình. Thậm chí còn có những triết gia “phản khuyến sinh” (anti-natalist) như David Benatar, cho rằng vì cuộc đời đầy rẫy khổ đau, nên tốt nhất con người đừng sinh thêm ai nữa.

Và chính ta, đôi khi, lại khiến mọi thứ thêm khó khăn khi cố gán nhãn “tốt” hay “xấu” lên người khác. Nhưng điều gì làm nên một con người tốt hay xấu? Và nếu ta đi sâu hơn vào câu hỏi ấy, thì sẽ phải tự hỏi tiếp: người xấu không khổ sao? Họ có xứng đáng chịu khổ không? Còn người tốt, chỉ vì họ làm việc tốt, có nên được miễn khổ không? Nếu có một “thứ bậc đạo đức” của khổ đau, thì ai là người quyết định nấc thang của nó?

Ở một mức độ nào đó, luật hình sự quả thật có thiết lập một hệ thống phân cấp như thế. Khi phân tích hành vi “xấu” của con người, hãy tạm hiểu là những hành vi gây ra nỗi đau đớn vô nghĩa cho người khác, thì trong ngành tâm lý tội phạm thường đặt ra câu hỏi: kẻ ấy điên, buồn, hay ác? Liệu bệnh lý tâm thần của một kẻ sát nhân, chẳng hạn, một cơn loạn thần dữ dội do rối loạn tâm lý chưa từng được điều trị, có nên là yếu tố ảnh hưởng đến hình phạt (và mức độ chịu khổ bắt buộc) của họ không? Câu hỏi ấy là sợi chỉ đỏ xuyên suốt các hệ thống công lý trên toàn thế giới.

Ảnh: arcticflea/Getty Images. “Otto Rank tin rằng, khoảnh khắc thể xác bước vào đời – tức là lúc chào đời – không chỉ là cơn lo âu đầu tiên mà con người từng nếm trải, mà còn là khuôn mẫu của mọi nỗi bất an sẽ theo họ suốt cả cuộc đời.”

Loạt phim Mindhunter của Netflix, dựa trên câu chuyện có thật về người tiên phong trong việc lập hồ sơ tội phạm giết người hàng loạt, đã mang lại cái nhìn thú vị về sự giao thoa giữa khoa học hành vi và tội ác. Như bộ phim cho thấy, những kẻ gây ra nỗi đau kinh hoàng ở tuổi trưởng thành thường đã từng trải qua sang chấn thời thơ ấu. Có dữ liệu chứng minh vòng lặp nạn nhân trở thành kẻ hại người trong các vụ xâm hại tình dục. Vậy liệu những kẻ gây tội ác như thế có xứng đáng được phục hồi, hay phải chịu đau khổ? Liệu họ, trên tư cách là con người, có xứng đáng được sống một đời tử tế trong phần đời còn lại?

Những quốc gia có án tử hình thì nói không: “mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân” (Xuất Ê-díp-tô Ký 21:24).

Còn những nước như Na Uy, nơi nhà tù hướng đến nhân tính và phẩm giá, thì nói có, và họ cũng đồng thời có tỷ lệ tái phạm thấp nhất châu Âu.

Chúng ta có thể thay đổi con người hay không, và từ đó giảm thiểu những nỗi khổ không cần thiết trong xã hội, là một cuộc tranh luận chưa bao giờ có hồi kết. Không có hành vi nào thể hiện quyền lực tuyệt đối hơn việc một con người kết thúc sinh mạng của một con người khác. Với một số nạn nhân, cái chết của kẻ gây tội có thể giúp họ vơi đi phần nào đau khổ. Với người khác, cảm giác công lý, và nhờ đó là sự khuây khỏa, lại đến từ việc kẻ phạm tội bị giam cầm và mất đi tự do.

Trong khoa học thần kinh hiện đại, khái niệm “cái ác” dường như đã trở nên lỗi thời.
Trong hệ viền của não bộ, có một cụm nhân hình quả hạnh, gọi là hạch hạnh nhân, giữ vai trò trung tâm trong việc xử lý nỗi sợ và cảm giác khoái lạc. Trong các bản chụp fMRI (hình ảnh cộng hưởng từ chức năng, đo hoạt động não thông qua lưu lượng máu), những kẻ giết người hoặc phạm tội bạo lực thường có hạch hạnh nhân hoạt động bất thường.

Một nghiên cứu gần đây cho thấy những người có dấu hiệu “phát triển thần kinh hệ viền bất thường” thường có mức độ cao hơn đáng kể về hành vi chống đối xã hội, rối loạn nhân cách ác tính, bị bắt giữ và kết án, so với nhóm đối chứng.

Khi tước đi ý chí tự do hoặc khả năng lựa chọn có ý thức, liệu ta có thể nói rằng những người gây ra hành vi tàn ác như vậy thực chất là nạn nhân của cấu trúc não lỗi? Những căn nguyên thuộc về não bộ của cái gọi là “cái ác” có thể dẫn đến việc xét nghiệm sớm nhằm phát hiện xu hướng hành vi lệch lạc. Một nghiên cứu từ năm 2010 gợi ý rằng trẻ em mới ba tuổi đã có thể bị rối loạn hạch hạnh nhân, gây phản ứng sợ hãi suy giảm, và từ đó dễ dẫn tới hành vi tội phạm khi trưởng thành. Tuy nhiên, việc triển khai xét nghiệm đó trên quy mô rộng sẽ là một bãi mìn đạo đức.

Nếu ta đang hỏi vì sao “người tốt” phải chịu khổ, thì ẩn ý phía sau là: nỗi khổ nên chỉ dành cho “kẻ xấu”. Khi nói đến “người tốt”, chúng ta thường nghiêng về phẩm chất thấu cảm, cách một người hiểu và hành động vì phúc lợi của người khác.
Khả năng đặt mình vào vị trí của người khác là nền tảng cho sự phát triển xã hội của mỗi chúng ta. Từng có thời, sự thiếu đồng cảm được xem là đặc điểm cốt lõi của rối loạn nhân cách ác tính. Nhưng những năm gần đây, nghiên cứu cho thấy có thể tồn tại một “công tắc” thấu cảm, tức là khả năng bật và tắt nó khi cần. Đặt một kẻ rối loạn vào máy quét não, họ vẫn có thể khơi gợi một phản ứng đầy thấu cảm, nếu có yêu cầu. Nhưng trong đời thực, việc có thể không đồng nghĩa với việc sẽ làm.

Khi chúng ta đau đớn, ta muốn tìm cho ra ý nghĩa. Ta khao khát một nguyên nhân. Bởi vì sự mâu thuẫn nhận thức khiến não bộ rất khó chịu. Thế nhưng, sự thật là: không có người tốt nào luôn được tưởng thưởng, và cũng không có kẻ xấu nào luôn bị trừng phạt. Cũng chẳng tồn tại một con người nào chưa từng chịu khổ. Có lẽ, chính sự vỡ vụn của ảo tưởng đó mới là điều khiến ta xao động nhất.

Tác giả: Eleanor Morgan là tác giả cuốn "Anxiety for Beginners: A Personal Investigation" và hiện đang trong quá trình đào tạo để trở thành nhà tâm lý học. 

Nguồn: Why do good people suffer?  | The Guardian

menu
menu