Tâm hồn không tĩnh lặng - Cuốn sách dành cho người mắc chứng Rối loạn lưỡng cực

tam-hon-khong-tinh-lang-cuon-sach-danh-cho-nguoi-mac-chung-roi-loan-luong-cuc

Đó là một trạng thái tâm thần đáng sợ nhưng mang lại cảm giác rất tuyệt vời. Đó là sự kích động đến cao độ như một đứa trẻ, đồng bóng như một cô gái mới lớn, phiền muộn đến ngã lòng như một thiếu nữ và rồi chìm vào chu

Tác giả: Kay Redfield Jamison

Tựa gốc: An Unquiet Mind: A Memoir of Moods and Madness

Tựa Việt: Tâm hồn không tĩnh lặng

Độ dài: 327 trang

Phát hành: năm 2007 NXB Thông tấn

*****

"Năm 1974, tôi 28 tuổi, khi nộp hồ sơ xin làm giáo sư trợ giảng môn tâm thần học tại trường Đại học California ở Los Angeles (UCLA), tôi đã bị điên từ lâu rồi.Chỉ trong vòng ba tháng, tôi bị điên đến mức không nhận ra nổi. Và đó là sự khởi đầu của cuộc đấu tranh lâu dài và tổn hại của tôi chống lại việc sử dụng thuốc…."

Một điều đặc biệt - Kay Redfield Jamison - tác giả của Tâm hồn không tĩnh lặng cũng từng là một trong số những người bị mắc bệnh hưng- trầm cảm nặng, hay nói cách khác, bà cũng từng mắc phải căn bệnh điên tai quái.

Trên thế giới, căn bệnh rối loạn tâm thần này đã giết chết hàng chục nghìn người mỗi năm. Đó là một trạng thái tâm thần đáng sợ nhưng mang lại cảm giác rất tuyệt vời. Đó là sự kích động đến cao độ như một đứa trẻ, đồng bóng như một cô gái mới lớn, phiền muộn đến ngã lòng như một thiếu nữ và rồi chìm vào chu kỳ hưng-trầm cảm.

Nạn nhân của căn bệnh này hầu hết là những người trẻ tuổi, trong số họ rất nhiều người có tài và rất thông minh, đều có ích cho xã hội, nhưng căn bệnh vừa là kẻ thù vừa là người bạn đồng hành quyến rũ chết người ấy sẽ không buông tha bất cứ ai, nếu họ không thể vượt qua được chính mình.

Toàn bộ cuốn sách là câu chuyện về cuộc đời của một người phụ nữ đầy tài năng và nhiệt huyết vừa sống chung với bệnh tật vừa theo đuổi sự nghiệp nghiên cứu khoa học. Trong suốt cuốn sách là lời kể về quá trình của bệnh hưng-trầm cảm với các diễn biến từ nhẹ, hưng phấn, kích thích cho đến u uất, trầm cảm, ức chế, bạo lực và nặng nhất là dẫn đến tự tử.

Theo như tiến sỹ Jamison thì:

"Cuộc chiến chống lại chính mình như tôi không phải là ít gặp. Một vướng mắc lớn trong điều trị hưng trầm cảm ở bệnh viện không phải là bệnh viện không có những phương thuốc hiệu quả, thực chất là họ có, mà vấn đề là bệnh nhân không chịu uống thuốc. Tệ hại hơn nữa, do thiếu thông tin, do tư vấn tồi và do sợ ảnh hưởng đến tên tuổi và nghề nghiệp, người ta thậm chí còn không tìm cách điều trị nữa.

Tâm thần và suy nghĩ lệch lạc của bệnh hưng-trầm cảm có thể dẫn tới những hành vi chết người, phá hủy nền tảng của lý trí và thường làm xói mòn nhu cầu và nguyện vọng được sống. Đó là căn bệnh được bắt nguồn từ lý do sinh học,nhưng lại chứa trong nó yếu tố tâm lý. Đó là một căn bệnh độc đáo nếu xét về những lợi thế và niềm hứng khởi mà nó mang lại. Tuy nhiên căn bệnh này cũng dẫn tới những hậu quả nặng nề tới mức không thể chịu đựng nổi và không ít trường hợp dẫn đến cái chết"

Cuốn sách vừa là một lời tâm sự, vừa là lời lý giải cho căn bệnh về tâm lý rất phức tạp của con người. Không khô khan, dài dòng mà thu hút, đầy thuyết phục, bạn sẽ lần theo từng lời kể đi qua từng giai đoạn trong cuộc đời tác giả. Những đổ vỡ của một gia đình vốn hạnh phúc, gen di truyền căn bệnh từ người cha, những thay đổi đột ngột của môi trường sống...vv.. chính là những mầm mống để căn bệnh manh nha rồi phát triển. Cuộc đấu tranh quyết liệt giữa bên trong và bên ngoài, sự cố gắng tỏ sự bình thường trước mọi người để có thể tiếp tục công việc nghiên cứu quả là quá sức gian nan và đầy khổ tâm!

"Tôi xuất hiện trước mọi người một cách vui vẻ và nhiệt tình.Tôi cũng nói chuyện khá bình thường với những người khác. Nhìn bề ngoài có vẻ như tôi vẫn khỏe. Chỉ có chúa mới biết rằng tâm hồn tôi đang chết lặng đi và trái tim tôi đang rỉ máu từ hàng nghìn vết thương."

Đọc sách, ta hiểu thêm về lithi, những lợi ích và tác dụng phụ của thuốc trong quá trình điều trị. Một trong số những lần cực điểm của căn bệnh khiến người ta xấu hổ và cảm giác vô cùng tội lỗi, nhưng ngược lại, một trong những giai đoạn đầu phát bệnh thì trí sáng tạo, óc tưởng tưởng, sức lực và mọi giác quan của bạn đều được kích thích đến độ hưng phấn. Suy nghĩ nhanh, nhiều ý tưởng, ngủ ít, và công việc làm rất hiệu quả.Còn thuốc chữa trị thì lại làm mất đi các cảm giác ấy, mất đi sự hài hước, mất khả năng đọc và nhớ mọi thứ, giảm nhu cầu tình dục và đầu óc mệt mỏi.

Đó cũng là lý do tại sao Kay Jamison cũng như tất cả các bệnh nhân mắc hưng-trầm cảm khác từ chối uống thuốc.Và dĩ nhiên, căn bệnh ngày càng trở nên trầm trọng hơn...

Tình yêu, sự tin tưởng và cảm thông của gia đình, bạn bè đã đóng góp một phần không nhỏ vào nỗ lực vượt qua chính bản thân của Jamison để cuối cùng giành được chiến thắng. Hơn một lần trong cuốn sách đã nói rằng tình yêu không thể chữa khỏi căn bệnh một cách nhanh chóng, nhưng nó là một liều thuốc xoa dịu cho trái tim. Những mất mát, những nỗi đau sẽ dần vơi đi, cho dù cuộc sống là cả một sự đấu tranh dai dẳng và quyết liệt, thì ở đâu đó trong góc riêng của mỗi tâm hồn tình yêu luôn ngự trị, để sẻ chia và hy vọng.

Có thể nói Tâm hồn không tĩnh lặng vừa là một câu chuyện đời, vừa là một đề tài khá lý thú về vấn đề tâm thần học cho những ai muốn biết và hiểu thêm về lĩnh vực thú vị này.

"Quá khứ thỉnh thoảng vẫn hiện về và sự cám dỗ muốn trở lại cảm giác hưng phấn trước kia vẫn còn đó, cho dù tần suất đã giảm dần. Tôi ngoái nhìn lại phía sau và vẫn cảm thấy sự hiện diện của một cô gái trẻ, mạnh mẽ và tiếp sau đó là một phụ nữ trẻ hung bạo, gây nhiều phiền toái, nhưng cả hai đều mang trong mình những giấc mơ cao đẹp, làm việc không mệt mỏi và chứa chan khát vọng lãng mạn."

Sherwin B. Nuland tác giả của Chúng ta chết như thế nào: Suy ngẫm về chương cuối cùng của cuộc đời đã nhận xét:

"Tiến sỹ Kay Jamison viết cuốn sách này với tư cách một người bệnh đang lành – một bác sĩ đã trải qua những gì mà người khác chỉ được biết tới qua đào tạo hay phỏng đoán. Bà đã phát hiện ra con đường độc đáo đến với sự sáng suốt trong tình trạng rối loạn thần kinh, một sự sáng suốt nói lên toàn bộ bản chất của con người. Nỗi đau của bà, thằng lợi của bà và lối hành văn độc đáo của bà là món quà mà Kay Jamison tặng cho độc giả. Chúng ta tự hào nhận ra những giá trị vô biên ấy trong cuộc đời của mỗi chúng ta"

Tác giả Kay Redfield Jamison

 

Kay Redfield Jamison là một giáo sư tâm thần học tại trường Đại học Y, thuộc Đại học Johns Hopkins. Tiến sĩ Jamison trước đây từng là giám đốc Bệnh viện rối loạn cảm xúc UCLA.

Bà được bầu là Nữ khoa học xuất sắc nhất của UCLA và nằm trong danh sách những bác sỹ xuất sắc của Mỹ với rất nhiều thành tích trong sự nghiệp nghiên cứu chứng hưng trầm cảm.

Là tác giả của cuốn sách Đụng vào lửa: bệnh hưng trầm cảm và tính cách nghệ sỹ. Tác giả của 80 bài viết khoa học về chứng rối loạn tâm thần, tự tư, liệu pháp tâm lý và lithi.

Đồng tác giả của sách giáo khoa y học về bệnh hưng-trầm cảm.

PHẦN MỞ ĐẦU

Vào lúc 2 giờ sáng và nếu bạn bị điên thì ngay cả bệnh viện của Trường Đại học UCLA cũng trở nên hấp dẫn. Bệnh viện này, thường ngày chỉ là những tòa nhà buồn tẻ và lạnh lẽo, thì đối với tôi, vào buổi sáng mùa thu của 20 năm về trước là hoàn toàn khác. Nó là tâm điểm của hệ thần kinh sắc sảo và nhạy bén của tôi. Với cánh mũi phập phồng đánh hơi, anten vểnh lên, đôi mắt liếc nhanh và mặt quay nhanh sang mọi hướng, tôi ghi lại mọi hình ảnh ở quanh mình. Tôi đang chạy. Tôi không chỉ chạy, mà còn chạy rất nhanh và hoảng hốt, từ đầu này tới đầu kia của bãi đỗ xe trong bệnh viện, cố gắng tiêu hao hết nguồn năng lượng dường như vô tận, không biết mệt và sôi sục trong người. Tôi đang chạy rất nhanh, nhưng lại từ từ chuyển sang trạng thái điên.

Người đàn ông ở bên tôi lúc ấy là một đồng nghiệp trong trường y. Anh đã đứng lại từ một giờ trước đó và như anh nói trong hơi thở gấp, là đã kiệt sức rồi. Những người minh mẫn có lẽ sẽ không ngạc nhiên khi biết rằng đối với hai chúng tôi, sự phân biệt giữa ngày và đêm đã mất từ lâu rồi. Và rõ ràng là chúng tôi đã phải trả giá, nếu không phải là cuối cùng, cho những giờ bất tận với rượu uytxki, với những cuộc cãi vã và những trận cười không ngớt. Lẽ ra vào giờ ấy chúng tôi đang ngủ hay làm việc, đọc tạp chí, vẽ đồ thị hay những biểu đồ khoa học…

Đột nhiên một chiếc xe cảnh sát ập tới. Ngay cả với tâm trí không mạch lạc của mình, tôi vẫn có thể nhìn thấy viên cảnh sát đặt tay vào bao súng khi anh ta bước ra khỏi xe. “Tại sao các vị lại chạy lung tung trong bãi đỗ xe vào giờ này thế?” anh ta hỏi. Một vài suy nghĩ rời rạc còn lại trong tôi bỗng bật ra, liên kết lại với nhau, đủ để tôi nhận ra rằng tình huống này là khó có thể giải thích. Thật may là anh bạn đồng nghiệp của tôi đã nhanh trí trả lời:

Cả hai chúng tôi là giáo viên của khoa tâm thần.” Viên cảnh sát nhìn chúng tôi, mỉm cười, quay lại xe và bỏ đi.

Thế đấy, chỉ riêng việc là giáo sư tâm thần đã giải thích được mọi chuyện.

Năm 1974, tôi 28 tuổi, khi nộp hồ sơ xin làm giáo sư trợ giảng môn tâm thần học tại Trường đại học California ở Los Angeles (UCLA), tôi đã bị điên từ lâu rồi. Chỉ trong vòng 3 tháng, tôi bị điên tới mức không nhận ra nổi. Và đó là sự khởi đầu của cuộc đấu tranh lâu dài và tổn hại của tôi chống lại việc sử dụng thuốc, trong khi chỉ vài năm sau đó tôi đã khuyến khích người khác dùng thuốc. Bệnh tật và cuộc vật lộn với thuốc, sau nhiều năm gian khổ, cuối cùng đã cứu cuộc đời tôi và khôi phục sự tỉnh táo trong tôi.

Từ rất lâu rồi, tôi đã rơi vào trạng thái tâm thần rất đáng sợ, nhưng cũng rất tuyệt vời. Đó là sự kích động đến cao độ như một đứa trẻ, đồng bóng như một cô gái mới lớn, phiền muộn đến ngã lòng như một thiếu nữ và rồi chìm vào chu kỳ hưng-trầm cảm. Khi tôi bắt đầu sự nghiệp giáo sư thì cũng là lúc tôi trở thành học trò của tâm thần, do cả hoàn cảnh lẫn tri thức. Đó là con đường duy nhất để tôi hiểu, và thực tế là chấp nhận căn bệnh của mình. Đó cũng là con đường duy nhất để tôi có thể tạo ra sự khác biệt trong cuộc đời của những người đang bị rối loạn tâm thần. Căn bệnh mà đã suýt giết chết tôi một vài lần này đã giết chết hàng chục nghìn người mỗi năm. Nạn nhân của nó hầu hết là những người trẻ tuổi. Hầu hết trong số họ không nhất thiết phải chết và nhiều người là những người có tài và rất thông minh trong xã hội chúng ta.

Người Trung Quốc tin rằng trước khi bạn có thể thuần phục được thú dữ thì bạn phải nhìn thấy cái đẹp trong nó. Thật kỳ lạ, tôi đã áp dụng cách làm này đối với căn bệnh hưng-trầm cảm của mình. Căn bệnh này vừa là kẻ thù, vừa là bạn đồng hành quyến rũ, mà chết người. Tôi phát hiện ra rằng việc phân loại cái gì là tốt nhất và cái gì là nguy hiểm nhất trong bản chất của mình là một công việc phức tạp mà hấp dẫn. Để có thể chiến thắng bệnh tật, trước hết tôi phải hiểu mọi trạng thái tâm thần, cũng như mọi sự trá hình của nó, nghĩa là phải hiểu sức mạnh thực và sức tưởng tượng của nó. Vì căn bệnh của tôi lúc đầu có vẻ chỉ như là sự mở rộng của tâm trạng, sinh lực và sự phấn khích của chính mình, nên đôi khi tôi đã quá coi thường nó. Và do lúc đầu tôi nghĩ rằng tôi có thể kiểm soát được tâm trạng kích động, mà ngày càng có xu hướng bạo lực của mình, nên tôi đã không tìm kiếm bất cứ một phương pháp điều trị nào trong suốt 10 năm đầu tiên. Ngay cả khi căn bệnh của tôi đã phát triển đến mức phải điều trị khẩn cấp thì đôi khi tôi cũng vẫn tìm cách tránh uống thuốc, mặc dù cả những điều tôi được học trong nhà trường lẫn các công trình nghiên cứu y học cùng nói rằng thuốc là con đường tốt nhất để có thể đối phó với căn bệnh của tôi.

Bệnh điên của tôi, ít nhất là trong giai đoạn đầu và ở dạng nhẹ, là trạng thái rất mê li, nó tạo ra sự mãn nguyện, làm cho dòng suy nghĩ cứ thế tuôn trào và tạo ra nguồn năng lượng bất tận, giúp tôi chuyển tải những ý tưởng mới vào các bài viết và các công trình nghiên cứu. Uống thuốc sẽ không chỉ làm mất đi cảm hứng mạnh mẽ và thăng hoa này, mà còn tạo ra những phản ứng phụ không thể chấp nhận được. Phải rất lâu sau tôi mới nhận ra rằng những năm tháng và quan hệ đã mất là không thể khôi phục được, những tổn thất mà căn bệnh này gây ra cho chính mình và những người khác không phải bao giờ cũng được bù đắp.

Cuộc chiến chống lại chính mình như tôi không phải là ít gặp. Một vướng mắc lớn trong điều trị bệnh hưng-trầm cảm ở bệnh viện không phải là bệnh viện không có những phương thuốc hiệu quả, thực chất là họ có, mà vấn đề là bệnh nhân không chịu uống thuốc. Tệ hại hơn nữa, do thiếu thông tin, do tư vấn tồi và do sợ ảnh hưởng đến tên tuổi và nghề nghiệp, người ta thậm chí còn không tìm cách điều trị nữa. Tâm thần và suy nghĩ lệch lạc của bệnh hưng-trầm cảm có thể dẫn tới những hành vi chết người, phá hủy nền tảng của lý trí và thường là làm xói mòn nhu cầu và nguyện vọng được sống. Đó là căn bệnh bắt nguồn từ lý do sinh học, nhưng lại chứa trong nó yếu tố tâm lý. Đó là một căn bệnh độc đáo nếu xét tới những lợi thế và niềm hứng khởi mà nó mang lại. Tuy nhiên, căn bệnh này cũng dẫn tới những hậu quả nặng nề tới mức không thể chịu đựng nổi và không ít trường hợp dẫn đến cái chết.

Tôi may mắn không bị chết vì căn bệnh của mình. Tôi may mắn được điều trị bằng những liệu pháp y học tốt nhất khi đó. Và tôi may mắn có được những người bạn, những đồng sự và gia đình tận tâm. Cũng chính vì lý do này mà tôi đã cố gắng đến mức cao nhất để đưa tất cả những trải nghiệm của chính mình vào các công trình nghiên cứu, vào bài giảng, vào điều trị trong bệnh viện và vào công tác tư vấn. Thông qua các bài viết và bài giảng của mình, tôi hy vọng có thể thuyết phục được các đồng sự của mình về những nghịch lý của căn bệnh này, đó là nó vừa có thể giết người, vừa có thể sáng tạo. Cùng với nhiều người khác, tôi đã cố gắng làm thay đổi thái độ của công chúng đối với bệnh tâm thần nói chung và bệnh hưng-trầm cảm nói riêng. Việc đan kết những nguyên tắc khoa học của tri thức với thực tế sinh động qua những trải nghiệm của bản thân mình đôi khi cũng rất khó khăn. Tuy nhiên, chính nhờ kết hợp cảm xúc của mình với những kiến thức của y khoa mà tôi cảm thấy mình có thể sống theo cách mà mình muốn và rút ra được những kinh nghiệm cần thiết để có thể làm thay đổi nhận thức của công chúng và phương pháp điều trị trong bệnh viện.

Tôi đã rất băn khoăn khi viết một cuốn sách mô tả chi tiết cuộc chiến của chính mình chống lại bệnh điên, chứng trầm cảm và rối loạn tâm thần, cũng như khi phải thừa nhận nhu cầu điều trị lâu dài bằng thuốc. Các nhân viên bệnh viện rất miễn cưỡng cho người khác biết về những vấn đề tâm thần của mình, vì những lý do rất rõ ràng, đó là giấy phép hành nghề và đặc ân của bệnh viện. Những băn khoăn ấy là xác đáng. Tôi không biết việc thảo luận một cách công khai những vấn đề này về lâu dài sẽ ảnh hưởng như thế nào tới cuộc đời và sự nghiệp của tôi, nhưng cho dù hậu quả thế nào đi chăng nữa, điều đó vẫn tốt hơn là im lặng. Tôi chán ghét sự che giấu, chán ghét sự uổng phí, chán ghét thói đạo đức giả và chán ghét việc phải hành động như là mình đang có điều gì đó phải che giấu. Con người phải sống với chính mình và bất cứ sự che giấu nào ẩn sau những bằng cấp, danh hiệu hay bất cứ thứ gì khác, cũng đều là không thật thà. Sự che giấu đó có thể là cần thiết, nhưng vẫn là không thật thà. Tôi vẫn còn băn khoăn về quyết định công khai căn bệnh của mình. Tuy nhiên, một trong những lợi thế của việc mắc chứng hưng-trầm cảm trong hơn 30 năm qua là nó làm cho tôi thấy rằng dường như chỉ có rất ít việc làm quá khó khăn. Điều này cũng giống như vượt qua Cầu Vịnh (Bay Bridge) khi trời mưa bão vậy. Người ta có thể lo sợ khi tiến về phía trước, nhưng không thể quay lại. Tôi tự thấy an ủi phần nào khi nhớ tới câu hỏi rất cơ bản của Robert Lowell: Tại sao không nói rõ chuyện gì đã xảy ra?

PHẦN I

MÀU XANH HOANG DẠI PHÍA XA

LÊN TẬN MẶT TRỜI

Tôi đứng đó, ngửa đầu ra phía sau, môi cắn chặt bím tóc đuôi sam và lắng nghe tiếng phản lực gầm rú trên đầu. Tiếng rít chói tai một cách khác thường. Điều đó có nghĩa là máy bay bay rất thấp. Trường tiểu học của tôi ở sát Căn cứ không quân Andrew, ngay ngoại ô Washington. Phần lớn chúng tôi là con cái của các phi công, nên những tiếng ầm ĩ này chỉ là chuyện thường ngày. Dù vậy, nhưng với chúng tôi nó vẫn có sức lôi cuốn kỳ diệu. Từ sân chơi, tôi vẫn thường ngẩng mặt lên nhìn và vẫy tay. Tất nhiên, tôi biết viên phi công ấy không nhìn thấy tôi. Tôi cũng biết rằng ngay cả khi viên phi công ấy có nhìn thấy tôi chăng nữa thì chắc gì đó đã là bố tôi. Tuy nhiên, đó là việc người ta vẫn thường làm, còn tôi thì tôi yêu thích bất cứ lý do gì để được ngước nhìn lên bầu trời. Bố tôi là một sỹ quan không quân chuyên nghiệp, nhưng trước hết và trên hết ông là một nhà khoa học, thứ hai mới là phi công. Tuy nhiên, ông rất thích bay. Vì là một nhà khí tượng học nên tinh thần và đầu óc ông lúc nào cũng ở trên trời xanh. Giống như bố tôi, tôi nhìn lên trời không phải chỉ để nhìn.

Khi tôi nói với bố tôi rằng lục quân và hải quân có trước không quân rất lâu và vì thế mà có nhiều truyền thống và kỳ tích hơn, thì bố tôi nói: Đúng thế, nhưng không quân là tương lai. Sau đó bao giờ ông cũng nói thêm rằng: Và chúng ta có thể bay. Sau khi tuyên bố như một tín điều ấy, ông thường hát bài hát đầy phấn khích của không quân, mà cho tới tận bây giờ tôi vẫn còn nhớ một số đoạn. Nó cùng với một số đoạn trong bài hát mừng Giáng sinh, những bài thơ đầu tiên và một số đoạn trong Kinh cầu nguyện, đã để lại trong tâm hồn tôi những rung động từ thời trẻ thơ và bây giờ mỗi khi nhớ tới, trái tim tôi vẫn đập nhanh hơn.

Tôi nghe và tôi tin, và mỗi lần nghe thấy câu hát “Nào hãy bay lên bầu trời trong xanh bao la” thì tôi lại nghĩ rằng “trong xanh”’ và “bao la” là những từ tuyệt vời nhất. Tương tự như vậy, tôi luôn cảm thấy rất phấn khích mỗi khi nghe thấy câu “Cao cao nữa lên, lên tận mặt trời”. Và tôi biết rằng tôi là một trong số những người yêu bầu trời trong xanh bao la.

Tiếng rít của chiếc máy bay phản lực nghe càng lớn và những đứa bạn trong lớp hai của tôi đột nhiên chạy nháo lên. Chiếc máy bay lao tới rất thấp, lướt qua đầu chúng tôi và không kịp hạ cánh xuống sân bay nữa. Khi chúng tôi đang túm lại bên nhau hoảng sợ thì nó lao vào cây, bùng nổ ngay trước mắt chúng tôi. Chúng tôi cảm nhận được sức ép và nghe thấy tiếng nổ khủng khiếp của vụ máy bay rơi. Sau đó là cột lửa bùng lên thật đáng sợ. Dường như chỉ vài phút sau đó, các bà mẹ đã tràn vào sân, vỗ về bọn trẻ chúng tôi rằng đó không phải là bố của chúng. Thật may cho anh tôi, chị tôi và tôi, đó cũng không phải là bố chúng tôi. Vài ngày sau đó, mọi chuyện đều rõ ràng. Trong lời nhắn cuối cùng của viên phi công trẻ về đài chỉ huy trước khi chết, anh ta nói rằng anh ta hoàn toàn có thể tự cứu mình, bằng cách nhảy ra ngoài máy bay. Nhưng nếu làm như vậy, chiếc máy bay không được điều khiển có thể rơi xuống sân chơi và giết chết bọn trẻ.

Viên phi công tử nạn ấy trở thành một anh hùng và là một hình mẫu sống động. Đó là một hình mẫu hấp dẫn và ám ảnh tôi mãi. Ký ức về vụ tai nạn ấy đã trở lại trong tôi rất nhiều lần trong nhiều năm, như một lời nhắc nhở vì sao con người ta lại ngưỡng mộ và cần tới những hình mẫu ấy. Từ chiều hôm đó trở đi, mỗi khi nhìn lên trời xanh, tôi không chỉ thấy nó mênh mông và đẹp đẽ nữa, mà còn nhìn thấy cả cái chết luôn rình rập ở nơi xa thẳm ấy.

Giống như mọi gia đình quân nhân, chúng tôi phải di chuyển qua rất nhiều nơi. Đến năm học lớp 5, anh tôi, chị tôi và tôi đã phải trải qua 4 trường tiểu học khác nhau. Chúng tôi đã sống ở Florida, Puecto Rico, California, Tokyo và thủ đô Washington hai lần. Tuy nhiên, bố mẹ tôi, đặc biệt là mẹ tôi, đã cố gắng giữ cho cuộc sống của gia đình được đảm bảo, ấm cúng và ổn định. Anh trai tôi là con cả trong nhà và là người kiên định nhất trong ba chúng tôi. Anh cũng là đồng minh tin cậy của tôi, cho dù anh hơn tôi ba tuổi. Tôi coi anh như một thần tượng và thường bí mật theo anh mỗi khi anh cùng đám bạn ra sân chơi bóng chày hoặc lang thang sang khu láng giềng. Anh thông minh, công bằng và tự tin. Tôi luôn có cảm giác được bảo vệ mỗi khi ở gần anh. Mối quan hệ của tôi với chị gái, người chỉ nhiều hơn tôi 13 tháng tuổi, thì phức tạp hơn nhiều. Chị rất xinh, với mái tóc đen và đôi mắt tuyệt vời. Ngay từ khi còn nhỏ, chị đã luôn nhìn những gì đang diễn ra xung quanh mình một cách tiêu cực. Chị có nghị lực, tính khí mạnh mẽ, nhưng xấu chơi, hay thay đổi và không thông cảm với lối sống bảo thủ của quân đội, mà chị cho là đã giam cầm tất cả chúng tôi. Chị có cuộc sống riêng của mình, ngang ngạnh và sẵn sàng sống tự do, buông thả ở bất cứ đâu vào bất cứ lúc nào có thể. Chị ghét trường trung học và khi chúng tôi sống ở thủ đô Washington, chị thường trốn học để đi bảo tàng Smithsonian, bảo tàng quân y hoặc đơn giản chỉ là đi uống bia hay hút thuốc với bạn bè.

Chị bực bội với tôi, vì nghĩ rằng tôi là đứa “được cưng chiều.” Chị cho rằng tôi, một đứa em gái quá dễ kết bạn và dễ hoàn thành bài vở ở trường, đang có cuộc sống quá dễ chịu mà chẳng cần phải vất vả gì nhiều và được bảo vệ nhờ cái nhìn lạc quan ngớ ngẩn về con người và cuộc sống. Đứng giữa anh tôi, một vận động viên năng khiếu và luôn đạt điểm tối đa trong những năm đại học, và tôi, một người về cơ bản là ham học, nhiệt tình tham gia thể thao và các hoạt động với bạn bè và trường lớp, chị trở thành một người bướng bỉnh, chống lại cái mà chị cho là một thế giới khó khăn và vất vả. Chị căm ghét cuộc sống của quân đội, căm ghét việc phải thường xuyên di chuyển và luôn phải kết bạn với những người mới. Chị cho rằng phép lịch sự trong gia đình chỉ là đạo đức giả.

Có lẽ nhờ tôi không phải vật lộn chống lại tâm trạng u ám trong mình cho tới tận khi tôi trưởng thành nên tôi đã có một khoảng thời gian khá dài sống trong những điều tốt đẹp, ít bị đe dọa và đối với tôi, đó là một thế giới tuyệt vời. Tôi nghĩ chị tôi đã không bao giờ biết đến thế giới này. Đối với tôi, phần lớn khoảng thời gian dài và quan trọng của thời thơ ấu và những năm đầu của thời thiếu nữ là rất hạnh phúc. Nó tạo thành nền tảng nhiệt tình, thân thiện và tin cậy vững chắc trong tôi. Nó là tấm bùa hộ mệnh đầy uy lực, một sức mạnh tích cực và hiệu nghiệm giúp tôi chống lại những điều bất hạnh sau này. Chị tôi đã không có được những năm tháng ấy và cũng không có được tấm bùa hộ mệnh như thế. Có lẽ vì thế mà không có gì đáng ngạc nhiên khi tôi và chị tôi cùng phải đối mặt với những khó khăn của riêng mình, thì chị tôi coi những điều tồi tệ ấy là từ bên trong, như một phần của chính cuộc đời chị, một phần của gia đình và thế giới, còn tôi thì lại coi đó như là một thứ ngoại lai, một thế lực từ bên ngoài đang tuyên chiến với bản chất tự nhiên của tôi.

Giống như bố tôi, chị tôi lẽ ra phải là một người duyên dáng, với những nét tươi tắn, độc đáo và rất dí dỏm. Chị cũng được Trời phú cho khiếu thẩm mỹ tuyệt vời. Chị không phải là người dễ dãi, hay gặp những điều rắc rối. Những rắc rối của chị cứ lớn dần theo tuổi tác. Tuy nhiên, chị lại có trí tưởng tượng và tâm hồn rất nghệ sỹ. Chị có thể chọc giận và kích động bạn tới mức khó có thể chịu đựng nổi. Dù vậy tôi vẫn luôn cảm thấy như mình là một phần của thế giới giận dữ trong chị.

Bố tôi thì mỗi khi can dự vào chuyện gì là như bị hút vào việc đó. Ông là một người sôi nổi, vui vẻ và thích tìm hiểu mọi chuyện và có khả năng miêu tả những nét đẹp và những hiện tượng của thế giới tự nhiên một cách rất thú vị và độc đáo. Đối với ông, một bông tuyết không bao giờ chỉ là một bông tuyết, và một đám mây không phải chỉ là một đám mây. Chúng trở thành những sự kiện, những nhân vật và một phần của vũ trụ đáng yêu và kỳ dị. Khi có thời gian, và vào lúc ông cao hứng, sự phấn khích trong ông dường như nhiễm sang mọi thứ. Âm nhạc sẽ tràn ngập ngôi nhà và một đồ trang sức mới tuyệt diệu nào đó sẽ xuất hiện, có thể đó là một chiếc dây chuyền bằng đá trắng, một chiếc vòng tay bằng hồng ngọc mài, hay một chiếc mặt dây chuyền hợp mốt bằng đá màu xanh nước biển nằm giữa vòng vàng. Khi đó tất cả chúng tôi thường sẵn sàng lắng nghe, vì biết rằng chúng tôi sắp được nghe một bài diễn thuyết dài về điều đã làm cho ông hứng khởi. Đôi khi, đó là một bài thuyết trình về niềm tin cho rằng tương lai và sự cứu rỗi của thế giới này được tìm thấy trong một chiếc cối xay gió. Đôi khi, đó là lời giải thích rằng cả ba anh em chúng tôi nên học tiếng Nga, chỉ bởi vì thơ Nga quá hay.

Một lần, bố tôi đọc ở đâu đó nói rằng George Bernard Shaw có nguyện vọng dành số tiền của mình vào việc phát triển hệ ngữ âm quốc tế và ông yêu cầu vở Androcles và con hổ phải là vở kịch đầu tiên của ông được chuyển ngữ. Thế là sau đó, tất cả chúng tôi và những người bay cùng với bố tôi đã được nhận những cuốn Androcles. Người nhà tôi đồn rằng bố đã mua tới gần một trăm cuốn sách ấy để phân phát cho mọi người. Tính tình cởi mở của ông, mà tôi rất yêu thích, rất dễ lan sang mọi người. Cho tới tận bây giờ tôi vẫn phải mỉm cười mỗi khi nhớ tới việc bố tôi đọc to đoạn Androcles chữa trị vết thương ở vuốt hổ, còn những người lính thì hát to “Ném chúng cho hổ”, dựa theo điệu nhạc của “Tiến lên, Những người lính của Chúa”. Thỉnh thoảng bố tôi cũng diễn thuyết về tầm quan trọng sống còn của việc phiên âm quốc tế ngữ. Cho tới tận ngày nay tôi vẫn giữ một con ong nghệ to bằng sứ trong văn phòng của mình và nó cũng làm cho tôi phải bật cười mỗi khi nhớ tới cảnh bố tôi nhấc nó lên, đổ mật ong đầy đến miệng, rồi làm động tác cho nó bay trên không, giống như hàng loạt kỹ thuật bay phản lực khác nhau, trong đó có cả kiểu bay vòng xoắn mà bố tôi yêu thích và khá thành thục. Tất nhiên khi con ong bay chúc đầu xuống, thì mật ong trong đó đổ tràn lên bàn ăn. Mẹ tôi lại gào lên: “Ông tướng ơi, sao lại thế? Anh đang đầu têu cho bọn trẻ bắt chước đấy”. Chúng tôi khúc khích cười tán thưởng và mỗi lần như thế, con ong thế nào cũng bay thêm vài phút nữa.

Điều đó thực sự làm cho bố tôi thích thú. Nhiều năm sau, bố tôi tặng tôi một chiếc vòng tay, trên đó khắc câu nói của Micheal Faraday. Câu nói này cũng được khắc trong toà nhà vật lý của Trường Đại học UCLA: “Không có gì là quá phi thường tới mức không thể trở thành sự thật”. Ai cũng biết Faraday có rất nhiều phát minh, nhưng câu nói này của ông lại không chính xác. Dù vậy, tư tưởng trong câu nói này lại rất đáng yêu và cũng rất giống với tâm trạng của bố tôi mỗi khi ông phấn khích. Mẹ tôi nhiều lần nói rằng bà luôn cảm thấy bà chỉ là cái bóng của sự hóm hỉnh, hấp dẫn, say mê và đầy trí tưởng tượng của bố tôi. Bà nhận thấy rằng bố tôi có sức lôi cuốn kỳ lạ đối với bạn bè của tôi và những đứa trẻ hàng xóm của chúng tôi. Tuy nhiên, mẹ tôi luôn là người bạn tâm tình để bạn bè tôi có thể ngồi xuống trò chuyện. Tóm lại chúng tôi chơi với bố, nhưng nói chuyện với mẹ.

Mẹ tôi có một niềm tin tuyệt đối rằng trong cuộc sống điều quan trọng không phải là người ta được chia những con bài nào, mà là chơi những con bài đó như thế nào. Bà là con bài cao nhất mà tôi được chia. Bà là người tốt bụng, thẳng thắn và độ lượng. Bà là người rất tự tin, một sự tự tin được ông bà ngoại tôi nâng niu và chăm sóc. Bản thân ông bà ngoại tôi cũng là những người tốt bụng, thẳng thắn và độ lượng. Ông ngoại tôi qua đời trước khi tôi sinh ra. Ông là giáo sư đại học, mặc dù ông vốn được đào tạo để trở thành nhà vật lý. Xét dưới mọi khía cạnh, ông là một người hóm hỉnh và rất tốt bụng với cả các học trò lẫn đồng sự của mình. Bà ngoại tôi là một phụ nữ nồng hậu và chăm lo mọi việc. Giống như mẹ tôi, bà rất quan tâm tới mọi người, vì thế bà rất dễ kết bạn và có khả năng tuyệt vời trong việc làm dịu mối bận tâm của người khác. Mọi người bao giờ cũng tìm đến với bà, cũng như với mẹ tôi vậy, và họ không bao giờ bị từ chối nói chuyện vì lý do thiếu thời gian hay bận rộn.

Bà ngoại tôi không phải là một trí thức. Khác với ông tôi, người vẫn dành rất nhiều thời gian cho việc đọc sách, và đọc đi đọc lại nhiều lần các tác phẩm của Shakespeare và Twain, bà tham gia các câu lạc bộ. Là một người có năng khiếu tổ chức, bà luôn được bầu làm chủ tịch của bất cứ câu lạc bộ nào mà bà tham gia. Bà là một người bảo thủ, xét dưới nhiều góc độ, là thành viên của đảng Cộng hoàn thành viên của Hội Con gái các nhà cách mạng Mỹ và thích tham gia hội uống trà. Bố tôi không thích những chuyện này. Tuy nhiên, bà là một người hiền lành và kiên định. Bà thích mặc quần áo hoa, sơn móng tay và người lúc nào cũng nức mùi xà phòng thơm. Bà là một người nhân hậu, một người tuyệt vời.

Mẹ tôi, một người cao, gầy và xinh, luôn được mọi người yêu mến cả ở trong trường phổ thông lẫn trường đại học. Những bức ảnh trong album của bà cho thấy bà là một người hạnh phúc, thường được bạn bè vây quanh, chơi tennis, bơi, đánh kiếm, cưỡi ngựa và tham gia các hoạt động của hội nữ sinh. Bà có vẻ hơi kênh kiệu trong những bức ảnh chụp cùng những anh bạn khá đẹp trai. Những bức ảnh ấy được chụp vào những thời khắc khác nhau và trong những hoàn cảnh khác nhau, nhưng chúng đều cho thấy bà đã có một quãng đời rất thoải mái. Những bức ảnh ấy không hề báo trước những điều không may, không hề có nét u sầu hay phiền muộn và cũng không hề có dấu hiệu của một nội tâm không ổn định. Bà tin rằng nếu có một điềm báo nào đó thì nó phải thể hiện qua những bức ảnh ấy, cũng như bắt nguồn từ các thế hệ trước của bà, những người vốn tin cậy, kiên định, đáng trân trọng và có cuộc sống suôn sẻ.

Hàng thế kỷ ổn định ấy tích tụ trong gian của bà chỉ giúp bà phần nào trong việc chuẩn bị đối phó với những bất ổn và khó khăn mà mẹ tôi phải đương đầu khi rời ngôi nhà của ông bà ngoại để bắt đầu cuộc sống gia đình riêng. Tuy nhiên, chính với đức tính kiên định và quyết tâm giải quyết mọi việc, với tình yêu vô bờ và khả năng tuyệt vời trong việc học hỏi, lắng nghe và sẵn sàng thay đổi, mẹ tôi đã giúp tôi vượt qua những năm tháng đau đớn và đầy ác mộng sau này. Chắc chắn là bà không thể hình dung ra những khó khăn khi phải đương đầu với bệnh điên. Bà, cũng như tất cả chúng tôi, không ai sẵn sàng để đối phó với bệnh điên cả. Tuy nhiên, với tình yêu và lòng tốt bụng, bà đã đối phó với căn bệnh của tôi với tất sự đồng cảm và trí thông minh.

Cả bố và mẹ tôi cùng khuyến khích sở thích làm thơ, viết các vở kịch ở trường, theo đuổi khoa học và ngành y của tôi. Không ai ngăn cản những ước mơ của tôi và họ rất tinh tế trong việc nói cho tôi biết sự khác biệt của các giai đoạn mà tôi cần phải quyết tâm hơn để vượt qua. Tuy nhiên, trong hầu hết các giai đoạn tôi thường được họ khoan dung và nhân nhượng. Nhờ được hưởng tình yêu nồng nàn và mạnh mẽ này, mà tôi đã nghĩ rằng chúng tôi cần phải nuôi một con lười, như là một con vật yêu quý trong nhà. Mẹ tôi không nhiệt tình lắm với ý định nuôi một con vật hoang dã trong nhà. Bố tôi thì thuyết phục tôi tìm hiểu thêm sách khoa học và sách hướng dẫn về con lười. Ông gợi ý rằng, ngoài việc tìm hiểu những thông tin cụ thể về nhu cầu ăn uống, không gian cần thiết để lười sinh sống và những bệnh tật hay mắc của nó, tôi cũng nên viết một số bài thơ về con lười và những bài luận văn về nó, thiết kế nơi nuôi nó trong ngôi nhà của chúng tôi và viết ra những chi tiết về hành vi của con lười trong vườn bách thú. Ông nói, nếu tôi làm được tất cả những việc ấy, bố mẹ sẽ xem xét việc tìm mua cho tôi một con lười.

Tôi tin rằng cả hai người đều biết đây chỉ là ý tưởng kỳ quặc của tôi mà thôi và nếu tạo được cho tôi cách khác để thể hiện lòng nhiệt tình của mình, thì có thể tôi sẽ không đòi hỏi nữa. Tất nhiên là họ đã đúng và điều này chỉ đẩy tôi tới chỗ phải quan sát kỹ hơn những con lười trong vườn bách thú mà thôi. Tôi chưa từng gặp bất cứ điều gì buồn chán hơn là ngắm nghía một con lười, ngoại trừ xem môn thể thao cricket hay theo dõi cuộc họp của Ủy ban Phân bổ Ngân sách Hạ viện trên kênh truyền hình C-SPAN. Và tôi chỉ cảm thấy dễ chịu khi trở về với thế giới của con chó tôi đang nuôi.

Tuy nhiên, niềm say mê y học của tôi là bền vững hơn và bố mẹ tôi cũng khuyến khích tôi trong việc này. Khi tôi khoảng 12 tuổi, họ mua về cho tôi công cụ giải phẫu, một chiếc kính hiển vị và cuốn Thuật giải phẫu của Gray. Cuốn sách này rất phức tạp, nhưng nó giúp tôi hình dung ra y học thực tế ra sao. Thế là chiếc bàn bóng bàn trong tầng hầm trở thành phòng thí nghiệm của tôi và chiều nào tôi cũng miệt mài ở đó mổ xẻ những con ếch, cá, giun và rùa. Chỉ đến khi tôi chuyển sang nghiên cứu những loài động vật cao hơn và được người ta cho một bào thai lợn, mà cái mõm nhỏ bé và bộ lông của nó cuối cùng đã làm cho tôi mệt lả, tôi mới chịu chia tay với thế giới phẫu thuật. Các bác sỹ trong bệnh viện Căn cứ không quân Andrew, nơi tôi làm tình nguyện viên giúp việc cho nữ hộ sinh vào những ngày cuối tuần, đã đưa cho tôi những con dao mổ, kẹp cầm máu, một số thứ khác nữa và cả những ống máu để tôi nghiên cứu thí nghiệm ở nhà. Điều quan trọng hơn là họ đã đón nhận tôi và cả sở thích của tôi một cách rất nghiêm túc. Họ chưa bao giờ làm cho tôi mất hứng thú trở thành bác sỹ, cho dù vào thời ấy, phụ nữ thường chỉ làm y tá. Họ cho tôi đi cùng để quan sát và thậm chí trợ giúp họ trong những ca phẫu thuật đơn giản. Tôi quan sát kỹ việc họ khâu vết thương, thay băng và lấy dịch tủy ở sống lưng. Tôi giữ dụng cụ, theo dõi vết thương và đã một lần được phép tự tay tháo chỉ khâu cho một bệnh nhân mổ ở vùng bụng.

Tôi tới bệnh viện từ rất sớm và trở về rất muộn, mang theo những cuốn sách và biết bao câu hỏi trong đầu: Nếu trở thành sinh viên y khoa thì sẽ ra sao? Khi sinh con thì thế nào nhỉ? Khi sắp chết thì thế nào? Tôi rất quan tâm tới những điều này, bởi vì một trong các bác sỹ đã cho phép tôi tham gia một phần của ca mổ tử thi, một việc kỳ lạ và khủng khiếp. Tôi đứng cạnh chiếc bàn mổ tử thi, cố gắng không nhìn vào thi thể nhỏ bé trần như nhộng của một đứa trẻ, nhưng không thể cưỡng lại nổi. Căn phòng sặc mùi khí ngửi. Chỉ có tiếng nước chảy và bàn tay thoăn thoắt của bác sỹ nghiên cứu bệnh học mới làm cho tôi lãng quên một chút. Cuối cùng, để tránh phải nhìn vào những gì tôi đang thấy, tôi tự đặt cho mình hết câu hỏi này đến câu hỏi khác và tự trả lời. Tại sao nhà nghiên cứu bệnh học lại thực hiện vết cắt này? Tại sao ông đeo găng tay? Những phần của cơ thể được cắt ra ấy sẽ đưa đi đâu? Tại sao có những bộ phận nặng, bộ phận khác lại nhẹ?

Lúc đầu đó chỉ là cách để tôi né tránh những điều khủng khiếp đang diễn ra trước mắt mình, nhưng sau đó, trí tò mò đã trở thành một động lực trong tôi. Tôi bắt đầu tập trung vào các câu hỏi và không nhìn vào thi thể đang bị mổ xẻ nữa. Kể từ đó, cũng như hàng nghìn lần sau này, trí tò mò đã đưa tôi đến chỗ tuy không hoàn toàn kiểm soát được cảm xúc của mình, nhưng nó đã cùng với những suy nghĩ khoa học, giúp tôi tạo ra được một khoảng cách cần thiết để xoay xở, làm chệch hướng sự chú ý, suy ngẫm và tiếp tục đi lên. 

Năm 15 tuổi, tôi cùng với nhóm tình nguyện viên trong bệnh viện đi St. Elizabeths, thăm bệnh viện tâm thần của liên bang ở thủ đô Washington. Chuyến đi ấy đã để lại trong tôi nỗi sợ hãi hơn nhiều so với khi chứng kiến mổ tử thi. Ngồi trên xe buýt đến bệnh viện, tất cả chúng tôi đều bồn chồn. Chúng tôi rúc rích cười và đưa ra những nhận xét rất tế nhị đối với nữ sinh, chỉ nhằm làm dịu đi nỗi băn khoăn của chúng tôi về những gì chưa biết và những gì mà chúng tôi tưởng tượng ra về thế giới của những người điên. Chúng tôi lo sợ về những người lạ lẫm, về bạo lực có thể xảy ra và cả những hành vi của những người hoàn toàn mất khả năng kiểm soát. “Mọi người rồi cũng đến St. Elizabeths cả thôi”, một người bạn của chúng tôi nói và mặc dù tôi không có bất cứ lý do gì để nghĩ rằng mình không minh mẫn, nhưng một nỗi sợ vô hình đã bắt đầu hiện lên trong trí óc tôi. Cuối cùng tôi bị rơi vào một cảm xúc thật khủng khiếp. Mặc dù thỉnh thoảng tâm trạng này mới bùng lên, nhưng mỗi khi xuất hiện, nó lại làm cho tôi hoảng sợ. Đó chỉ là một vết nứt, nhưng rất tồi tệ, giống như vết nứt trên vỏ bình chân không, trong cách hành xử của tôi. Chỉ có Chúa mới biết điều gì đang diễn ra dưới lớp vỏ hành xử nghiêm túc và kiềm chế theo đúng những gì được dạy dỗ của tôi. Tuy nhiên, tôi biết rằng vết nứt đã xuất hiện và điều đó làm cho tôi hoảng sợ.

Bản thân bệnh viện không phải là quá dữ tợn như tôi hình dung. Sân bệnh viện rất rộng, khá đẹp và có nhiều cây to. Từ một vài điểm, người ta có thể nhìn thấy phong cảnh thành phố, dòng sông và những ngôi nhà mang dáng vẻ thanh lịch của miền Nam được xây từ trước nội chiến, mà có thời chúng là một phần của thủ đô Washington. Tuy nhiên, khi bước vào các khoa, cảm giác các công trình quý phái và phong cảnh đẹp đẽ vừa tạo ra ấy đã hoàn toàn biến mất. Những hình ảnh, âm thanh rùng rợn và mùi hôi hám mất vệ sinh đã ngay lập tức ập tới. Ở Andrew, tôi thấy có nhiều y tá trong các khoa điều trị và phẫu thuật, nhưng y tá trưởng dẫn chúng tôi đi tham quan cho biết, ở St. Elizabeths mỗi nhân viên phải phụ trách tới 90 bệnh nhân tâm thần. Sửng sốt trước việc một người phải quản lý quá nhiều bệnh nhân có thể gây bạo lực bất cứ lúc nào, tôi liền hỏi làm thế nào để các nhân viên bệnh viện có thể tự bảo vệ mình. Bà y tá trưởng cho biết hầu hết bệnh nhân có thể kiểm soát được bằng thuốc, nhưng khi cần người ta phải trói họ lại. “Trói họ lại?”! Làm sao người ta lại có thể bị mất khả năng kiểm soát tới mức phải bị kiềm chế bằng hình thức dã man đến thế? Điều ấy cứ ám ảnh tôi mãi.

Tệ hại hơn nữa, khi chúng tôi bước vào phòng công cộng của khoa bệnh nhân nữ, các đứng lặng nhìn chúng tôi, với những dáng vẻ kỳ bệnh nhân trong những bộ quần áo kỳ quái, dị, tiếng giậm chân bồn chồn, những tiếng cười lạ lẫm và thỉnh thoảng cả những tiếng thét xé lòng. Một phụ nữ đứng như một con cò, một chân co lên, cười rúc rích một mình rất ngớ ngẩn trong suốt thời gian tối ở đó. Một bệnh nhân khác, mà có thời chắc phải rất xinh đẹp, đứng ở giữa phòng công cộng nói chuyện một mình, hết tết vào rồi lại tháo ra mái tóc dài, hung đỏ của mình. Đôi mắt lanh lợi của chị theo dõi rất nhanh mọi cử động của bất kỳ ai có ý định tiến đến gần chị. Lúc đầu chỉ làm cho tôi sợ, nhưng chị cũng kích thích trí tò mò của tôi. Tôi từ từ tiến đến gần chị. Cuối cùng, sau khi đứng cách chị gần một mét trong vài phút, tôi lấy hết can đảm hỏi tại sao chị lại phải vào viện. Lúc đó, tôi liếc qua khoé mắt và thấy tất cả các tình nguyện viên đã túm lại nói chuyện với nhau ở một góc xa của căn phòng. Tuy nhiên, tôi vẫn quyết định đứng nguyên đó với chị. Trí tò tò đã chiến thắng nỗi sợ hãi trong tôi.

Nữ bệnh nhân ấy nhìn khắp người tôi khá lâu. Sau đó, chị quay mặt đi để khỏi phải nhìn thẳng vào tôi và giải thích lý do chị phải vào St. Elizabeths. Chị nói, bố mẹ chị đã nhét một cỗ máy bắn bi vào đầu chị, khi chị mới năm tuổi. Viên bị đỏ cho chị biết khi nào thì nên cười, viên bị xanh thì nhắc chị khi nào cần im lặng và tránh xa mọi người, còn viên bi màu xanh lá cây thì mách chị phải nhận mọi thứ với ba. Cứ vài ngày, viện bi bạc lại chui được vào cỗ máy. Nói đến đây chị quay đầu lại nhìn chằm chằm vào tôi. Tôi nghĩ có lẽ chị muốn kiểm tra xem tôi có còn nghe chị nói hay không. Tất nhiên là tôi vẫn đang lắng nghe. Làm sao lại có thể không được chứ? Toàn bộ câu chuyện nghe có vẻ kỳ lạ, nhưng có cái gì đó ẩn chứa ở phía sau. Tôi hỏi chị, viên bị bạc có nghĩa gì? Chị nhìn tôi chăm chú, rồi tất cả dường như chết cứng trong con mắt của chị. Đôi mắt chị mơ màng nhìn vào khoảng không, như trở lại với thế giới nội tâm của mình. Thế là tôi không bao giờ biết được viên bi bạc có nghĩa gì đối với chị.

Mặc dù như bị thôi miên, tôi vẫn hoảng sợ trước những hành vi kỳ dị của các bệnh nhân và bầu không khí khủng khiếp trong căn phòng.

Tuy nhiên, mạnh hơn cả nỗi sợ hãi ấy là nỗi đau. biểu lộ qua ánh mắt của người phụ nữ ấy. Trong tôi, có một cái gì đó xuất hiện theo bản năng và thật kỳ lạ, tôi hiểu được nỗi đau ấy. Tôi không thể hình dung được rằng tới một ngày nào đó, tôi lại nhìn thấy nỗi buồn và sự điên rồ của họ trong chính mắt mình qua gương.

Trong suốt thời thiếu nữ, tôi may mắn được mọi người, không chỉ có bố mẹ tôi và các bác sỹ ở Andrew, mà cả bạn bè của bố mẹ tôi nữa, đã khuyến khích nguyện vọng theo ngành y và khoa học của tôi. Hầu hết các gia đình trong Đội Khí tượng Không quân được bố trí ở ngay trong căn cứ quân sự và một gia đình ở sát căn hộ của chúng tôi đã có quan hệ rất gần gũi với gia đình tôi. Chúng tôi đi cắm trại cùng với nhau, đi nghỉ cùng với nhau, thuê chung người phục vụ và cả mười người chúng tôi vẫn thường cùng nhau kéo đến rạp xem phim, đi ăn tối, tới dự tiệc hay đến Câu lạc bộ sỹ quan. Hồi trẻ, anh tôi, chị tôi và tôi vẫn chơi trò trốn tìm với ba cậu con trai của họ. Khi lớn lên, chúng tôi cùng chơi bóng chày, đến lớp học khiêu vũ, túm tụm ăn uống với nhau và cùng tổ chức những bữa tiệc ngoài trời. Khi trưởng thành, tất nhiên chúng tôi mỗi người mỗi  ngả, nhưng trong suốt thời niên thiếu, chúng tôi luôn đi cùng nhau, ở Washington rồi Tokyo và sau đó trở lại Washington. Mẹ của họ là một phụ nữ Ailen, có mái tóc đỏ, và theo đạo Thiên Chúa. Bà nhiệt tình, vui vẻ, sôi nổi, tự lập và thực tế. Bà đã mang lại cho tôi gia đình thứ hai. Tôi có thể ra vào nhà họ bất cứ lúc nào, như nhà mình vậy, ở lại đó bao lâu tùy thích, để tận hưởng mùi bánh nướng và bánh táo, để sưởi ấm, để cười, và để nói chuyện hàng giờ liền. Bà và mẹ tôi thực sự là những người bạn tốt nhất của nhau. Tôi luôn có cảm giác như mình là một đứa con của bà vậy. Bà là một y tá. Bà chăm chú lắng nghe tôi kể lể dài dòng về những kế hoạch to lớn của mình, nào là học ở trường y, viết sách và nghiên cứu. Thỉnh thoảng bà lại chen vào một câu, đại loại như “Đúng, đúng, rất hay”, “Tất nhiên là cháu có thể” hay “Đã bao giờ cháu nghĩ tới...?”. Không bao giờ bà nói với tôi những câu đại loại như “Bác không nghĩ cháu có thể thực hiện được điều đó”, hay “Tại sao cháu không chờ xem tình hình ra sao đã?”.

Chồng bà, một nhà toán học và khí tượng học, cũng rất chu đáo. Ông luôn hỏi tôi bài tập gần đây nhất là gì, tôi đang đọc cuốn sách gì, con vật mà tôi vừa mổ xẻ là gì và tại sao. Ông nói chuyện với tôi một cách rất nghiêm túc về khoa học và y học và luôn khuyến khích tôi đi càng xa càng tốt trong thực hiện các kế hoạch hay ước mơ của mình. Giống như bố tôi, ông rất yêu khoa học tự nhiên. Bằng cách của riêng mình, ông có thể giải thích rất dài về lý do tại sao vật lý, triết học và toán học lại có thể làm cho các bà vợ phải ghen tị, vì không được chồng toàn tâm yêu thương và chăm sóc. Chỉ đến bây giờ, khi nhìn lại - với những trải nghiệm trong những năm sau này của cuộc đời, khi người ta khuyên tôi hạ thấp ước vọng, hay kiềm chế bớt sự nhiệt tình của mình - tôi mới hiểu đầy đủ ý nghĩa thái độ nghiêm túc của bố mẹ tôi và bạn bè của họ đối với những ý tưởng của tôi. Cũng chỉ đến bây giờ tôi mới hiểu được những ý tưởng và lòng nhiệt tình của tôi, không chỉ được tôn trọng, mà còn được khuyến khích, đã có ý nghĩa quan trọng tới mức nào đối với tri thức và tâm hồn tôi. Đối với những người có tính tình sôi nổi, ước mơ của họ rất dễ bị bóp chết nếu không được quan tâm. Tôi thật may mắn khi được lớn lên giữa những người luôn biết khuyến khích người khác. Vì thế nói chung là tôi rất hài lòng với cuộc sống của mình. Tôi đã có những người bạn vĩ đại, một cuộc sống đầy ắp những hoạt động như bơi, cưỡi ngựa, chơi bóng chày, tiệc tùng, những người bạn trai, những mùa hè ở Chesapeake và mọi sự khởi đầu tốt đẹp khác của cuộc đời. Tuy nhiên, giữa tất cả những điều ấy, tôi cũng dần nhận ra rằng một người con gái mạnh mẽ và trong chừng mực nào đó là đồng bóng như tôi, là không phù hợp lắm với thế giới mang nặng tính truyền thống của quân đội. Tính độc lập, sôi nổi và yểu điệu thục nữ dường như là không thích hợp lắm. Người ta cho rằng con cái của các sỹ quan phải biết cư xử khéo léo, phải biết khiêu vũ, đeo găng tay trắng và phải đáp ứng một số tiêu chuẩn không thực tế khác nữa. Người ta cũng cho rằng bọn trẻ cần phải học, cứ như là trước tuổi 14-15 chúng chẳng biết chuyện gì rõ ràng cả, để biết rằng cấp tướng cao hơn cấp đại tá, đại tá cao hơn thiếu tá, đại úy và trung úy, và tất cả mọi người, vâng tất cả mọi người, đều trên trẻ con. Còn trong đám trẻ con, thì bọn con trai trên con gái.

Một trong những lí do nhồi sọ vào đầu bọn con gái thứ tự phân hạng khó chịu này là để dạy cho chúng biết nghệ thuật nhún gối cúi chào cổ lỗ sĩ và vô lý. Thật khó có thể tưởng tượng được một người con gái có đầu óc minh mẫn nào lại có thể chịu đựng được việc nhún gối cúi chào. Do thừa hưởng cách giáo dục tự do của người bố có quan điểm và lối sống không theo khuôn phép, nên tôi rất bất ngờ khi được yêu cầu một cách nghiêm túc phải học cách nhún gối cúi chào. Đó là điều ngoài sức tưởng tượng của tôi. Tôi đứng nhìn một hàng dài bọn con gái mặc váy phồng lần lượt thực hiện động tác nhún gối cúi chào một cách thuần thục. Đàn cừu, tôi nghĩ, đúng là giống như một đàn cừu. Rồi đến lượt tôi. Một cái gì đó trong tôi như sôi lên. Tôi đã nhiều lần nhìn thấy quá nhiều đứa con gái phải thể hiện sự phục tùng. Điện tiết hơn nữa là tôi đã quá nhiều lần nhìn thấy quá nhiều đứa con gái sẵn sàng chấp nhận nghi thức phục tùng ấy. Tôi từ chối. Trong những thế giới khác, đó có thể chỉ là chuyện nhỏ, nhưng trong thế giới của những tập quán và nghi lễ quân đội - nơi cấp hàm và chấp hành là tất cả và thái độ cư xử không đúng mực của con cái có thể ảnh hưởng xấu tới cơ hội thăng tiến của người cha - thì hành động của tôi là một lời tuyên chiến. Từ chối yêu cầu của người lớn, cho dù đó là yêu cầu ngớ ngẩn, cũng là không thể chấp nhận được. Cô Courtnay, giáo viên dạy khiêu vũ của chúng tôi, quắc mắt. Tôi vẫn từ chối. Cô nói, cô tin rằng Đại tá Jamison (bố tôi) sẽ rất không hài lòng vì việc này. Tôi nói, tôi cũng tin rằng Đại tá Jamison sẽ không quan tâm tới chuyện này. Tôi đã sai. Đại tá Jamison lại quan tâm tới chuyện này. Mặc dù ông nghĩ rằng việc dạy bọn con gái phải nhún gối cúi chào các sỹ quan và phu nhân của họ là vô lý, nhưng ông rất quan tâm tới việc tôi đã tỏ ra thô lỗ với người khác. Tôi xin lỗi. Sau đó bố tôi và tôi thỏa hiệp với nhau về động tác nhún gối cúi chào, đó là tôi có thể khẽ nhún gối và hơi thấp mình xuống một chút. Đó là giải pháp tốt và cũng là một trong những cách giải quyết khéo léo đặc trưng của bố tôi trong những tình huống khó xử.

Tôi không hài lòng với việc phải cúi chào, nhưng lại yêu thích vẻ đẹp trang nhã của bộ váy phồng, thích âm nhạc, thích khiêu vũ và yêu vẻ đẹp của những đêm vũ hội. Cho dù tôi thích độc lập đến đâu chăng nữa, thì cuối cùng tôi cũng nhận ra rằng tôi luôn bị lôi kéo vào thế giới truyền thống ấy. Người ta luôn có cảm giác an toàn đến tuyệt vời khi sống trong môi trường quân đội giữa những bức tường rào. Trong thế giới ấy, người ta trông đợi ở bạn rất nhiều, và rất ít lời bào chữa. Đó là một xã hội mà người ta tin một cách vô tư vào sự công bằng, danh dự, lòng dũng cảm và tinh thần sẵn sàng hi sinh vì đất nước. Quả thật là thế giới ấy đòi hỏi người ta phải trung thành, mà trong chừng mực nào đó là  mù quáng, coi đó như một điều kiện để trở thành thành viên của thế giới ấy. Tuy nhiên, nó cũng tha thứ, như bắt buộc phải thế, cho những thanh niên trẻ trung, mạnh mẽ, mà viển vông, những người sẵn sàng chấp nhận rủi ro bằng chính cuộc sống của họ. Nó cũng tha thứ cho các nhà khoa học ít tuân theo những quy tắc xã hội. Nhiều người trong số họ là các nhà khí tượng học và hầu hết trong số họ cũng yêu thích bầu trời như những phi công vậy. Đó là một xã hội được xây dựng trên mâu thuẫn giữa lãng mạn và nguyên tắc. Đó là một thế giới phức tạp của sự phấn khích và tự mâu thuẫn, của cuộc sống vội vã và cái chết bất ngờ. Nó là một cửa sổ đưa người ta trở lại với lối sống của thế kỷ 19, với tất cả sự tốt đẹp và tệ hại nhất của nó, đó là nét văn minh, sự lịch thiệp, sự thông thái, nhưng không dung thứ cho bất cứ một nhược điểm nào của con người. Ở đó người ta phải sẵn sàng hy sinh ước vọng của riêng mình, phải tự kiểm soát được mình và phải biết kiềm chế.

Một lần mẹ tôi kể cho tôi nghe chuyện bà tới dự tiệc trà ở nhà viên sỹ quan chỉ huy của bố tôi. Một trong những vai trò của bà là nói với các cô vợ trẻ về mọi chuyện, từ phép xã giao, như làm thế nào để phục vụ một bữa tiệc tối chu đáo, cho  đến việc tham gia vào các hoạt động cộng đồng trong căn cứ không quân. Sau một hồi thảo luận về tất cả những vấn đề này, bà quay về với chủ đề thiết thực nhất. Bà nói, các phi công không bao giờ được bực tức hay khó chịu khi bay. Bực tức có thể dẫn tới lầm lẫn trong đánh giá tình hình hay mất tập trung. Khi đó tai nạn có thể xảy ra và phi công có thể bị chết. Vợ của các phi công không nên tranh cãi với chồng trước giờ họ bay. Vì thế, điềm tĩnh và kiềm chế không chỉ là đức tính nên có, mà còn rất cần thiết ở người phụ nữ.

Như mẹ tôi sau này nói, thật tệ hại khi lo mình bị ốm mỗi khi chồng leo lên máy bay. Nay bà lại được nhắc nhở rằng bà sẽ chịu một phần trách nhiệm nếu máy bay của chồng không may gặp nạn. Để chồng khỏi bị chết, mọi bực bội và bất bình của người phụ nữ phải được nén lại trong lòng mình. Quân đội vẫn thường dành cho các bà vợ lịch thiệp, quý phái và điềm đạm của mình vai trò to lớn hơn so với phần còn lại của xã hội.

Nếu trong những ngày tương đối bình lặng, với những đôi găng tay trắng và mũ rộng vành ấy, bạn nói với tôi rằng chỉ trong vòng hai năm nữa tôi sẽ bị rối loạn tâm thần và chỉ muốn chết, thì chắc chắn là tôi sẽ cười ngất và rất ngạc nhiên.

Sau đó, đúng vào lúc tôi bắt đầu quen với sự thay đổi và những nghịch lý của quân đội, và lần đầu tiên tôi cảm thấy gia đình tôi có lẽ sẽ sống lâu dài ở Washington, thì bố tôi xin nghỉ hưu và nhận một công việc, với tư cách là nhà khoa học, trong Tập đoàn Rand ở California. Đó là năm 1961, khi tôi 15 tuổi. Mọi thứ trong thế giới của tôi bắt đầu tan vỡ.

Ngày đầu tiên ở trường trung học Pacific Palisades - mà chương trình dành cho con cái của các quân nhân đã bị chậm lại vài tháng so với ngày khai trường của những học sinh khác - đã cho tôi thấy rằng cuộc sống của tôi sẽ hoàn toàn khác. Nó được bắt đầu bằng thủ tục thông thường đối với những học sinh chuyển trường, đó là tôi phải đứng trước lớp, toàn những khuôn mặt lạ lẫm, giới thiệu tóm tắt về mình trong ba phút. Việc này vốn đã khó ở các trường của con em quân nhân, nó lại càng trở nên ngớ ngẩn khi đứng trước nhóm người miền Nam California giàu có và vô tình. Ngay khi tôi giới thiệu bố tôi đã từng là một sĩ quan không quân, tôi nhận ra rằng có vẻ như tôi vừa giới thiệu ông là con chồn sương hay con sa giông Carolina vậy. Cả lớp lặng ngắt. Ở trường Pacific Palisades này chỉ có con cái của những người đang làm việc trong “ngành công nghiệp” (nghĩa là ngành làm phim), những người giàu có, các luật sư, các nhà doanh nghiệp hay các bác sỹ thành đạt, mới được công nhận mà thôi. Hiểu biết của tôi về “trường dân sự đã rõ nét hơn sau những tràng cười phá lên mỗi khi tôi nói “Vâng, thưa bà” và “Không, thưa ông với các thầy cô giáo.

Tôi cảm thấy như bị trôi dạt trong một khoảng thời gian khá dài. Tôi nhớ Washington khủng khiếp. Tôi đã để lại phía sau một người bạn trai và luôn cảm thấy bất hạnh khi không có anh. Anh có mái tóc vàng hoe, mắt xanh, hài hước và thích khiêu vũ. Chúng tôi đã hầu như không rời nhau trong những tháng trước khi tôi rời Washington. Tôi đã giới thiệu anh với gia đình và giống như hầu hết những người ở độ tuổi 15 khác, tôi tin rằng tình yêu của chúng tôi sẽ tồn tại mãi mãi. Tôi cũng để lại phía sau cuộc sống đầy ắp những bạn bè tốt, mối quan hệ gần gũi giữa các gia đình, tình người nồng ấm và những tiếng cười. Tôi cũng để lại phía sau những truyền thống của quân đội mà tôi đã biết và yêu quý và một thành phố mà tôi đã coi như quê hương. Quan trọng hơn nữa là tôi đã để lại phía sau lối sống nhà binh bảo thủ, mà tôi đã biết từ lâu. Tôi đã từng đi mẫu giáo, nhà trẻ và hầu hết những năm tiểu học ở các căn cứ không quân và lục quân. Những năm trung học cơ sở và trung học phổ thông của tôi ở Maryland, tuy không phải là trong căn cứ quân sự, nhưng học sinh ở đó chủ yếu là con cái của các nhà binh, quan chức chính quyền hay các nhà ngoại giao. Đó là một thế giới nhỏ, ấm cúng, không bị đe dọa và tách biệt. Đối với tôi, California hay ít nhất là ở trường Pacific Palisades, cuộc sống khá lạnh nhạt và hào nhoáng. Tôi gần như mất hết chỗ bấu víu. Mặc dù tôi đã cố gắng nhanh chóng hoà nhập với ngôi trường mới và kết bạn với những người bạn mới - mà cả hai việc này đối với tôi là khá dễ dàng sau biết bao lần chuyển trường - tôi vẫn cảm thấy vô cùng bất hạnh. Tôi thường ngồi khóc và dành nhiều thời gian để viết thư cho bạn trai. Tôi giận bố vì ông nhận việc ở California, thay vì ở lại Washington. Tôi mong ngóng những cú điện thoại hay những lá thư của bạn bè. Ở Washington tôi luôn là lãnh đạo lớp, hay đội trưởng của hầu hết những đội mà tôi tham gia. Ở đó tôi cũng hầu như không phải cạnh tranh nhiều lắm về học vấn, còn những bài tập về nhà thì chán ngắt, học vẹt và chẳng cần phải cố gắng gì nhiều. Trường trung học Palisades lại hoàn toàn khác. Các môn thể thao khác hẳn, mà tôi chẳng biết môn nào cả, và phải khá lâu sau tôi mới nhập cuộc được. Đáng ngại hơn nữa là sự cạnh tranh về học vấn rất gay gắt. Tôi bị tụt lại phía sau trong hầu hết các môn học. Lúc nào tôi cũng phải đuổi theo các bạn và tôi nghĩ có lẽ chẳng bao giờ tôi đuổi kịp họ. Một mặt, tôi phấn khởi vì được sống giữa những học sinh thông minh và đầy sức cạnh tranh, nhưng mặt khác, và đây là điều mới, nó cũng làm cho tôi xấu hổ và rất chán nản. Việc thừa nhận vốn kiến thức và khả năng rất hạn chế của mình là điều chẳng dễ dàng gì. Tuy nhiên, cuối cùng tôi cũng dần hoà nhập được với ngôi trường mới, thu hẹp dần khoảng cách kiến thức với các bạn và kết thân với những người bạn mới.

Cho dù thế giới mới này rất lạ lẫm đối với tôi, và tôi cũng lạ lẫm với nó, nhưng rồi tôi cũng tìm được cách làm quen với thế giới ấy. Sau những cú sốc ban đầu, tôi thấy hầu hết những gì trường đều đáng học hỏi, trong đó có cả những bài học ở ngay trong lớp của tôi. Tôi mê các cuộc thảo luận rất mạch lạc của các bạn trong lớp mới của tôi. Hầu hết các bạn đều có ít nhất một, thậm chí hai, ba bố dượng, hay mẹ kế, tùy theo số lần li dị trong gia đình. Các bạn tôi có nguồn tài chính rất đáng kể. Nhiều người đã quá quen thuộc với tình dục, tới mức họ có thể dạy tôi nhiều điều thú vị. Bạn trai mới của tôi, đang học đại học, dạy tôi nốt phần còn lại. Anh là sinh viên của trường UCLA, nơi tôi làm việc tình nguyện trong những ngày nghỉ cuối tuần ở khoa dược. Anh cũng là tất cả những gì mà tôi nghĩ là cần có vào thời điểm ấy. Anh nhiều tuổi hơn tôi, đẹp trai, chưa kết hôn, say mê tôi, có xe ô tô riêng và giống như người bạn trai trước của tôi, rất thích khiêu vũ. Mối quan hệ của chúng tôi kéo dài trong suốt những năm tôi học trung học và khi nhìn lại, tôi nghĩ đó là một cách để tôi thoát khỏi ngôi nhà của mình và thoát khỏi những điều rắc rối, giống như mọi cuộc tình lãng mạn khác.

Đó cũng là lần đầu tiên tôi biết WASP1*nghĩa là gì, lần đầu tiên tôi biết mình là một WASP và WASP là một sự pha trộn của cả những điều may mắn lẫn không may. Trước khi tới California tôi chưa bao giờ nghe thấy thuật ngữ này. WASP nghĩa là một người bảo thủ, hay nghiến răng, cứng nhắc, không có khiếu hài hước, lạnh lùng, vô duyên, chán ngắt và không sắc sảo lắm, nhưng lại làm cho mọi người phải ghen tị, vì một lý do không thể giải thích được nào đó. Khi ấy, cũng như cho tới tận ngày nay, đó vẫn là một khái niệm lạ lẫm đối với tôi. WASP trực tiếp góp phần tạo ra sự phân tách về mặt xã hội ở trong trường. Những ai thích ra bãi biển vào ban ngày và đi dạ hội vào ban đêm, thì có xu hướng WASP. Một nhóm khác, có vẻ hờ hững hơn và mệt mỏi hơn thì có xu hướng theo đuổi tri thức. Tôi dường như bị trôi giạt giữa hai thế giới này. Về cơ bản tôi thấy thoải mái trong cả hai thế giới ấy, nhưng vì những lí do khác hẳn nhau. Thế giới WASP tạo ra một mối liên hệ mong manh, nhưng quan trọng với quá khứ của tôi. Tuy nhiên, thế giới tri thức lại là thành phần ngày càng bền vững trong những trải nghiệm của tôi và tạo ra nền tảng vững chắc cho tương lai học vấn của tôi.

*WASP viết tắt từ chữ tiếng Anh White Anglo – Saxon Protestant theo từ điển Lạc Việt nghĩa là người Anglo – Saxon da trắng theo đạo Tin lành (BT).

Quá khứ đúng là quá khứ. Thế giới thoải mái của quân đội và Washington đã trôi qua. Mọi thứ đã thay đổi. Anh trai tôi đã vào đại học trước khi chúng tôi chuyển tới California, tạo ra một lỗ hổng lớn trong mạng lưới an toàn của tôi.

Mối quan hệ của tôi với chị gái, vốn luôn khó khăn, nay càng khó chịu, thường đối nghịch nhau và nói chung là xa lánh. Chị tôi gặp nhiều trở ngại hơn trong việc thích ứng với môi trường sống ở California, nhưng chúng tôi hầu như không nói với nhau về chuyện này. Chúng tôi sống theo cách riêng và với tất cả những khác biệt mà chúng tạo ra, chúng tôi dường như đang sống trong những ngôi nhà khác nhau. Bố mẹ tôi tuy vẫn sống với nhau, nhưng về cơ bản họ đã bắt đầu xa cách. Mẹ tôi bận rộn với việc dạy học, chăm sóc tất cả chúng tôi và theo chương trình đại học. Bố tôi thì suốt ngày bận rộn với công việc khoa học của ông. Tâm trạng phấn khởi của ông đôi khi vẫn trỗi dậy và mỗi lần như thế, sự sắc sảo và vui vẻ của ông lại tạo ra bầu không khí sôi nổi và ấm cúng cho cả ngôi nhà. Đã có lúc ông cao hứng và ý tưởng của ông bắt đầu đụng chạm tới những giới hạn mà tập đoàn Rand có thể cho phép. Ví dụ, đã có lúc ông đưa ra ý tưởng xác định hệ số thông minh của hàng trăm người, mà hầu hết là đã chết. Lý do đưa ra là có thể chấp nhận được, nhưng nó lại mang nặng tính cá nhân và hoàn toàn không liên quan gì đến nghiên cứu khí tượng, công việc mà ông được tập đoàn Rand trả tiền để thực hiện.

Khi mà khả năng bay của bố tôi bắt đầu giảm xuống, thì bóng tối u sầu trong ông bắt đầu bộc lộ, giống như những khoảng lặng giữa đoạn nhạc vui vậy. Chỉ trong một năm kể từ khi chúng tôi chuyển tới California, tâm trạng của bố tôi đã ủ ê đi nhiều và tôi cảm thấy bất lực vì đã không thể làm cho ông vui lên. Tôi chờ đợi sự trở lại của những tiếng cười, tâm trạng phấn khích và sự nhiệt tình đến cao độ của ông, nhưng trừ đôi lần tái hiện hiếm hoi ra, chúng đã phải nhường chỗ cho sự tức giận, thất vọng và lùi bước. Chỉ sau một thời gian, tôi bàng hoàng nhận ra một con người khác trong ông. Có những lúc ông phiền muộn tới mức không muốn làm gì nữa, không ra khỏi giường và có cái nhìn vô cùng bi quan về cuộc đời và tương lai. Đã có lúc cơn thịnh nộ và tiếng quát tháo của ông làm tôi hoảng sợ. Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng bố tôi, một người thanh lịch và nói năng nhẹ nhàng, lại có thể quát to đến thế. Thế là bắt đầu những ngày, thậm chí hàng tuần, tôi cảm thấy sợ khi phải xuất hiện trong bữa sáng hoặc khi đi học về. Ông bắt đầu uống nhiều rượu và điều này đã làm cho mọi chuyện càng thêm tồi tệ. Giống như tôi, mẹ tôi cũng bắt đầu hoang mang và hoảng sợ. Thế là cả hai chúng tôi cùng tìm cách thoát ra khỏi cảnh này bằng cách dành nhiều thời gian hơn cho công việc và bạn bè. Thậm chí tôi còn chú ý nhiều hơn tới con chó của tôi. Gia đình tôi đã nuôi con chó lạc này khi chúng tôi sống ở Washington. Đi đâu tôi cũng cho nó đi theo. Tối cho nó ngủ trên giường với tôi và nó có thể lắng nghe tôi kể hàng giờ về những điều phiền muộn của mình. Giống như hầu hết những con chó khác, nó rất biết lắng nghe và nhiều đêm tôi đã khóc một mình, với đôi tay ôm cổ chó. Con chó ấy, cùng với người bạn trai của tôi và những người bạn khác đã giúp tôi vượt qua những sóng gió trong cuộc sống gia đình.

Không lâu sau đó, tôi phát hiện ra rằng không phải chỉ có bố tôi có tâm trạng ủ ê và không ổn định. Khi tôi 16-17 tuổi, tôi nhận thấy rằng sinh lực và sự phấn khích trong tôi có thể làm cho những người xung quanh phải mệt nhoài mới theo được, nhưng sau những tuần hứng khởi và ít ngủ, tâm trạng của tôi bỗng lao xuống phần tối tăm và ủ ê của cuộc đời. Hai người bạn thân nhất của tôi, cả hai đều là nam giới - khá hấp dẫn, hay nhạo báng, nhưng mạnh mẽ dường như cũng bị rơi vào góc tối hơn của cuộc đời. Chúng tôi bắt đầu trở thành bộ ba có nhiều rắc rối, cho dù chúng tôi cố xoay xở để có cuộc sống bình thường và vui vẻ ở trường. Cả ba chúng tôi đều đảm nhiệm những vai trò lãnh đạo khác nhau trong lớp, cùng tích cực tham gia thể thao và các hoạt động ngoại khoá của nhà trường. Trong những ngày đẹp trời, chúng tôi thường đi chơi với nhau như những người bạn thân. Chúng tôi cười đùa, rồi lại nghiêm trang, uống rượu và hút thuốc với nhau. Chúng tôi chơi suốt đêm và thảo luận sôi nổi với nhau về cuộc sống và những nguyên nhân dẫn đến cái chết. Chúng tôi cùng nghe nhạc của Beethoven, Mozart và Schumann. Chúng tôi trao đổi với nhau về thuyết hiện sinh của Hesse, Byron, Melville và Hardy. Cuối cùng, chúng tôi đã nói thật cho nhau nghe về những điểm tối trong lại lịch gia đình mình. Hai trong chúng tôi có người thân trong gia đình mắc bệnh hưng-trầm cảm, còn một người thì mẹ tự bắn vào tim. Cả ba chúng tôi cùng bắt đầu nhận thấy nỗi đau, mà sau này mỗi người trong chúng tôi đều biết rõ, đó là sự cô đơn. Đối với riêng tôi, nỗi đau ấy đã đến sớm hơn tôi tưởng.

Lần đầu tiên tôi bị mắc chứng hưng - trầm cảm là vào năm cuối của trường trung học phổ thông. Khi chứng trầm cảm xuất hiện, trí nhớ của tôi giảm đi rất nhanh. Lúc đầu, mọi chuyện dường như đơn giản. Tôi lao nhanh như một con chồn điên, hàng loạt kế hoạch nổi lên như bong bóng trong đầu, tâm trạng phấn khích, chơi thể thao rất hay, tỉnh táo suốt đêm, hết đêm này đến đêm khác, đi chơi với bạn bè, đọc bất cứ thứ gì, viết đầy sổ tay những bài thơ và những đoạn kịch và vạch ra hàng loạt kế hoạch viển vông cho tương lai. Thế giới tràn đầy hứng khởi và hy vọng. Tôi thấy thật tuyệt vời. Không chỉ cảm thấy tuyệt vời, tôi còn thấy thực sự tuyệt diệu nữa. Tôi có cảm giác rằng mình có thể làm bất cứ chuyện gì và không có nhiệm vụ nào là quá khó khăn cả. Đầu óc tôi minh mẫn, rất tập trung và có những bước nhảy đột biến về toán mà cho tới lúc ấy là vượt ra ngoài kiến thức toán của tôi. Thực tế là cho tới bây giờ tôi vẫn chưa đạt tới trình độ toán ấy. Vào lúc đó, không chỉ mọi thứ đối với tôi đều hoàn hảo, mà tôi còn bắt đầu năm bắt được những mối quan hệ vĩ đại của vũ trụ nữa. Sự say mê với những quy luật của thế giới tự nhiên như buộc tôi phải xì ra và tôi bỗng thấy mình hay níu kéo bạn bè lại để kể cho họ nghe về những vẻ đẹp của thế giới tự nhiên. Họ gần như sững sờ trước sự hiểu biết của tôi về vẻ đẹp và sự phức tạp của vũ trụ, nhưng họ cũng mệt mỏi với những câu chuyện huyên thuyên của tôi: Bạn nói nhanh quá, Kay. Chậm lại một chút nào, Kay. Bạn làm rách áo mình bây giờ, Kay. Chậm lại đi, Kay. Vào những lúc họ không nói ra, tôi vẫn nhận thấy điều ấy trong mắt họ: Lạy Chúa, chậm lại đi, Kay.

Cuối cùng tôi cũng chậm lại thật. Thực tế là đã phanh kít lại. Không giống như thời kỳ điên nặng và phát triển tới mức không kiểm soát được tâm thần vài năm sau đó, chứng điện nhẹ lần này của tôi chỉ thoảng qua và mang những nét đáng yêu của bệnh điên. Giống như hàng trăm lần phấn khích cao độ sau đó, thời gian mắc bệnh lần này ngắn và nhanh chóng tan biến. Có thể nó đã làm cho một số người bạn của tôi mệt mỏi và đương nhiên là làm cho tôi phấn chấn, mà kiệt sức, nhưng nó chưa làm đảo lộn quá mức. Sau đó, nền tảng tâm lý bắt đầu thoát dần ra khỏi cuộc đời và tâm trí tôi. Suy nghĩ của tôi không còn rõ ràng nữa và bắt đầu bị bóp méo. Tôi đọc đi, đọc lại nhiều lần một đoạn văn nào đó và nhận ra rằng mình không hề nhớ những gì vừa đọc. Bất cứ cuốn sách, hay bài thơ nào mà tôi cầm lên cũng đều thế cả. Thật không thể hiểu nổi. Tôi mất hết cảm giác. Tôi bắt đầu không hiểu những gì thầy cô giảng trên lớp và nhận ra rằng mình suốt ngày nhìn ra cửa sổ mà không biết những gì đang xảy ra chung quanh. Thật đáng sợ.

Tôi đã quen với suy nghĩ rằng tôi là người bạn tốt nhất của chính mình. Tôi quen với những cuộc tranh luận không bao giờ kết thúc trong đầu mình. Tôi cũng từng nghĩ rằng nguồn cơn sinh ra tiếng cười và khả năng phân tích có sẵn trong tôi đã giúp tôi vượt qua mọi hoàn cảnh buồn chán và đau khổ. Như một điều tất yếu, tôi tin vào sự sắc sảo, mối quan tâm và lòng trung thành của trí tuệ tôi. Nay đột nhiên trí tuệ của tôi quay sang chống lại tôi. Nó coi thường sự hăng hái vô vị của tôi. Nó cười nhạo trước tất cả các kế hoạch ngu xuẩn của tôi. Nó cũng chẳng tìm ra bất cứ điều gì thú vị, đáng tận hưởng hay đáng giá cả. Nó cũng không đủ khả năng tập trung trí nhớ, trong khi thỉnh thoảng lại quay sang suy nghĩ về cái chết: Tôi đang sắp chết, vậy có cái gì có thể làm thay đổi tình hình được không? Cuộc đời là ngắn ngủi và vô nghĩa, vậy tại sao lại phải sống? Tôi hoàn toàn kiệt sức và vô cùng hoảng sợ mỗi khi rời khỏi giường vào buổi sáng. Thời gian để tôi đi tới bất cứ đâu cũng nhiều gấp đôi so với bình thường. Tôi mặc đi, mặc lại nhiều lần một bộ quần áo và cũng mất rất nhiều thời gian để cân nhắc nên mặc bộ quần áo nào. Tôi sợ phải nói chuyện với mọi người và tránh gặp bạn bè nếu như có thể. Tôi ngồi trong thư viện nhà trường từ sáng sớm đến chiều tối, với sức ỳ ghê gớm, với trái tim chết cứng và bộ óc trợ như đất sét.

Mỗi sáng thức dậy tôi lại thấy vô cùng mệt mỏi. Tôi thấy xa lạ với chính mình. Tôi chán ngán và xa lạ với cuộc sống. Ngày hôm sau cũng thế. Sau đó tâm trí tôi tràn ngập cảm giác đen tối, trống trải, chỉ thấy toàn chết chóc và hủy hoại. Tôi thấy mọi thứ sinh ra đều chết đi, vì thế tốt nhất là nên chết ngay từ bây giờ để khỏi phải đau đớn. Tôi kéo lê tâm hồn và thể xác rũ rượi của mình quanh nghĩa địa của địa phương và suy tính xem các cư dân trong đó đã sống được bao lâu trước khi lìa đời. Tôi ngồi trên những nấm mộ viết những bài thơ dài, thê lương và ảm đạm. Tôi tin rằng tâm hồn và thể xác của tôi đang tan rữa và mọi người đều biết thế, nhưng chẳng ai chịu nói ra. Xen lẫn trong sự suy sụp đó là những cơn kích động điện cuồng và hoảng sợ, mà dù tôi có chạy bao nhiêu cũng không đủ để làm dịu nó xuống. Trong vài tuần, tôi phải pha rượu vodka vào nước cam để uống trước khi đi học, mà trong đầu vẫn luôn ám ảnh ý nghĩ tự tử. Tôi cố gắng tỏ ra bình thường, nên nghĩ rằng có lẽ ít người nhận ra sự khác biệt trong tôi. Không ai trong gia đình tôi nhận thấy sự khác biệt này. Hai người bạn của tôi tỏ ra lo ngại, họ đề nghị nói chuyện này cho bố mẹ tôi biết, nhưng tôi bắt họ phải thể giữ bí mật. Một giáo viên của tôi đã nhận ra và mẹ của một người bạn cũng kéo tôi sang một bên hỏi có chuyện gì không ổn xảy ra với tôi không. Tôi nói dối trơn tuột: Cháu khoẻ, cảm ơn bác đã quan tâm. 

Tôi không hiểu tại sao tôi lại có thể vượt qua mọi chuyện ở trường một cách bình thường. Có lẽ mọi người chỉ quan tâm đến cuộc sống của riêng mình mà ít để ý đến sự tuyệt vọng của người khác, nếu như nó được cố gắng che giấu. Tôi đã không chỉ cố gắng, mà còn rất nỗ lực để khỏi bị mọi người phát hiện. Tôi biết có chuyện gì đó rất không ổn đang xảy ra với tôi, nhưng không rõ đó là gì. Vả lại tôi luôn được dạy rằng hãy giữ kín những vấn đề của riêng mình. Việc che giấu tâm hồn mình với bạn bè và gia đình hoá ra lại quá dễ dàng, như Hugo Wolf đã viết: “Tôi xuất hiện trước mọi người một cách vui vẻ và nhiệt tình. Tôi cũng nói chuyện khá bình thường với những người khác. Nhìn bề ngoài có vẻ như tôi vẫn khoẻ. Chỉ có Chúa mới biết rằng tâm hồn tôi đang chết lặng đi và trái tim tôi đang rỉ máu từ hàng nghìn vết thương”.

Tôi đã không tránh được nỗi đau to lớn cả về trí óc lẫn tâm hồn một cú sốc khi không thể nắm bắt được những gì đang xảy ra quanh mình, khi biết suy nghĩ của mình đã hoàn toàn vượt ra ngoài tầm kiểm soát và khi nhận ra rằng tôi đã suy sụp tới mức chỉ muốn chết – và thời kỳ đó kéo dài vài tháng, trước khi những vết thương bắt đầu lành lại. Nay nhìn lại, tôi ngạc nhiên vì mình đã vượt qua được nó và vượt qua được bằng khả năng của chính mình. Tôi ngạc nhiên vì cuộc sống của tôi ở trường trung học đã trở thành sự pha trộn giữa cuộc sống vô cùng phức tạp với một cái chết có thể sờ mó được. Tôi trông già dặn hẳn đi trong những tháng ngày này, như người ta phải thế sau những mất mát to lớn, với cuộc đời tiến gần đến cái chết và với sự chở che ở xa đến thế.

Học tập vì cuộc sống

Năm 18 tuổi, ngần ngừ mãi tôi mới quyết định bắt đầu chương trình đại học ở Trường Đại học California ở Los Angeles (UCLA). Đó không phải là trường tôi muốn vào. Trong nhiều năm tôi đã giữ chiếc huy hiệu tráng men đỏ và vàng của Trường Đại học Chicago mà bố tôi cho trong hộp đồ trang sức của mình. Nó có một chiếc dây chuyền vàng nối liền hai phần của huy hiệu và tôi nghĩ là nó rất đẹp. Tôi muốn mình được quyền đeo chiếc dây chuyền ấy. Tôi muốn vào Trường Đại học Chicago vì đó là trường nổi tiếng về sự khoan dung, khuyến khích người ta phát triển và không cứng nhắc. Tôi muốn vào trường này còn vì cả bố tôi lẫn ông ngoại tôi, một nhà vật lý, đều đã nhận bằng cử nhân ở đây. Tuy nhiên, tôi không thể vào trường này vì lí do tài chính. Tính khí thất thường của bố tôi đã làm cho ông bị mất việc ở tập đoàn Rand. Vì thế, trong khi hầu hết bạn bè của tôi nộp đơn xin vào trường Harvard, Stanford hay Yale, thì tôi lại nộp đơn xin vào Trường Đại học California. Tôi vô cùng thất vọng. Tôi rất muốn được rời khỏi California, để sống cuộc sống của riêng mình và để vào một trường đại học nho nhỏ nào đó. Tuy nhiên, về lâu dài, UCLA lại là nơi thích hợp nhất đối với tôi. Trường Đại học California đã mang lại cho tôi một nền tri thức tuyệt vời, với phong cách riêng. Trường đã tạo cho tôi cơ hội nghiên cứu độc lập. Trường cũng dành cho chúng tôi những chiếc giường ngủ rất rộng, mà có lẽ chỉ có các trường đại học lớn mới có thể bảo đảm được cho sinh viên. Tuy nhiên, trường không tạo ra được một sự bảo vệ có ý nghĩa nào giúp tôi chống lại tâm trạng lo âu và những nỗi đau trong tâm hồn.

Tôi biết, những năm tháng ở trường đại học là quãng đời tốt đẹp nhất đối với nhiều người, nhưng nó lại là quãng thời gian không thể tưởng tượng nổi đối với tôi. Hầu hết khoảng thời gian đại học của tôi là những cuộc vật lộn khủng khiếp. Tâm trạng kích động và bạo lực cứ vài ba tuần, đôi khi vài tháng lại xảy ra, với tâm trạng phấn khích, say mê và hăng hái, vui vẻ lao vào thực hiện những công việc vô cùng vất vả. Trạng thái tâm lý và sinh lực thay đổi nhanh này có những nét quyến rũ riêng của nó, chủ yếu nhờ nó tái hiện được tâm trạng phấn khích mà tôi đã từng có ở trường trung học. Trạng thái này rất tuyệt vời, vì đầu óc tôi chứa đầy ý tưởng và tôi lại có thừa đủ sinh lực để ít nhất thì cũng hình dung được cách thực hiện những ý tưởng đó như thế nào. Những bộ đồ Brooks Brothers kín đáo mà bình thường tôi vẫn mặc nay bị bỏ qua, cổ áo của tôi trễ xuống và tôi sung sướng tận hưởng những khoái lạc của tuổi trẻ. Dường như tất cả đều quá đà. Thay vì mua một đĩa nhạc của Beethoven, tôi có thể mua tới chín đĩa. Thay vì đăng ký học năm lớp, tôi có thể ghi tên vào bảy lớp. Thay vì mua hai vé cho một buổi hòa nhạc nào đó, tôi có thể mua tới tám hoặc mười vé.

Một hôm, trong năm học đầu tiên, tôi đi bộ qua vườn nhiệt đới của UCLA, nhìn xuống con suối nhỏ chảy giữa vườn và đột nhiên nhớ tới một cảnh trong vở Những chuyện tình thơ mộng chốn đồng quê của Nhà Vua của Tennyson. Tôi nhớ tới người phụ nữ bên hồ. Bị thôi thúc bởi cảm giác cháy bỏng và khẩn cấp, tôi chạy ngay ra hiệu sách tìm mua một cuốn. Và tôi đã tìm được. Tuy nhiên, khi tôi rời nhà sách sinh viên, thì cánh tay tôi đã nặng trĩu với ít nhất 12 cuốn sách khác nữa. Một vài cuốn trong đó có liên quan đến thơ của Tennyson, nhưng nhiều quyển khác chỉ liên quan rất ít tới những truyền thuyết về Vua Arthur, như cuốn Người đàn bà của Arthur của Malory và Vị Vua một thời và mãi mãi của T.H. White. Tôi còn mua cả cuốn Cành Vàng, Vương quốc Xentơ, Những bức thư của Heloise và Abelard, sách của Jung, sách của Robert Grave, sách về Tristan và Isolde, tập truyện truyền thuyết và bộ sưu tập những chuyện kỳ thú của Xcốtlen. Khi đó tôi thấy tất cả những cuốn sách này dường như có liên quan với nhau. Không chỉ chúng có liên quan với nhau, mà còn cùng chứa đựng những yếu tố quan trọng về thế giới vũ trụ, mà tâm trí tôi bắt đầu bị cuốn hút vào. Tấn bi kịch của Arthur giải thích rất nhiều điều về bản chất con người, như sự đam mê, phản bội, bạo lực, khoan dung và khát vọng. Bị thôi thúc bởi nhu cầu tìm hiểu sự thật, tâm trí tôi bắt đầu đạn kết các nhân tố ấy lại. Khi mà tâm trí tôi đang bị hút vào các vấn đề của thế giới vạn vật, thì việc mua những cuốn sách trên đương nhiên là cần thiết. Thực tế là chúng có những mối quan hệ lôgích nhất định với nhau. Tuy nhiên, trong cuộc sống thực tế ít mơ mộng hơn, thì tôi lại không đủ khả năng đáp ứng nhu cầu mua tất cả những gì liên quan đến nó. Tôi phải đi làm từ 20 đến 30 giờ mỗi tuần để có tiền chi tiêu trong những năm đại học. Vào những lúc tâm hồn hứng khởi, các khoản chi của tôi dường như không có giới hạn. Điều tai hại là những tờ thông báo của ngân hàng về việc tôi chi quá tiền trong tài khoản lại luôn được gửi tới đúng vào lúc tôi rơi vào trạng thái trầm cảm, mà bao giờ cũng xảy ra sau những tuần cao hứng.

Giống như trong năm cuối cùng ở trường trung học, những bài tập bỗng trở nên đơn giản đối với tôi, trong thời kỳ hưng cảm. Trong những tuần này, các bài kiểm tra, bài tập thí nghiệm và những bài luận văn bỗng trở nên quá dễ dàng. Tôi cũng tham gia tích cực vào đủ mọi loại hoạt động chính trị và xã hội, từ hoạt động chống chiến tranh của ký túc xá, đến những hoạt động hơi quá khích, như biểu tình chống lại các công ty giết hại rùa biển để chế tạo mỹ phẩm. Một lần tôi còn đứng chặn cửa ra vào của một cửa hàng bách hoá địa phương, tay giơ cao tấm bích trương tự tạo, trên đó vẽ nghệch ngoạc hai con rùa biển đang nghiến răng bò trên cát, trên đầu có một vài ngôi sao - Tôi nghĩ bức vẽ ấy nói lên khả năng định hướng tuyệt vời của rùa biển - và dưới bức vẽ là dòng chữ lớn, viết bằng mực đỏ: “DA CỦA BẠN ĐANG LÀM MẤT DA CỦA RÙA BIỂN”.

Giống như hết ngày buộc phải đến đêm, tâm trạng hưng phấn của tôi rồi cũng đến lúc phải tan ra và đầu óc tôi như phanh kít lại. Tôi chẳng còn chút hứng thú nào với những bài tập ở trường, với bạn bè, đọc sách, đi chơi hay mơ mộng hão huyền nữa. Tôi không biết chuyện gì đã xảy ra, nhưng mỗi buổi sáng khi thức dậy, tôi có cảm giác vô cùng kinh hãi vì sắp phải trải qua một ngày dài đằng đẳng nữa. Tôi ngồi hết giờ này đến giờ khác trong thư viện của trường đại học, mà vẫn không lấy đủ dũng khí để vào lớp. Tôi ngồi đó, nhìn ra cửa sổ, rồi lại nhìn những cuốn sách của tôi, sắp xếp rồi đổi chỗ của chúng cho nhau mà không hề mở sách và nghĩ tới việc từ bỏ trường đại học. Cuối cùng, khi tôi bước vào lớp, tôi đi như không có chủ đích vậy. Tôi thấy vô vị và đau đớn. Tôi hiểu được rất ít những gì đang xảy ra ở xung quanh. Tôi có cảm giác rằng chỉ có cái chết mới giải thoát tội khỏi cảm giác nặng nề của sự kém cỏi và tồi tệ đang bao trùm quanh mình. Tôi thấy vô cùng đơn độc và cảm giác ấy càng nặng nề thêm khi tôi nhìn các bạn trong lớp trò chuyện với nhau như hoạt hình vậy. Tôi bắt đầu không trả lời điện thoại nữa và ngồi rất lâu trong bồn tắm nóng, với một hy vọng hão huyền rằng nó có thể giúp tôi thoát khỏi cái chết và sự buồn thảm.

Thỉnh thoảng, thời kỳ hoàn toàn suy sụp này trở nên tệ hại hơn, do tâm trạng rối bời. Đầu óc tôi vẫn lướt nhanh từ chủ đề này sang chủ đề khác, nhưng thay vì nảy sinh những ý tưởng đẹp đẽ và có trật tự như những lần suy nghĩ nhanh trước kia, tôi lại chỉ thấy toàn những âm thanh và hình ảnh kỳ quái của sự đổ nát và chết chóc. Đó là xác người chết trên bãi biển, xác động vật được hỏa thiêu và những thi thể chân đeo thẻ nhận dạng trong nhà xác. Vào những lúc tâm trí rối bời như vậy, tôi chỉ có một cách để làm dịu nó xuống, đó là chạy dọc bãi biển hoặc đi đi, lại lại trong phòng như một con gấu bắc cực trong vườn thú vậy. Tôi không biết chuyện gì đang xảy ra và tôi có cảm giác rằng tôi không thể nhờ ai giúp đỡ được. Nó không giống như tôi bị ốm, mà chỉ đơn giản là đầu óc tôi không tỉnh táo mà thôi. Cuối cùng, sau khi nghe một bài giảng về chứng trầm cảm trong chương trình tâm lý ngoại khoá, tôi đã tới phòng khám bệnh dành cho sinh viên, với ý định đề nghị được bác sỹ tâm thần khám bệnh. Tôi đã tới tận cầu thang của phòng khám bệnh, nhưng rồi tôi ngồi bệt xuống, bất lực, sợ hãi và xấu hổ, không lê nổi bước chân vào, nhưng cũng không đủ can đảm để bỏ đi. Tôi ngồi im đó, hai tay ôm đầu, khóc nức nở trong hơn một giờ đồng hồ. Sau đó, tôi bỏ đi và không bao giờ quay lại nữa. Cuối cùng sự suy sụp trong tôi cũng tự biến mất, nhưng cũng chỉ trong một thời gian vừa đủ để nó chuẩn bị cho một đợt tấn công mới.

Tuy nhiên, trong mỗi khúc tồi tệ của cuộc đời, tôi dường như lại được bù đắp bằng một sự may mắn nào đó. Một trong những lần như vậy đã xảy ra trong năm học đầu tiên của tôi ở trường đại học. Tôi đăng ký học chương trình tâm lý cá nhân của khoá trên. Giáo sư đã chỉ ra những cách đánh giá khác nhau về nhân cách và khả năng hiểu biết. Ông xòe những con bài Roarschach ra trước lớp và yêu cầu chúng tôi viết phản ứng của mình. Những năm thơ ấu ngắm nhìn mây trên trời và đuổi theo những hình ảnh của nó cuối cùng đã có ích. Đầu óc tôi hôm ấy như bay lên. Tôi chẳng biết Chúa đã lập trình sẵn những gì trong gien của tôi, mà tôi cắm đầu cắm cổ viết hết trang này sang trang khác. Nghĩ lại, tôi thấy đó là những phản ứng rất kỳ lạ. Lớp rất đông sinh viên nên bài trả lời của chúng tôi được chuyển dần lên trên để nộp cho giáo sư. Ông rút một cách ngẫu nhiên một số bài và đọc to cho cả lớp nghe. Giữa chừng, tôi nghe thấy một số đoạn trích quen quen và vô cùng ngạc nhiên khi nhận ra đó là bài viết của mình. Một số đoạn khá hài hước, nhưng một vài đoạn rất kỳ quái, hay ít nhất là tôi cảm thấy thế. Cả lớp cười, còn tôi thì xấu hổ, cúi mặt nhìn xuống chân mình.

Sau khi đọc xong những trang viết dày đặc của tôi, giáo sư yêu cầu người viết những phản ứng độc đáo này sau giờ học ở lại gặp ông. Tôi tin rằng là một nhà tâm thần học, có lẽ ông đã nhìn thấy các vấn đề tâm lý của tôi. Tôi hoảng sợ. Khi đó tôi nghĩ chắc ông đã thấy tôi là một người vô cùng căng thẳng, khá kiên quyết, nghiêm túc, nhưng có thể đang gặp nhiều chuyện phiền toái. Tôi nhận ra rằng mình đang vô cùng mất bình tĩnh và tôi nghĩ có lẽ ông cũng đã thấy rõ mọi chuyện của tôi. Ông đề nghị tôi cùng ông đi bộ về phòng làm việc của ông. Trong khi tôi đang có hình dung ra cảnh mình bị đưa vào khoa tâm thần của bệnh viện, thì ông nói, trong suốt thời kỳ dạy học của mình, chưa bao giờ ông gặp một bài luận có phản ứng sinh động” đến thế với Roarschach. Ông rất tốt bụng, gọi một vài ý tưởng của tôi là sáng tạo, trong khi tôi nghĩ rằng lẽ ra nó phải được gọi là tâm thần. Đó là bài học đầu tiên của tôi về giới hạn phức tạp và mong manh giữa những suy nghĩ kỳ quái và bình thường. Tôi bị đầy trí tuệ, khi ông coi những gì tôi viết ra là tích cực, hơn là những suy nghĩ bệnh hoạn.

Giáo sư hỏi lại lịch của tôi. Tôi nói với ông rằng tôi là sinh viên năm thứ nhất, muốn trở thành bác sỹ và tôi phải làm việc để có tiền học. Ông chỉ cho tôi quy định của trường đại học, theo đó tôi không được phép theo học chương trình của ông, bởi vì nó được dành cho sinh viên những năm cuối. Tôi nói, tôi biết quy định này, nhưng tôi thích học, vả lại quy định này dường như là rất tuỳ tiện. Ông cười phá lên. Tôi chợt nhận ra rằng cuối cùng tôi đã được sống trong môi trường, mà ở đó tính độc lập của tôi được tôn trọng. Đây không phải là cô Courtnay và tôi cũng không được trông đợi phải nhún chân. Ông nói với tôi rằng trong dự án nghiên cứu của ông có một chân trợ lý trong phòng thí nghiệm và ông hỏi tôi có muốn nhận việc này không. Tôi quá sung sướng, vì điều đó có nghĩa là tôi có thể từ bỏ công việc thu tiền ở cửa hàng bán quần áo phụ nữ, vừa buồn chán vừa bận rộn. Ngoài ra với công việc mới này, tôi có thể học cách nghiên cứu.

Công việc đã mang lại cho tôi những kinh nghiệm tuyệt vời. Tôi học cách mã hoá và phân tích dữ liệu, lập trình máy tính, đọc các bài giảng, vạch kế hoạch nghiên cứu và viết các bài nghiên cứu khoa học để xuất bản. Vị giáo sư mà tôi giúp việc đang nghiên cứu về cấu trúc tính cách cá nhân và tôi thấy ý tưởng nghiên cứu sự khác biệt của người này với những người khác là vô cùng thú vị. Tôi chìm đắm trong công việc và phát hiện ra rằng đây không chỉ là nguồn cung cấp kiến thức, nguồn thu nhập tài chính, mà còn là cách để tôi giải thoát nữa. Khác với những giờ ngột ngạt trên lớp - và cũng khác với hầu hết các chương trình làm việc trên thế giới được xây dựng trên giả thuyết rằng tâm trạng và khả năng làm việc của con người là ổn định và bền vững - công việc nghiên cứu cho phép người ta độc lập và có chương trình làm việc linh hoạt, điều mà tôi rất thích. Các nhân viên hành chính trường đại học không quan tâm đến sự thay đổi tính khí và khả năng làm việc theo mùa, vốn là một phần trong cuộc sống của hầu hết những người mắc chứng hưng-trầm cảm, cho dù họ đã được thông báo về việc này. Kết quả là học bạ những năm đại học của tôi thỉnh thoảng lại có những lớp tôi không đủ điểm hoặc chưa hoàn thành chương trình học. Thật may là những bài nghiên cứu của tôi đã bù đắp được những điểm thiếu này. Tâm trạng thay đổi thất thường và tái phát liên tục, cùng với sự suy sụp tồi tệ đã làm cho tôi phải trả giá đắt cả về cuộc sống cá nhân lẫn kết quả học tập trong những năm đại học.

Năm 20 tuổi, sau hai năm học đại học, tôi được tạm thời thoát khỏi những rắc rối ở trường trong một năm, để trở thành sinh viên của Trường Đại học St. Andrews ở Xcốtlen. Khi đó, anh trai tôi và một người anh em họ đang học tại các trường đại học ở Anh và họ gợi ý tôi sang đó với họ. Tuy nhiên, tôi đã chịu ảnh hưởng khá mạnh của âm nhạc và thơ ca Xcốtlen, mà bố tôi vẫn yêu thích và tôi cũng bị quyến rũ trước vẻ u sầu và rực cháy của người Xentơ. Tôi có cảm giác rằng mình gắn bó với phần gốc gác tổ tiên Xcốtlen, cho dù khi đó tôi cũng đồng thời muốn tránh xa tâm trạng buồn chán và bất thường của bố tôi. Tôi có cảm giác mơ hồ rằng tôi có thể hiểu rõ hơn tâm trạng và suy nghĩ thất thường của mình, nếu như tôi trở lại với cội nguồn, theo một nghĩa nào đó. Tôi làm đơn xin trợ cấp của liên bang và nhờ khoản tiền này, lần đầu tiên tôi trở thành sinh viên học đầy đủ thời gian. Thế là tôi rời Los Angeles một năm để theo học khoa học vào ban ngày và học nhạc, thơ vào ban đêm.

Thành phố St. Andrew, theo lời người trợ giáo của tôi, là nơi duy nhất anh ta biết tuyết rơi ngang. Anh ta là một nhà thần kinh học xuất sắc, cao lêu nghêu và có khiếu hài hước của người Yorkshire. Giống như những người Anh đồng hương khác, anh ta tin rằng thời tiết đẹp và văn minh đều chấm dứt từ vùng nông thôn của Xcốtlen. Anh ta có lý khi nói về thời tiết. Thành phố St. Andrew cổ kính, toàn đá xám, nằm sát bờ Biển Bắc, phải hứng chịu tất cả những cơn gió mạnh cuối Thu và suốt mùa Đông, nên những ai đã từng trải qua đều có thể tin vào điều anh ta nói. Tôi sống ở Xcốtlen vài tháng trong khoảng thời gian này, nên tôi hoàn toàn tin vào lời anh ta. Gió biển đã quật dữ dội vào khu bãi cát ở phía Đông thành phố, nơi có phòng thí nghiệm sinh vật biển của trường đại học.

Khoảng một chục sinh viên năm thứ ba của khoa động vật học chúng tôi ngồi co ro, run lập cập và mặc dù đã mặc đủ loại áo len, tất len mà hai hàm răng vẫn va vào nhau lập cập, trong căn phòng thí nghiệm nhỏ và lạnh đến khủng khiếp của nhà trường. Người trợ giáo dường như càng lúng túng hơn vì sự có mặt của tôi trong chương trình động vật học cao hơn mức mà lẽ ra tôi phải theo học. Anh ta là người có uy tín về cái mà người ta có thể nghĩ là một phần quan trọng của thế giới động vật, đó là thần kinh thính giác của châu chấu. Ngay trước khi đưa ra nhận xét về tuyết rơi ngang ở Xcốtlen, anh ta đã làm cho tôi phải bộc lộ sự ngu dốt đến khủng khiếp của mình về động vật học.

Khi đó chúng tôi có nhiệm vụ ghi lại dòng điện sinh học trong thần kinh thính giác của châu chấu. Tất cả các sinh viên khác đều đã nghiên cứu về ngành này trong nhiều năm, nên họ đều biết mổ xẻ một cách gọn ghẽ từng phần của con châu chấu và ghi lại kết quả thí nghiệm. Tôi không biết phải bắt đầu từ đâu và người trợ giáo của tôi đã nhận ra điều đó. Tôi băn khoăn không hiểu vì sao trường lại xếp tôi vào chương trình nghiên cứu khoa học ở cấp này. Tôi lấy một con châu chấu ở trong lồng ra - tôi cố kéo dài thời gian ở trong phòng côn trùng vì nó được sưởi ấm và cuối cùng cũng lần được tới vùng cánh, ngực và đầu của châu chấu. Việc này đối với tôi không phải là quá lạ lẫm. Tôi có cảm giác rằng cái bóng cao lêu nghêu của người trợ giáo đang ở ngay phía sau. Quay lại, tôi thấy nụ cười mỉa trên gương mặt của anh ta. Anh ta bước lên bảng, vẽ một con châu chấu, khoanh tròn vùng đầu của con vật và nói bằng một giọng đặc tiếng địa phương: “Cô Jaminson, để cho cô hiểu thêm, đây là đầu”. Cả lớp ồ lên. Tôi cũng vậy. Tôi hiểu rằng tôi đành phải cam chịu tụt lại phía sau trong năm học này. Đúng là tôi đã bị tụt lại, nhưng tôi cũng học hỏi được rất nhiều và năm học này cũng có rất nhiều điều thú vị. (Báo cáo về thí nghiệm châu chấu trong phòng thí nghiệm đã chứng minh rằng tôi đã tham gia vào chương trình lớp trên của mình. Sau khi trình bày chị tiết phương pháp thực hành thí nghiệm, báo cáo của tôi viết: “Đầu, cánh và chân được cắt ra khỏi con châu chấu. Sau khi phần mình được mổ ra, để lộ các túi khí, ta thấy thần kinh thính giác nằm ở đây, chạy xuyên vào giữa, để tránh những phản ứng có thể có của thần kinh trung ương”. Cuối cùng, báo cáo của tôi kết luận: “Do hiểu sai và thiếu hiểu biết về những gì đang xảy ra, tôi đã không thử nghiệm việc kích thích âm vực rộng của châu chấu. Khi tôi hiểu ra vấn đề, thì thần kinh thính giác của châu chấu đã lịm đi. Và tôi cũng vậy”.

Tuy nhiên, việc nghiên cứu động vật không xương sống rõ ràng là rất có lợi. Trước hết, khác với ở khoa tâm thần, bạn có thể ăn đối tượng nghiên cứu của mình, nhất là những con tôm hùm tươi rói, vừa bắt ở biển lên và ngon tuyệt. Chúng tôi nấu chúng trong những chiếc cốc thí nghiệm trên đèn Bunsen. Đến tận khi giáo viên của chúng tôi lưu ý rằng “không phải các thầy cô trong trường không biết một số con vật nghiên cứu đã bị biến khỏi bể nuôi vào ban đêm”, thì mưu toan cải thiện, ngoài bữa ăn ở trường của chúng tôi mới chấm dứt.

Năm đó, tôi thường đi bộ dọc bãi biển hay xuyên qua thành phố và ngồi hàng giờ nghiền ngẫm và viết lách giữa những đống đổ nát của thành phố cổ. Tôi luôn cố hình dung ra nhà thờ Đức Bà đã từng có dáng vẻ như thế nào ở thế kỷ 12 và giữa những ô cửa sổ bằng đá trống rỗng hiện nay là những tấm kính màu sặc sỡ như thế nào. Tôi cũng không bỏ những buổi lễ kéo chuông, với nghi thức gần như còn nguyên sơ vào sáng Chủ nhật hàng tuần tại nhà thờ của trường đại học. Cùng với trường đại học, nhà thờ này được xây dựng từ đầu thế kỷ 15. Những truyền thống học tập và tôn giáo từ thời xa xưa đã được hoà quyện vào nhau một cách đầy bí ẩn và kỳ lạ. Chiếc áo choàng dầy, màu đỏ tươi của sinh viên đại học, nghe nói là nó mang màu sắc tươi rói này theo một chỉ dụ của Vua Xcốtlen hồi Vương quốc này mới thành lập. Khi đó, sinh viên được coi là có thể gây nguy cơ cho Nhà nước, nên cần phải được dễ dàng nhận diện. Trang phục của họ quả là tạo ra sự tương phản rõ rệt với những toà nhà xám xịt của thành phố. Sau lễ cầu nguyện ở nhà thờ, các sinh viên mặc áo choàng đỏ lại diễu hành tới tận đầu cầu cảng thành phố, làm tăng thêm sự tương phản giữa họ với nền trời và mặt biển xám ngoét.

Đó là một nơi đầy bí ẩn, để lại trong tôi biết bao ký ức. Tôi nhớ những đêm trời lạnh và sáng, nhớ những người đàn ông và phụ nữ trong trang phục dạ hội, mang những đôi găng tay dài, khăn quàng lụa, mặc váy truyền thống hay những chiếc khăn carô vắt trên vai những người phụ nữ mặc áo choàng lụa, dài sát đất rất trang nhã. Tôi nhớ những trận bóng như không bao giờ kết thúc. Nhớ những bữa tiệc tối, kéo dài tới tận đêm khuya, với cá hồi, giăm bông, thịt thú mới săn, quả anh đào, rượu uytxki và thịt lợn. Tôi nhớ những chiếc áo choàng màu đỏ tươi của sinh viên, trên xe đạp, trong những bữa tiệc tối, trên giảng đường, trong vườn và trên nền cỏ vào dịp cắm trại mùa xuân. Tôi nhớ những buổi tối hò hát và nói chuyện đến tận đêm khuya với các bạn Xcốtlen cùng phòng. Tôi nhớ những vật dài thủy tiên hoa vàng và cây hoa chuông trên những quả đồi sát mép biển. Nhớ những đám rong biển, đá cuội và cả những con sao biển nằm phơi mình trên bãi cát vàng. Tôi nhớ buổi lễ đẹp đến mê hồn trong nhà thờ khi kết thúc khoá học. Tôi nhớ sinh viên đại học trong những bộ áo choàng dài màu đỏ tươi và những sinh viên đã tốt nghiệp trong chiếc áo ngắn màu đen xám. Nhớ những bài hát mừng trong dịp Giáng sinh cổ xưa mà tinh tế. Nhớ những chiếc đèn treo hình vương miện và bục gỗ dành cho dàn đồng ca của nhà thờ. Nhớ những buổi đọc thơ bằng cả tiếng Anh phổ thông, lẫn tiếng Xcốtlen địa phương vừa tinh tế vừa quyến rũ. Tôi rời nhà thờ vào đêm đông ấy giống như bước vào thế giới cổ xưa, với màu áo đỏ tươi tương phản với tuyết trắng, với tiếng chuông ngân xa và mặt trăng tròn, trong veo.

Thành phố St. Andrew đã giúp tôi quên đi những năm tháng đau khổ trước đó của cuộc đời. Đó vẫn là khoảng thời gian đáng yêu, còn đọng mãi trong tôi. Đối với một nữ sinh đại học đang cố thoát ra khỏi sự thất vọng và buồn chán mà không rõ lý do như tôi, St. Andrew là một tấm bùa hộ mệnh, giúp tôi chống lại cảm giác mất mát. Đó là một năm đầy kỷ niệm vui vẻ. Mùa đông Biển Bắc đã trở thành mùa hè Ấn Độ trong cuộc đời tôi.

Tôi rời Xcốtlen trở lại UCLA năm 21 tuổi. Đó là một sự thay đổi lớn cả về tâm trạng lẫn khung cảnh và nó đã phá vỡ nhịp sống của tôi. Tôi thấy khó hoà nhập trở lại với thế giới và thói quen cũ. Một năm qua, tôi không phải làm việc từ 20 đến 30 giờ mỗi tuần để duy trì cuộc sống hàng ngày. Nay tôi lại phải vật lộn với công việc, giờ lên lớp, các hoạt động xã hội và cả tâm lý thất thường của mình nữa. Những dự tính cho cuộc đời sự nghiệp của tôi cũng bị đảo lộn. Theo thời gian, tôi ngày càng nhận rõ rằng tính khí thất thường và hiếu động của tôi là không phù hợp với trường y – đặc biệt là trong hai năm đầu, do sinh viên phải ngồi nghe giảng trên lớp liên tục trong nhiều giờ. Tôi thấy khó có thể ngồi lâu đến thế và tốt nhất là tôi nên tự học. Tôi thích nghiên cứu, viết và ghê sợ trước ý nghĩ rằng mình có thể bị trói chặt vào một chương trình nào đó của trường y. Ngoài ra, tôi đã được đọc công trình nghiên cứu tâm lý vĩ đại của William James, nhan đề Muôn vẻ tôn giáo, trong thời gian ở St. Andrew. Tôi ngày càng bị cuốn theo ý tưởng nghiên cứu tâm lý, nhất là sự khác biệt về tâm trạng và tâm lý của con người. Khi đó, tôi cũng bắt đầu giúp việc cho một giáo sư khác trong dự án nghiên cứu của ông. Đó là công trình nghiên cứu về tâm lý và tác động của các chất kích thích, như ma tuý, cần sa, thuốc phiện, thuốc giảm đau, thuốc an thần và thuốc kích thích tới tâm sinh lý. Ông đặc biệt quan tâm tìm hiểu lý do vì sao một số người chỉ thích một loại chất kích thích nào đó. Ví dụ, một số thích hallucinogen (một loại ma tuý gây ảo giác), trong khi một số khác lại tìm đến với những loại ma tuý gây chán nản hoặc kích thích hưng phấn. Giống như tôi, ông là người dễ bị kích động.

Vị giáo sư này cao, hay xấu hổ, nhưng rất thông minh. Tâm trạng của ông cũng rất dễ bị thay đổi. Lúc đầu, tôi làm trợ lý nghiên cứu cho ông, sau đó tôi làm việc với tư cách là nghiên cứu sinh bậc tiến sỹ. Thời gian làm việc cho ông đã mang lại cho tôi những kinh nghiệm tuyệt vời. Ông là một người rất sáng tạo, thích tìm hiểu và cởi mở. Ông nghiêm khắc nhưng công bằng trong những đòi hỏi về tri thức. Ông rất tốt bụng và thấu hiểu sự thay đổi về tâm trạng cũng như khả năng tập trung vào công việc của tôi. Chúng tôi hiểu nhau qua trực giác và phần lớn là không nói ra, nhưng thỉnh thoảng một trong hai chúng tôi cũng nêu lên vấn đề suy sụp tâm lý. Phòng làm việc của tôi ở sát văn phòng của ông. Vào những lúc tôi rơi vào trạng thái trầm cảm, ông quan tâm hỏi tôi thấy người thế nào, đưa ra một vài nhận xét như trong tôi có vẻ mệt mỏi, trầm ngâm hay chán nản và hỏi liệu ông có thể giúp tôi được gì.

Một hôm trong một cuộc trao đổi, chúng tôi phát hiện ra rằng mỗi người chúng tôi đều đã tự xếp hạng tâm trạng của mình. Ông xếp mình trong thang 10 điểm, từ “tệ hại” tới “tuyệt vời”.

Còn tôi tự xếp mình trong khoảng từ -3 (tê liệt và hoàn toàn suy sụp) đến +3 (có tâm hồn cao thượng và có sinh khí). Cách phân loại này nhằm tìm ra tần suất và lý do để các trạng thái tâm lý xuất hiện và biến mất. Từ đó, thỉnh thoảng chúng tôi lại trao đổi với nhau về khả năng sử dụng thuốc chống trầm cảm, nhưng chúng tôi cũng nghi ngờ hiệu quả và lo ngại tới những tác dụng phụ của nó. Giống như nhiều người mắc chứng trầm cảm khác, chúng tôi cảm thấy tình trạng suy sụp của mình phức tạp và có căn nguyên sâu xa hơn nhiều so với những gì mà nó bộc lộ ra. Thuốc chống trầm cảm có lẽ được chỉ định cho những bệnh nhân tâm thần, nhưng mức nhẹ hơn, chứ không phải cho chúng tôi. Chúng tôi đã phải trả giá đắt cho thái độ của mình. Những điều chúng tôi đã được dạy dỗ và lòng tự trọng đã ngăn cản chúng tôi dùng thuốc. Mặc dù tâm trạng của tôi vẫn thay đổi liên tục - vì chứng trầm cảm của tôi luôn được báo trước bằng hiện tượng hưng phấn đến cao độ - tôi vẫn cảm thấy rằng tôi đang có một nơi trú ẩn an toàn cho những năm đại học, bằng việc làm trợ lý nghiên cứu cho ông. Nhiều lần tôi bật đèn trong phòng làm việc để ngủ, vì không dám đối mặt với thế giới và khi tỉnh giấc tôi thấy chiếc áo khoác của ông trên vai tôi, cùng với một tờ giấy đặt trên máy tính của tôi viết “Bạn sẽ sớm cảm thấy dễ chịu”.

Kiến thức và niềm vui mà công việc tôi đang làm với ông mang lại, cùng với sự hài lòng về công việc mà tôi đã làm với giáo sư từ năm học đầu tiên, kết hợp với ảnh hưởng to lớn của William James và tâm trạng không ổn định của tôi, tất cả đã đưa tôi đến quyết định học tiến sỹ tâm lý hơn là vào trường y. UCLA khi đó, cũng như ngày nay, vẫn là trường đại học có chương trình giáo dục về tâm lý tốt nhất nước Mỹ. Tôi đệ đơn xin học và bắt đầu chương trình tiến sỹ vào năm 1971.

Ogay từ khi mới bước chân vào trường đại học tôi đã quyết định phải làm một cái gì đó với tâm trạng của chính mình. Tôi sớm đi tới sự lựa chọn giữa việc đến bác sỹ tâm thần khám bệnh, hoặc mua một con ngựa. Do hầu hết những người tôi biết đều tìm đến bác sỹ tâm thần và do tôi có một niềm tin mãnh liệt rằng tôi có khả năng giải quyết được những vấn đề của chính mình, nên tôi đã mua một con ngựa. Không phải bất cứ con ngựa nào, mà là một con ngựa bướng bỉnh và rất dễ bị kích động, kiểu như ngựa Woody Allen, nhưng không có khả năng mua vui. Tất nhiên là tôi hình dung ra cảnh giống như Bạn Flicka của tôi, con ngựa sẽ nhận ra tôi từ xa, vẫy vẫy đôi tai chờ nghe một lời khen, hí lên vui vẻ, rồi chạy nước kiệu tới bên tôi, sục mõm vào ống quần tìm đường hay cà rốt. Tuy nhiên, cuối cùng tôi lại mua phải một con ngựa rất nôn nóng, hay bị què chân và chẳng lấy gì làm tinh khôn cho lắm. Nó rất sợ rắn, người, thằn lằn, chó và những con ngựa khác, đại loại là sợ bất cứ thứ gì mà nó thường phải gặp trong cuộc đời. Vì thế, thỉnh thoảng nó lại dựng ngược trên hai chân sau rồi lồng lên chạy tứ tung. Tuy nhiên, trong những điều rủi cũng có những cái may. Mỗi khi leo lên lưng ngựa là tôi lại quá sợ hãi, tới mức quên cả bị trầm cảm. Còn khi bị điên thì tôi cũng chẳng còn biết cân nhắc gì nữa, nên những cú phi như điên như dại ấy lại trở nên rất phù hợp với tâm trạng của tôi.

Thật tiếc là quyết định mua ngựa của tôi không chỉ điên khùng, mà còn ngu xuẩn nữa. Tôi phải rút tiền từ chương trình bảo hiểm y tế sinh viên để lấy tiền chi cho ngựa. Ngoài việc đóng móng và mua yên ngựa - và theo yêu cầu của thú y, thỉnh thoảng tôi phải bổ dưỡng cho nó bằng những bữa ăn tốn kém dành riêng cho ngựa - tôi còn phải mua những bộ móng đặc biệt để chữa bệnh đau chân cho nó. Những cái móng này đắt hơn nhiều so với giày của Gucci và NeimanMarcus và sau khi nghiến răng mua chúng, tôi mới hiểu rõ lý do vì sao người ta bán cả ngựa lẫn những người buôn ngựa. Tôi chợt nhận ra rằng mình không phải là các nhà tư sản Mellon hay Rockefeller. Tôi bán ngựa, đơn giản như người ta đánh đi con Q pich vậy và bắt đầu có mặt thường xuyên trên giảng đường của UCLA.

Chương trình sau đại học đã giúp tôi tìm lại niềm vui mà tôi để mất trong những năm đại học. Trong chừng mực nào đó, đây là sự tiếp nối của mùa hè Ấn Độ mà tôi đã được tận hưởng ở St. Andrew, Nhìn lại những năm đó, bằng nhãn quan y học điềm tĩnh mà mãi sau này tôi mới có được, tôi nhận ra rằng mình đã trải qua cái mà người ta gọi là sự lắng dịu giả tạo giữa những cơn rối loạn thường xuyên tái phát trong những năm đầu của bệnh hưng - trầm cảm, mà không cần chữa trị. Ngày ấy chưa có bất cứ từ nào, tên gọi của một loại bệnh nào, hay một khái niệm nào thể hiện một cách có ý nghĩa sự biến đổi tâm trạng nhanh và mạnh mà tôi đã trải qua.

Chương trình sau đại học không chỉ giải thoát ột cách tương đối cho tôi khỏi căn bệnh của chính mình, mà còn giúp tôi thoát khỏi những ràng buộc chặt chẽ đối với sinh viên đại học. Mặc dù tôi bỏ hơn một nửa số giờ học chính thức, nhưng điều đó cũng không có gì phiền phức lắm. Chừng nào mà kết quả cuối cùng đã đạt được, thì giờ học sẽ không còn quan trọng nữa. Đây cũng là thời điểm tôi kết hôn với một họa sỹ người Pháp. Anh không chỉ là một họa sỹ tài năng, mà còn là một người rất tốt bụng và nhã nhặn. Tôi và anh đã từng gặp nhau từ đầu những năm 1970, trong một bữa ăn giữa buổi cùng những người bạn của chúng tôi. Đó là thời kỳ có mốt để tóc dài, thời kỳ của những bất ổn xã hội, thời kỳ của những sinh viên được miễn quân dịch và thời kỳ của những cuộc biểu tình chống chiến tranh ở Việt Nam. Tôi thấy tâm hồn như dịu lại khi tìm thấy ở anh, giống như một sự thay đổi vậy, một người thờ ơ với chính trị, rất thông minh và say mê nghệ thuật. Chúng tôi rất khác nhau, nhưng lại thích nhau ngay lập tức. Chúng tôi nhanh chóng nhận ra rằng chúng tôi có chung tình yêu với hội họa, âm nhạc và thế giới tự nhiên. Khi đó, tôi có cảm xúc rất mạnh mẽ và vào những lúc không suy sụp, trong tôi lại tràn ngập mong ước có một cuộc sống vui vẻ, thành đạt trên con đường học vấn và con cái đầy nhà. Những bức ảnh ngày đó cho thấy anh lúc nào cũng là một người đàn ông cao, rất đẹp trai, tóc đen, trang nhã và có đôi mắt nâu, trong khi chụp cùng với anh lại là tôi, một phụ nữ ở độ tuổi 25 rất hay thay đổi. Trong một bức ảnh, người phụ nữ ấy cười, đội mũ mềm và tóc dài bay trong gió. Trong một bức ảnh khác, cô ta lại tỏ ra đăm chiêu, vẻ nghiền ngẫm, trông già trước tuổi và trong bộ quần áo không loè loẹt nhưng tẻ nhạt. Mái tóc của tôi, giống như tâm trạng của tôi, hết dài lại ngắn. Có những lúc tôi để tóc dài tới mức tôi có cảm giác như mình bị chìm giữa mái tóc. Thế rồi, với ý nghĩ rằng một sự thay đổi cơ bản có thể có ích, tôi liền cắt tóc ngắn tới vai. Tâm trạng của tôi, mái tóc của tôi và trang phục của tôi, luôn thay đổi hàng tuần và hàng tháng. Trong khi đó, chồng tôi lúc nào cũng vẫn thế. Chúng tôi dường như luôn bổ sung tính khí cho nhau.

Vài tháng sau cuộc gặp ấy, chúng tôi sống cùng nhau trong một căn hộ nhỏ ở gần biển. Đó là quãng thời gian khá bình lặng, một cuộc sống bình thường, với những buổi đi xem phim, chơi bời với bạn bè và những chuyến du lịch tới Big Sur, San Francisco và Yosemite. Cuộc hôn nhân tốt đẹp, sự gần gũi của những người bạn và những đòi hỏi không quá lớn về kiến thức trong chương trình sau đại học đã trở thành những nhân tố quan trọng tạo ra một thế giới tĩnh lặng và an toàn cho tôi.

Tôi bắt đầu bằng việc nghiên cứu tâm lý thực nghiệm, đặc biệt là tập trung vào khía cạnh tâm lý và toán học của lĩnh vực này. Tuy nhiên, sau vài tháng nghiên cứu điều trị tại Bệnh viện Maudsley ở Luân Đôn - mà tôi kết thúc ngay trước khi gặp chồng tôi - tôi đã quyết định chuyển sang lĩnh vực tâm lý điều trị. Tôi ngày càng quan tâm tới lĩnh vực này, cả vì lý do cá nhân lẫn chuyên môn. Công việc của tôi, trước đây tập trung vào các phương pháp thống kê, sinh học và tâm lý thực nghiệm, nay chuyển sang tâm thần dược học, tâm thần học, các phương pháp điều trị và liệu pháp tâm lý. Tâm thần bệnh học - ngành khoa học nghiên cứu về rối loạn tâm thần - thực ra là rất thú vị. Tôi phát hiện ra rằng việc khám cho bệnh nhân không chỉ hấp dẫn, mà còn là một đòi hỏi cả về tri thức lẫn nhu cầu cá nhân của tôi nữa. Mặc dù chúng tôi được dạy cách chẩn đoán bệnh, nhưng trong thâm tâm tôi không hề gắn bất cứ những gì tôi đã từng trải qua, với những hiện tượng được mô tả là triệu chứng của bệnh hưng - trầm cảm trong sách giáo khoa. Kết quả là trái với hội chứng của các sinh viên y khoa - thường có cảm giác là họ đang mắc bất cứ căn bệnh nào mà họ đang nghiên cứu - tôi lại rất vô tình đi hết chương trình học tập của mình mà không hề gắn nó với bất cứ sự thay đổi tâm trạng nào của mình. Khi nhìn lại sự việc này, tôi thấy sự thờ ơ của mình là không thể hiểu nổi, nhưng tôi cũng nhận ra rằng nhờ nó mà tôi đã thoải mái hơn các bạn của mình trong việc điều trị bệnh nhân tâm thần.

Vào thời điểm đó, cả trong tâm lý điều trị lẫn trong các chương trình điều trị tập trung bệnh nhân tâm thần, chứng rối loạn tâm thần vẫn được gắn với tâm thần phân liệt, hơn là với chứng hưng-trầm cảm. Vì thế tôi học được rất ít về những hình thức rối loạn tâm thần. Khi đó, thuyết phân tâm học vẫn còn bao trùm. Vì thế trong hai năm điều trị bệnh nhân đầu tiên, tôi luôn bị các nhà phân tâm học giám sát chặt chẽ. Trọng tâm điều trị khi đó là tìm hiểu những trải nghiệm và xung khắc trước đó của bệnh nhân. Mơ ước và biểu tượng, cùng cách diễn giải chúng, hình thành nên cốt lõi của tâm lý liệu pháp. Cách tiếp cận mang tính y học hơn đối với tâm lý liệu pháp – tức là tập trung vào chẩn đoán, các hiện tượnh điều trị bằng thuốc – chỉ xuất hiện sau khi tôi đã bắt đầu chương trình thực tập ở Viện Chức năng thần kinh của UCLA. Mặc dù trong nhiều năm tôi đã có nhiều điểm không đồng tình với thuyết phân tâm học - đặc biệt là các nhà phân tâm học vẫn phản đối việc điều trị bệnh nhân rối loạn tâm thần nặng bằng thuốc, mặc dù từ lâu đã có những bằng chứng rất rõ ràng rằng Lithi và thuốc chống suy nhược có hiệu quả hơn nhiều so với việc chỉ điều trị bằng liệu pháp tâm lý – tôi vẫn thấy nhiều khía cạnh của tư tưởng phân tâm học trong tâm lý trị liệu là vô giá. Theo thời gian, tôi đã để rơi rụng nhiều kiến thức về phân tâm học, nhưng những gì tôi được đào tạo là rất thú vị. Tôi chưa bao giờ tìm hiểu sự phân biệt tuỳ tiện và không cần thiết giữa tâm thần “sinh học”, nhấn mạnh tới nguyên nhân và cách điều trị bệnh tâm thần, với tâm lý học “chức năng”, nhấn mạnh tới những biểu hiện trước đó, tới cấu trúc tính cách cá nhân, sự xung khắc, động cơ và những suy nghĩ vô thức trước đó của bệnh nhân.

Cực đoan bao giờ cũng ngu xuẩn và tôi đã phải sửng sốt trước mức độ vô lý mà tư tưởng không chấp nhận sự chỉ trích có thể rơi vào. Một lần, trong chương trình đào tạo, chúng tôi được học cách kiểm tra tâm lý, trong đó có kiểm tra trí thông minh, sử dụng Thước đo thông minh ở người lớn của Wechsler (WAIS) và phương pháp kiểm tra tính cách cá nhân của Rorschach (test tâm lý của Rorschach). Đối tượng thực nghiệm đầu tiên của tôi chính là chồng tôi. Là một họa sỹ, nên không có gì ngạc nhiên khi anh đạt điểm rất cao trong phần kiểm tra khả năng tưởng tượng của WAIS. Trong phần này, anh phải giải thích làm thế nào để lắp ghép các khối thiết kế săn lại với nhau. Trong phần phần kiểm tra Rorschach, phản ứng của anh rất độc đáo, tới mức tôi chưa hề gặp lại phản ứng nào tương tự kể từ ngày đó. Trong phần kiểm tra “Vẽ một nhân vật”, tôi thấy anh rất chăm chú, vẽ nắn nót và chậm chạp. Tôi có cảm giác như anh đang vẽ một bức chân dung tự họa. Cuối cùng anh đưa bức tranh cho tôi, thì đó là bức vẽ rất tỉ mỉ một con đười ươi mà cánh tay của nó vươn dài ra tận mép tờ giấy.

Tôi nghĩ đây là kết quả kiểm tra tuyệt diệu. Tôi đưa cả kết quả kiểm tra WAIS, Rorschach và “Vẽ một nhân vật” của anh cho giáo viên giám sát phần kiểm tra tâm lý của tôi. Bà ta là một người theo thuyết phân tâm học, giáo điều và không biết hài hước. Bà ta dành hơn một giờ đồng hồ để diễn giải một cách ngốc nghếch và võ đoán về những cảm xúc mãnh liệt nguyên thủy và bị dồn nén của chồng tôi, về những xung đột trong nội tâm, về sự mâu thuẫn trong tư tưởng, về bản chất khó gần và về tính cách cá nhân vô cùng lộn xộn của anh. Người mà nay đã là chồng cũ của tôi, người mà trong suốt 25 năm trời tối chưa hề thấy anh nói dối, nay bỗng được gán cho nhãn hiệu là thiếu tính xã hội; một người đơn giản, thẳng thắn và lịch thiệp nay được diễn giải là một người có rất nhiều nỗi lo âu, xung đột trong nội tâm và rất dễ nổi xung. Tất cả chỉ vì anh đã làm khác người trong bài kiểm tra. Thật vô lý. Quả thật đối với tôi, điều ấy buồn cười tới mức tôi phải bật cười không nhịn được. Điều này càng làm cho bà ta thêm giận dữ và tệ hại hơn là bà lại tiếp tục những lời diễn giải khác nữa về anh. Tôi giận sôi lên, cười nhạo, bước ra khỏi phòng bà ta và từ chối không viết báo cáo kiểm tra. Khỏi cần phải nói, việc này lại cũng được bà ta đưa ra mổ xẻ và phân tích.

Hầu hết những gì mà tôi thực sự học được là thông qua một số lượng lớn, với đủ loại bệnh . nhân, mà tôi đã chẩn đoán và điều trị trong thời gian thực tập ở bệnh viện trước khi trở thành tiến sỹ. Trong thời gian này tôi cũng hoàn thành hai chương trình học phụ về dược lý tâm thần và cách hành xử của động vật. Tôi đặc biệt thích môn cách hành xử của động vật, nên ngoài chương trình của khoa tâm lý ra, tôi còn tham gia chương trình sau đại học của khoa động vật học. Chương trình động vật học này tập trung nghiên cứu đời sống sinh học của các loài động vật có vú sống ở dưới nước. Chương trình này không chỉ nghiên cứu khía cạnh sinh học và lịch sử tự nhiên của rái cá biển, hải cẩu, sư tử biển, cá voi và cá heo, mà còn nghiên cứu cả những bí quyết, như khả năng điều chỉnh tim mạch ở sư tử biển và cá voi cho phù hợp với hoạt động bơi lặn, hay hệ thống thông tin của cá heo. Chương trình học tập này chỉ là để biết, nhưng tôi yêu thích nó. Không có bất cứ điều gì tôi học được ở đây có liên quan tới những gì tôi đang học và đang làm, nó cũng không liên quan gì đến công việc của tôi từ ngày đó đến nay, nhưng đó lại là chương trình học tập thú vị nhất của tôi trong giai đoạn sau đại học.

Các bài kiểm tra cứ lần lượt đến rồi lại đi. Tôi chọn đề tài nghiện ma tuý chán ngấy cho luận án tiến sỹ của mình và vì thế tôi cũng đã viết một bài luận văn tả ngắt về đề tài này. Sau hại tuần luyện thi căng thẳng, cố gắng nhồi vào đầu bất cứ thứ gì có thể, tôi bước vào phòng thi. Năm giám khảo mặt nghiêm trang ngồi quanh một chiếc bàn. Tôi ngồi xuống và trình bày từ đầu đến cuối cái mà người ta vẫn quen gọi một cách lịch thiệp là Bài kiểm tra miệng cuối cùng, còn nếu nói một cách chính xác hơn và có vẻ quân sự hơn thì là bảo vệ luận án của mình. Hai giám khảo là các giáo sư mà tôi đã từng trợ giúp trong nhiều năm, một người khá dễ dãi đối với tôi; còn người kia, có lẽ cố tỏ ra không thiên vị, đã hỏi tôi một cách không thương xót. Một trong ba nhà tâm thần dược học, người duy nhất không phải là giáo sư thường xuyên, dường như cố tình gây khó khăn cho tôi. Hai giám khảo còn lại, các giáo sư thường xuyên cảm thấy rằng vị giám khảo kia đã đi quá xa khi căn vặn quá sâu vào những chi tiết vụn vặt của số liệu thống kê và đề cương nghiên cứu, đã yêu cầu ông trở về với thực tế. Sau ba giờ đồng hồ vận dụng mọi kiến thức để bảo vệ luận điểm của mình, giống như vũ công ba lê trên sân khấu, tôi rời phòng kiểm tra và đứng ở hành lang, chờ các giám khảo bỏ phiếu. Sau khi phải chịu đựng khoảnh khắc vô cùng căng thẳng ấy, tôi trở lại phòng thi. Vẫn năm người đàn ông ấy, những người chỉ vài giờ trước đây dường như rất nhẫn tâm và không có thiện cảm, thì giờ đây họ mỉm cười, chìa tay ra bắt tay tôi và tất cả cùng nói: Xin chúc mừng. Tôi thở phào nhẹ nhõm.

Lễ tốt nghiệp trong giới học thuật cũng có vẻ lãng mạn riêng của nó. Mọi căng thẳng và những khó khăn của luận án và bài kiểm tra miệng cuối cùng đã được nhanh chóng quên đi, nhường chỗ cho những giây phút tuyệt vời sau đó, được tiếp nhận vào câu lạc bộ đã có từ lâu đời, tham dự tiệc chúc mừng, với những cốc rượu anh đào, dự lễ trao bằng học vị được khoác trên mình bộ áo dành cho tiến sỹ, và lần đầu tiên được nghe từ “Tiến sỹ”, thay cho từ “Cô” Jaminson. Tôi được nhận vào làm giáo sư trợ giảng trong Khoa Tâm thần học của UCLA. Lần đầu tiên trong cuộc đời, tôi được dành một chỗ đỗ xe tốt, được tham gia câu lạc bộ dành riêng cho giáo viên đại học và bắt đầu phấn đấu trên nấc thang học vấn. Tôi đã có một mùa hè vinh quang - và một mùa hè quá rực rỡ đối với tôi - vì chỉ ba tháng sau khi trở thành giáo sư, tôi mắc bệnh tâm thần nặng.

PHẦN II 

ĐIÊN KHÔNG ĐẸP THẾ

TÂM HỒN BAY BỔNG

Có một cái gì đó rất đau đớn, phấn chấn, cô đơn và hoảng sợ trong loại bệnh điên này. Khi hưng cảm, mọi thứ thật tuyệt diệu. Ý tưởng và cảm giác lướt qua rất nhanh và thường xuyên xuất hiện như những ngôi sao băng vậy. Bạn cứ đuổi theo nó mãi, cho tới khi bạn tìm ra những ý tưởng tốt hơn và tươi đẹp hơn. Sự nhút nhát bỗng nhiên biến mất, những lời nói và cử chỉ đúng mực luôn xuất hiện đúng lúc là bạn tin rằng mình đang có sức mạnh quyến rũ người khác. Bạn luôn tìm thấy những điều thú vị trong những người mà bình thường được coi là không thú vị lắm. Ham muốn nhục dục lan tỏa khắp cơ thể, nhu cầu quyến rũ người khác và được quyến rũ mạnh tới mức không thể cưỡng lại nổi. Cảm giác thanh thản, mãnh liệt, đây sức mạnh, hạnh phúc, dư dật về tài chính là phởn phơ thấm sâu trong xương tủy. Nhưng rồi đến một lúc nào đó tất cả bỗng nhiên thay đổi. Những ý tưởng lướt nhanh ấy bỗng trở nên quá nhanh và quá nhiều. Sự rối rắm thay thế cho sự mạch lạc. Trí nhớ bỗng biến mất. Nét hài hước và hấp dẫn trên gương mặt của bạn bè được thay thế bằng sự sợ hãi và lo ngại. Tất cả những gì trước đây vận hành theo hướng ủng hộ bạn, thì nay quay sang chống lại bạn. Bạn trở nên cáu kỉnh, giận dữ, sợ hãi, không kiểm soát được mình và hoàn toàn bị rơi vào những cái hang đen ngòm của tâm trí. Bạn không bao giờ biết rằng có những cái hang như thế. Tuy nhiên, đối với người điên, những cái hang ấy là có thật và sâu thăm thẳm.

Nó cứ thế diễn ra và cuối cùng, chỉ có người khác nhớ lại những hành vi của bạn – những cử chỉ kỳ lạ, điên cuồng và không có mục đích. Chứng điên cũng có nét đáng yêu của nó, khi xoá đi một phần trí nhớ của bạn. Vậy chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo, sau khi đã uống thuốc, tới bác sỹ tâm thần khám bệnh, tuyệt vọng, suy sụp và sử dụng thuốc quá liều? Tất cả những điều đó luôn ám ảnh bạn. Tôi đã nói những gì? Ai đã biết những gì? Tôi đã làm gì? Tại sao? Và câu hỏi ám ảnh nhất là khi nào thì chuyện đó tái diễn? Sau đó lại là những chuyện luôn làm cho bạn phải nhớ tới những điều ám ảnh ấy - uống thuốc, bực dọc, quên lãng, rồi lại uống thuốc, bực dọc mà quên lãng. Rồi những tấm thẻ tín dụng bị hủy bỏ, những tấm séc ngân hàng bị trả lại do không có tiền trong tài khoản để thanh toán, những câu hỏi đang chờ được giải thích và những lời xin lỗi đang chờ được đưa ra. Trí nhớ lúc được, lúc mất. Bạn bè xa lánh dần và hôn nhân tan vỡ. Và một câu hỏi vẫn thường trực, khi nào thì chuyện đó lại xảy ra? Cảm giác nào của mình là thực? Con người nào trong tôi là thực? Một người phóng túng, bốc đồng, rối loạn, đầy sinh lực và điên khùng? Hay một người rụt rè, lãnh đạm, tuyệt vọng, muốn tự tử, bi đát và mệt mỏi? Có lẽ tôi là một phần của cả hai và hy Uọng là không rơi vào bên nào quá nhiều. Vận động viên nhảy cầu Virginia Woolf đã nói: “Cảm giác của chúng ta nhận biết được bao nhiêu màu sắc khi lao xuống nước? Ý tôi muốn nói rằng đâu là sự thực của cảm giác?”.

Gôm đó, tôi không cần phải thức dậy mới biết là mình đã điên. Cuộc đời lẽ ra rất đơn giản. Tuy nhiên, tôi ngày càng nhận ra rằng cuộc đời và tâm trí tôi đang vận hành với tốc độ nhanh chưa từng có. Sự vận hành ấy cứ nhanh dần, trong suốt mùa hè đầu tiên của tôi với tư cách là giáo viên đại học, để rồi cuối cùng nó vỡ ra và hoàn toàn vượt ra ngoài tầm kiểm soát. Tuy nhiên, quá trình tăng dần từ suy nghĩ nhanh đến rối loạn ấy lại diễn ra từ từ và rất quyến rũ. Lúc đầu mọi thứ hoàn toàn bình thường. Tôi trở thành thành viên của Khoa Tâm thần tháng 7-1974 và được giao nhiệm vụ điều trị và giảng dạy trong khoa bệnh nhân nội trú dành cho người lớn. Tôi có nhiệm vụ giám sát các bác sỹ tâm thần và hướng dẫn các thực tập sinh điều trị tâm thần về kỹ thuật chẩn đoán, kiểm tra tâm lý và liệu pháp tâm lý. Do tôi có kiến thức về tâm thần dược học, nên tôi còn được giao giám sát một số vấn đề có liên quan đến thử nghiệm thuốc và điều trị bằng thuốc nữa. Tôi cũng là giáo viên liên lạc giữa Khoa Tâm thần và Khoa Gây mê, nơi tôi vẫn tham gia các hoạt động tư vấn, hội thảo và tiến hành một vài dự án nghiên cứu nhỏ về khía cạnh tâm lý và y học của hiện tượng đau. Công tác nghiên cứu của tôi chủ yếu là viết lại những gì tôi đã từng nghiên cứu về thuốc trong thời gian học đại học. Tôi không quan tâm nhiều lắm đến công tác điều trị và nghiên cứu liên quan đến rối loạn tâm thần. Do tâm trạng của tôi không bị xáo trộn quá nhiều trong hơn một năm qua, nên tôi nghĩ rằng hiện tượng này có lẽ đã lui về quá khứ. Cảm giác bình thường trong một khoảng thời gian khá dài đã làm tăng biết bao hy vọng, mà thực ra chỉ là nhất thời.

Tôi bắt tay vào công việc mới với biết bao lạc quan và đầy nhiệt huyết. Tôi thích thú với công tác giảng dạy, tuy lúc đầu tôi cảm thấy hơi kỳ cục khi giám sát công tác điều trị của người khác, tôi vẫn thấy yêu thích công việc của mình. Tôi phát hiện ra rằng việc chuyển từ sinh viên thực tập sang giáo viên chính thức đơn giản hơn nhiều so với những gì tôi hình dung. Một trong những thay đổi có lợi nhất và làm cho người ta hăng hái lên nhất chính là tiền lương. Việc tôi được tự do theo đuổi những mối quan tâm của mình về học vấn cũng rất thú vị. Tôi làm việc rất chăm chỉ và khi nhìn lại tôi thấy mình ngủ quá ít. Ngủ ít vừa là triệu chứng, vừa là nguyên nhân dẫn tới hưng-trầm cảm, nhưng vào thời điểm ấy tôi chưa biết điều này. Vả lại dẫu có biết thì cũng chưa chắc nó đã làm cho tôi phải hành xử khác đi. Mùa hè đem tới những đêm dài và cũng thường tạo ra sự phấn khích cao hơn trong tôi. Tuy nhiên, lần này nó đẩy tôi tới sự hưng phấn cao hơn nhiều, nguy hiểm hơn nhiều và tôi rơi vào trạng thái tâm thần chưa bao giờ thấy. Mùa hè, ít ngủ, công việc bề bộn và gien dễ bị tổn thương, tất cả đã đẩy tôi vượt ra ngoài giới hạn hứng khởi mà tôi thường có và rơi vào trạng thái điên.

Hàng năm, ông hiệu trưởng danh dự của trường đại học vẫn tổ chức một bữa tiệc ở ngoài vườn để đón chào những giáo viên mới của UCLA. Vô tình người sau này trở thành bác sỹ tâm thần của tôi cũng có mặt trong bữa tiệc, vì ông tham gia làm trợ giáo trong trường y. Sự có mặt của ông đã cho thấy sự phân biệt thú vị giữa những cảm nhận của chính tôi với sự quan sát lạnh lùng, có tính toán của một bác sỹ điều trị có kinh nghiệm. Bác sỹ tâm thần của tôi bỗng nhiên có điều kiện để theo dõi hành vi của cô thực tập sinh cũ, có đôi mắt hơi điên dại và khá điên khùng, mà ông đã giám sát một năm về trước. Theo trí nhớ của tôi, thì hôm ấy tôi hơi hứng khởi. Tôi nhớ là đã nói chuyện với rất nhiều người, với cảm giác rằng mình hấp dẫn đến mức khó cưỡng lại nổi. Tôi chọn từ món ăn này đến món ăn khác và tôi uống rất nhiều. Tôi nói chuyện với ông hiệu trưởng danh dự khá lâu. Tất nhiên, ông hoàn toàn không biết tôi là ai, nhưng ông cũng vui lòng đứng nói chuyện rất lâu với tôi, không biết vì ông quá lịch sự, hay vì ông đang thể hiện đúng với những gì người ta vẫn đồn thổi về ông là thích phụ nữ trẻ. Cho dù ông cảm thấy thế nào đi nữa, tôi vẫn tin rằng ông đã thấy tôi là một người quyến rũ.

Tôi cũng có một cuộc nói chuyện dài và khá kỳ quặc - kỳ quặc, nhưng tôi thấy thú vị với ông chủ nhiệm khoa của chúng tôi. Ông chủ nhiệm khoa không phải là một người không xa hoa. Ông có trí tưởng tượng rất phong phú, mà không phải lúc nào cũng nằm trong khuôn khổ thông thường của y học kinh điển. Ông khá nổi tiếng trong giới tâm thần dược học, vì đã vô tình giết chết một con voi đi thuê của rạp xiếc bằng loại ma tuý gây ảo giác mạnh LSD. Đó là một câu chuyện phức tạp, liên quan đến loài động vật có vú lớn sống trên cạn, đến thuỳ thái dương, đến tác động của thuốc gây ảo giác tới hành vi bạo lực và sự tính toán nhầm liều lượng thuốc. Chúng tôi đã trao đổi khá lâu về nghiên cứu voi và loài Hyrax. Hyrax là một loài động vật nhỏ ở Châu Phi. Hình dáng của nó chẳng giống voi chút nào cả, nhưng dựa trên mẫu răng của chúng, người ta cho rằng nó có họ hàng gần gũi với voi. Tôi không nhớ cụ thể chúng tôi đã nói với nhau những gì, và đã tìm thấy mối quan tâm chung nào trong cuộc thảo luận kỳ lạ về động vật ấy. Tôi chỉ biết rằng, ngay sau đó, tôi đã say sưa tìm kiếm tất cả những bài viết về Hyrax và tôi đã tìm thấy hàng trăm bài. Tôi còn tình nguyện nghiên cứu về hành vi của động vật tại Vườn thú Los Angeles, tham gia giảng dạy một chương trình về phong tục học và một chương trình khác về dược lý và phong tục học.

Ký ức của tôi về bữa tiệc ở ngoài vườn là một khoảng thời gian rất tuyệt vời, hứng khởi, quyến rũ và tự tin. Tuy nhiên, bác sỹ tâm thần của tôi, người mà mãi sau này mới nói với tôi về bữa tiệc ấy, lại có một cái nhìn khác hẳn. Ông nói, hôm ấy tôi ăn mặc rất khêu gợi, khác hẳn với lối ăn mặc kín đáo của tôi một năm trước đó và tôi đã dùng quá nhiều son phấn. Ông cho rằng hôm ấy tôi có vẻ hơi điên và nói quá nhiều. Ông nói, hôm ấy ông đã tự nhủ, Kay có vẻ như bị điên rồi, Trong khi đó, trái lại, tôi lại nghĩ mình đã có một buổi tối thật tuyệt vời.

Đầu óc tôi bắt đầu rối lên, do các ý tưởng dồn đến quá nhanh, tới mức nó luôn đan xen với nhau ở mọi góc cạnh. Giống như có một vụ đâm nhau giữa các nơron thần kinh trên xa lộ trong óc tôi vậy. Tôi càng cố phanh bớt suy nghĩ của mình lại thì tôi lại càng thấy không thể. Sự phấn khích trong tôi cũng bắt đầu lao nhanh, cho dù vẫn có một sợi chỉ lô gích nào đó điều khiển những việc tôi đang làm. Ví dụ, một hôm tôi bỗng nhiên nổi hứng với việc sao chụp tài liệu. Tôi đã sao chụp tới 30-40 bản bài thơ của Edna St. Vincent Millay, một bài báo về tôn giáo và tâm lý đăng trên Tạp chí Tâm thần học Mỹ và một bài báo khác nhan đề “Vì sao tôi không dự hội thảo về nghiên cứu thông qua một ca cụ thể” của một nhà tâm lý học nổi tiếng, người đã nói rõ lý do những cuộc hội thảo vòng vo và tổ chức kém cỏi chỉ làm mất thời gian. Đột nhiên, tôi cảm thấy cả ba bài viết này rất có ý nghĩa và đáng để nhân viên trong khoa của tôi tham khảo. Thế là tôi chuyển chúng cho tất cả mọi người.

Điều tôi lo ngại lúc này không phải là tôi đã làm một công việc điên khùng như vậy, mà là tôi có những dấu hiệu và cảm giác giống như những ngày đầu của bệnh hưng - trầm cảm. Những cuộc hội thảo bàn tròn trong khoa quả là rất lãng phí thời gian. Tuy nhiên, ông chủ nhiệm khoa không đánh giá cao những gì tôi muốn chỉ ra cho mọi người (và lại càng không thích việc tôi phân phát bài báo ấy cho tất cả nhân viên trong khoa). Bài thơ “Phục hồi” của Millay thì tôi đã đọc từ thời thiếu nữ, nhưng khi tâm trạng của tôi bắt đầu say mê và trí nhớ của tôi bắt đầu lao ngày càng nhanh hơn, tôi bỗng nhớ đến bài thơ ấy và ngay lập tức đi tìm nó. Mặc dù tôi chỉ mới bắt đầu tiến trình điện, nhưng bài thơ ấy đã nói lên toàn bộ chu kỳ mà tôi sẽ phải trải qua. Bài thơ bắt đầu bằng sự nhận biết thông thường về thế giới (“Tất cả những gì có thể thấy từ nơi tôi đứng/ Là ba dãy núi cao và một cánh rừng”). Rồi bài thơ xuyên qua trạng thái mê say và hư ảo, đến tuyệt vọng và cuối cùng lại trở về với thế giới bình thường, nhưng với khả năng nhận biết cao hơn. Millay viết bài thơ này khi 19 tuổi và sau đó bà bị suy sụp tâm thần vài lần và phải vào viện, mặc dù lúc đó tôi chưa biết chi tiết này. Thật kỳ lạ, dường như tôi biết bài thơ này có ý nghĩa đối với tôi và tôi hiểu mọi ý tứ trong bài thơ ấy. Tôi phân phát nó cho các bác sỹ và sinh viên thực tập, như muốn ngầm nói tới chu kỳ loạn thần kinh và điều quan trọng là khả năng phục hồi sau đó. Các bác sỹ, không hiểu ý tứ sâu xa của việc tôi thúc giục họ đọc bài thơ này, đã hưởng ứng vì tất cả mọi người đều phấn khởi khi có cơ hội được giải lao giữa giờ khám bệnh.

Chính trong giai đoạn này, khi tôi ngày càng sốt sắng với công việc, thì hôn nhân của tôi bắt đầu tan vỡ. Tôi bắt đầu xa lánh chồng, mà lý do chỉ vì tôi muốn có con, còn anh thì không - đây là lý do có thật và quan trọng nhưng thực tế còn phức tạp hơn nhiều. Tôi ngày càng bồn chồn, hay cáu kỉnh và luôn bị kích động. Điều bất ngờ nhất là đột nhiên tôi muốn chống lại chính những nét đáng yêu nhất của chồng, như sự tốt bụng, bình thản, nhiệt tình và tình yêu của anh. Tôi sốt sắng tìm kiếm một cuộc sống mới. Tôi tìm một căn hộ rất hiện đại

Santa Monica, cho dù tôi ghét kiến trúc hiện đại. Tôi mua đồ đạc hiện đại của Phần Lan, mặc dù tôi yêu thích những đồ dùng kiểu cổ, ấm cúng. Tất cả những gì tôi tìm kiếm đều tốt, hiện đại, nhiều góc cạnh, và thật kỳ lạ, tôi cho rằng chúng có thể làm dịu và không xâm phạm đến đầu óc ngày càng lộn xộn và rối bời của tôi. Tuy nhiên, ít nhất thì tôi cũng có một cái nhìn ngoạn mục, nhưng vô cùng tốn kém. Tiêu pha nhiều, mặc dù trong túi không có tiền như cách nói chính thức của chẩn đoán là “say sưa mua sắm một cách không kiềm chế được” chính là dấu hiệu kinh điển của bệnh điên.

Khi rơi vào trạng thái phấn khích cao độ, tôi không hề lo ngại gì về vấn đề tiền nong, dù tôi cố nghĩ tới. Vì thế, tôi đã không nghĩ tới nó nữa. Tôi tin rằng tiền sẽ có, từ một nguồn nào đó và Chúa sẽ chu cấp cho tôi. Những tấm thẻ tín dụng thật thảm hại. Séc cá nhân còn tệ hại hơn. Thật bất hạnh cho những người điên khi chứng điên lại là sự kéo dài tự nhiên của tổn hại kinh tế. Một khi đã có thẻ tín dụng và tài khoản trong ngân hàng thì việc có tiền không phải là quá khó. Vì thế, tôi đã mua tới 12 bộ đồ phòng chống rắn cắn, tới ý nghĩ rằng việc đó là cấp thiết và quan trọng. Tôi mua đá quý, mua những đồ dùng trong nhà trang nhã nhưng không cần thiết, mua ba chiếc đồng hồ mà chiếc nọ mua cách chiếc kia không đầy một giờ đồng hồ (Loại Rolex chứ không phải Timex, mặt bọt sâm banh chứ không phải một khác) và những bộ quần áo hoàn toàn không thích hợp với tôi. Trong một cơn nghiện mua sắm ở Luân Đôn, tôi đã chi tới vài trăm bảng Anh chỉ để mua những cuốn sách có tiêu đề và bìa sách mà tôi thấy bắt mắt. Đó là những cuốn sách về lịch sử tự nhiên của chuột chũi và khoảng hai chục cuốn sách khác nhau về chim cánh cụt, vì tôi nghĩ rằng sẽ là tuyệt vời biết bao nếu chim cánh cụt có một vùng lãnh thổ riêng. Một lần tôi đánh cắp chiếc áo choàng trong cửa hàng, chỉ bởi vì tôi không thể chịu đựng thêm một phút nào nữa khi nhìn thấy đôi chân đẹp của người phụ nữ xếp hàng trước mình, hay đơn giản chỉ vì tôi nghĩ đến chuyện ăn cắp. Tôi không nhớ nữa. Tôi hoàn toàn bị lú lẫn. Tôi nghĩ tôi đã tiêu pha hơn ba chục nghìn đôla trong hai cơn điên mà chỉ có Chúa mới biết tôi đã chi tiêu hết bao nhiêu nữa trong những lần điên nhẹ mà vẫn thường xảy ra với tôi.

Nhưng rồi khi dùng thuốc Lithi và trở lại với cuộc sống thực, bạn sẽ thấy thẻ tín dụng của bạn đã bị tổn hại và sự xấu hổ của bạn lên đến tột cùng. Chứng điện không phải là một sự xa hoa mà người ta có thể dễ dàng đáp ứng. Đó là một căn bệnh tàn phá. Hơn thế nữa, người ta còn phải mua thuốc, thử máu và điều trị tâm lý. Những khoản chi này ít nhất còn được giảm thuế một phần. Còn những khoản chi khi bị điện không nằm trong diện được miễn giảm thuế của Cơ quan Thuế vụ cho các khoản chi phí chữa bệnh hay thua lỗ trong làm ăn. Vì thế, sau trận điên, khi mà bạn đã suy sụp, thì bạn lại càng có thêm lý do để tuyệt vọng.

Cho dù đã nhận bằng tiến sỹ kinh tế của Trường Đại học Harvard, nhưng anh tôi không hề được chuẩn bị để giải quyết mớ bòng bong tài chính bày ngổn ngang trên sàn nhà trước mặt anh. Đó là một đống hoá đơn đòi tiền của công ty dịch vụ thẻ tín dụng, hàng lô giấy báo màu hồng của ngân hàng thông báo tôi đã chi quá số tiền có trong tài khoản và đủ loại giấy đòi nợ lần thứ hai và lần thứ ba của các cửa hàng mà tôi đã lượn qua mua sắm gần đây. Đáng ngại hơn nữa là một đống thư, với những lời lẽ đầy hăm dọa của các công ty chuyên đòi nợ. Sự lộn xộn còn thấy rõ ngay khi bước chân vào nhà, với một đống ngổn ngang những hộp điện tử mà chỉ vài tuần trước bộ óc điện rồ của tôi đã coi chúng là phù hợp. Ngay sau khi đã dùng thuốc và bị vùi dập đến thê lương, tôi lại bị ám ảnh trước việc phải sàng lọc và giải quyết một lô hậu quả chi tiêu thiếu trách nhiệm về tài chính của mình. Nó giống như tôi đang khảo cổ lại những kỷ nguyên trước đó của tâm hồn mình vậy. Ví dụ có một hoá đơn của nhà sản xuất thú nhồi ở Plains, bang Virginia, đòi tiền một con cáo nhồi, mà tôi nghĩ là tôi rất cần. Tôi yêu động vật trong suốt cuộc đời mình và đã có lúc tôi muốn trở thành bác sỹ thú y. Thế thì tại sao tôi lại có thể mua một động vật chết? Tôi rất yêu quý cáo và ngưỡng mộ chúng. Tôi nghĩ chúng nhanh nhẹn, thông minh và đẹp. Thế thì tại sao tôi lại có thể góp phần trực tiếp vào việc giết một con cáo để lấy da nhồi? Tôi hoảng sợ trước bản chất ghê tởm của vụ đặt hàng này, kinh tởm với chính mình và tôi không thể hình dung được tôi sẽ phải làm gì với nó, một khi người ta đưa hàng tới.

Với ý định thay đổi sự chú ý của mình, tôi bắt đầu thọc tay vào đống giấy tờ liên quan đến thẻ tín dụng. Ngay gần trên cùng là hoá đơn đòi tiền của cửa hàng dược phẩm, nơi tôi đã mua những bộ đồ chống rắn cắn. Viên dược sỹ, người vừa bán Lithi cho tôi theo đơn thuốc đầu tiên, đã mỉm cười ra vẻ hiểu biết khi tôi lại rung chuông đề nghị anh ta bán cho tôi những bộ đồ chống rắn cắn, cùng một lộ những thứ vớ vẩn, vô dụng và kỳ lạ khác nữa. Tôi biết anh ta đang nghĩ gì, và như một sự rộng lượng của tâm trạng hứng khởi, tôi đã đánh giá cao khiếu hài hước của anh ta. Tuy nhiên, khác với tôi, anh ta…dường như không hiểu một cách đầy đủ mối nguy hiểm đến tính mạng mà những con rắn có thể gây ra ở thung lũng San Fernando. Chúa đã chọn tôi và dường như chỉ một mình tôi, để cảnh báo với thế giới về sự lan tràn của những con rắn chết người ở miền đất hứa. Tôi đã nghĩ đại loại thế khi đi lang thang trong ảo giác. Tôi nghĩ, với việc mua toàn bộ số bộ đồ chống rắn cắn mà cửa hàng dược có sẵn, tôi đã làm tất cả những gì có thể để bảo vệ mình và những người mà tôi quan tâm. Trong khi lượn khắp cửa hàng dược, tôi còn nảy ra ý định cảnh báo mối nguy hiểm này qua tờ Thời báo Los Angeles nữa. Tuy nhiên, khi đó tôi đã quá điên, tới mức không thể kết nối những ý tưởng của mình lại để hoàn thành kế hoạch được nữa.

Anh tôi dường như đọc được suy nghĩ của tôi, bước vào phòng với một chai sâm banh và những chiếc cốc trên khay. Anh nói, anh nghĩ chúng tôi cần phải uống sâm banh, vì tất cả những việc này sẽ “không thích thú lắm”. Anh tôi không phải là người cường điệu, nhưng cũng chẳng phải là người hay vò đầu bứt tai, hoặc nghiến răng kèn kẹt. Thay vào đó, anh là một người công bằng, thực tế, rộng lượng, và vì là một người tự tin anh luôn có xu hướng khuyến khích niềm tin người khác. Với tất cả những phẩm chất ấy, anh rất giống mẹ tôi. Trong thời gian bố mẹ tôi ly thân, và sau đó là ly hôn, anh đã giang cánh tay ra che chở tôi, bảo vệ tôi khỏi những nỗi đau của cuộc đời và tâm trạng không ổn định của tôi, trong khả năng mà anh có thể. Đôi cánh tay của anh luôn là chỗ dựa tin cậy của tôi. Kể từ ngày tôi bắt đầu vào trường đại học, trong suốt những năm học đại học, những ngày làm giáo viên đại học, và trên thực tế là đến tận ngày nay, cũng như mai sau, mỗi khi tôi cần khuây khoả hay làm dịu cơn đau, hoặc đơn giản chỉ vì muốn đi chơi, tôi luôn nhận được một tấm vé máy bay trong thùng thư, với một lời gợi ý tôi nên đến chỗ anh ở đâu đó, như Boston, New York, Colorado hay San Francisco. Anh thường ở một trong những nơi này để nói chuyện, tư vấn cho tôi hay nghỉ ngơi vài ngày. Tôi gặp anh ở sảnh của một khách sạn nào đó, hoặc tại một nhà hàng lịch sự. Tôi sung sướng mỗi khi thấy anh cao, đẹp trai và ăn mặc lịch sự - bước nhanh qua căn phòng. Cho dù tâm trạng của tôi có thế nào, hay tôi đang gặp phải vấn đề gì chăng nữa, anh vẫn tạo được cho tôi cảm giác rằng anh rất vui khi gặp tôi. Mỗi lần tôi ra nước ngoài sống - đầu tiên là tới Xcốtlen với tư cách sinh viên đại học, sau đó tới Anh với tư cách sinh viên sau đại học và hai lần tới Luân Đôn trong các dịp nghỉ kết hợp nghiên cứu của Trường Đại học California - tôi đều biết rằng anh sẽ tới chỉ sau một vài tuần, để xem tôi ăn ở ra sao và tôi tới đó làm gì, rồi anh đưa tôi đi ăn tối và gợi ý cùng tới các cửa hàng Hatchards, Dillons hay hiệu sách nào đó. Sau lần tôi bị điện năng đầu tiên, đôi cánh tay của anh càng ôm chặt lấy tôi hơn. Anh đã cho tôi thấy một cách rất rõ ràng rằng nếu tôi cần tới anh, thì cho dù anh đang ở đâu, anh cũng sẽ lên chuyển máy bay ngay sau đó để cùng tôi về nhà.

Lần này, anh cũng không đưa ra bất cứ một lời phán xét nào về những khoản mua sắm hoàn toàn vô lý của tôi, hoặc nếu có thì anh cũng không nói ra với tôi. Nhờ khoản vay cá nhân từ liên đoàn tín dụng của Ngân hàng thế giới, nơi anh làm việc với tư cách một nhà kinh tế, chúng tôi đã có thể viết séc chi trả tất cả các khoản nợ đọng. Dần dần, sau nhiều năm, tôi cũng hoàn trả được cho anh khoản vay này. Nói một cách chính xác hơn là tôi đã trả lại được khoản tiền mà tôi nợ anh, nhưng tôi không bao giờ có thể trả được cho anh tình yêu, sự tốt bụng và sự thấu hiểu của anh với tôi.

Tôi tiếp tục cuộc sống của mình với nhịp độ đáng sợ. Tôi làm việc triền miên và ngủ rất ít. Khi trở về nhà vào ban đêm, thì đó lại là nơi làm cho đầu óc tôi thêm rối bời. Sách, mà nhiều quyển trong đó là mới mua, vứt tứ tung khắp nơi. Quần áo chất thành từng đống khắp các phòng, cùng những túi gói hàng đã mở vứt tung toé và những túi mua hàng thậm chí vẫn chưa lấy hết đồ ra. Căn hộ của tôi trông giống như không có người ở và đã bị một đàn chuột trấn giữ vậy. Trong phòng còn có hàng trăm mảnh giấy cắt, một ít ở trên bàn, một ít trong giá bếp và một đống trên sàn nhà. Trong số những mảnh giấy cắt ấy có một bài thơ không mạch lạc và dông dài mà tôi tìm thấy trong tủ lạnh vài tuần sau đó. Khỏi cần phải nói, rõ ràng đây là sản phẩm của hứng sưu tập đã phát triển rất nhanh trong thời gian tôi bị điên. Tôi đã đặt cho bài thơ ấy một tiêu đề, mà nghĩ rằng phải có một ý nghĩa nào đó vào lúc ấy, “Chúa là động vật ăn cỏ”. Có rất nhiều bài thơ và đoạn thơ như vậy và chúng được vứt tung toé khắp nơi. Nhiều tuần sau khi đã dọn sạch căn hộ của mình, thỉnh thoảng tôi vẫn còn bắt gặp những mảnh báo - với những lời chủ thích ở ngoài rìa - được cất ở những nơi rất ít khi tôi nghĩ rằng chúng có thể ở đó.

Sự nhận biết và cảm nhận âm thanh nói chung và âm nhạc nói riêng của tôi bỗng trở nên mãnh liệt. Từng nốt nhạc của kèn co, kèn oboe và đàn cello bỗng trở nên vô cùng sầu thảm. Tôi nghe rành rẽ từng nốt, rõ tất cả các nốt, rồi chúng quyện lại với nhau tạo thành những âm hưởng rõ ràng và đẹp đẽ. Tôi có cảm giác như mình đang đứng trước một dàn hợp xướng. Nhưng không lâu sau đó, tôi lại không thể chịu đựng nổi sự mãnh liệt và buồn thảm của nhạc cổ điển. Tôi bồn chồn với nhịp điệu của nhạc cổ điển và bị chìm trong cảm xúc của nó. Tôi vội vàng chuyển sang nghe nhạc rock. Tôi lôi tập album của ban nhạc Rolling Stones ra và mở loa hết cỡ. Tôi đổi hết bản nhạc này đến bản nhạc khác, hết album này đến album khác, để cho tâm trạng hoà đồng với âm nhạc và âm nhạc đồng điệu với tâm hồn. Trong khi tôi tìm kiếm loại âm nhạc phù hợp với mình, thì căn hộ của tôi lại lộn xộn thêm với những đĩa nhạc, băng nhạc và túi album nhạc. Sự lộn xộn trong đầu tôi phản ánh sự lộn xộn trong phòng. Tôi không lĩnh hội được những gì tôi nghe nữa. Tôi bắt đầu rối trí, sợ hãi và mất phương hướng. Tôi không thể nghe bất cứ đoạn nhạc nào quá vài ba phút. Hành động của tôi cuồng lên, còn đầu óc tôi thì điên cuồng hơn thế.

Bóng đen bắt đầu từ từ len lỏi vào đầu tôi và không lâu sau đó tôi mất hết khả năng kiểm soát. Tôi không thể đuổi kịp những suy nghĩ của chính mình. Từng câu, từng câu cứ bay quanh đầu tôi, rồi chúng vỡ ra thành từng mệnh đề, rồi lại vỡ ra thành từng từ và cuối cùng chỉ còn lại ngữ âm. Một buổi chiều muộn, tôi đứng giữa phòng nhìn ra ngoài, ngắm ánh hoàng hôn đỏ rực như máu trải khắp đường chân trời của Thái Bình Dương. Đột nhiên tôi thấy một cảm giác lạ ở trong mắt tôi. Ngay lập tức, tôi nhìn thấy một cỗ máy li tâm khổng lồ, đen ngòm ở ngay trong đầu mình. Tôi thấy một nhân vật cao; trong bộ áo choàng buổi tối dài sát nền nhà, tiến tới chiếc máy li tâm. Tay bà ta cầm một ống thủy tinh to bằng lọ hoa, chứa đầy máu. Khi nhân vật ấy quay đầu lại, tôi hoảng sợ nhận ra đó chính là mình và máu bê bết trên áo quần, áo choàng và đôi găng tay dài trắng của tôi. Tôi nhìn thấy nhân vật ấy cẩn thận đặt ống thủy tinh chứa đầy máu vào một trong những khe của máy li tâm, đậy nắp lại, rồi bật công tắc ở phía trước máy. Chiếc máy li tâm bắt đầu quay. Sau đó, thật kinh hoàng, hình ảnh mà trước đó nằm trong đầu tôi, nay nhảy hẳn ra ngoài. Người tôi cứng đờ vì sợ hãi. Tiếng quay của máy li tâm và tiếng va đập của ống thủy tinh vào kim loại cứ to dần, to dần và cỗ máy bỗng vỡ tan ra thành hàng nghìn mảnh. Máu tung toé khắp nơi. Máu bắn lên ô cửa sổ, lên tường, lên tranh ảnh và ướt sũng thảm sàn nhà. Tôi nhìn ra ngoài đại dương thấy máu trên ô cửa sổ hoà nhập vào ánh hoàng hôn. Tôi không biết máu kết thúc ở đâu và hoàng hôn bắt đầu từ đâu. Tôi thét lên với tất cả lượng hơi trong phổi. Dù vậy, tôi cũng không thoát được khỏi cảnh máu me và tiếng va đập của cỗ máy đang quay nhanh dần, nhanh dần. Suy nghĩ của tôi không chỉ đảo lộn điên cuồng, mà còn biến thành ảo ảnh khủng khiếp, một hình ảnh thật và đáng sợ về cuộc đời và tâm trạng vượt ra ngoài tầm kiểm soát. Tôi hét lên, rồi lại hét lên. Ảo giác tan dần. Tôi gọi điện cho một đồng nghiệp nhờ anh ta giúp đỡ. Rồi tôi uống một cốc to rượu uytxki và đợi anh ta đến.

Thật may là trước khi bệnh điện của tôi được công khai rộng rãi, anh bạn đồng nghiệp này - người mà tôi đã hẹn hò tình ái kể từ khi li thân với chồng, cùng một số người khác biết và thấu hiểu tôi - đã sẵn sàng chấp nhận sự phẫn nộ điên khùng và ảo giác của tôi. Anh ép tôi phải uống Lithi, một việc chẳng dễ dàng gì đối với anh – vì tôi bị kích động đến rồ dại, hoang tưởng và có những hành vi bạo lực - nhưng anh đã xử lý tất cả những chuyện ấy rất khéo léo, khoan dung và đầy thấu hiểu. Anh là người tế nhị, nhưng tỏ ra kiên quyết khi nói với tôi rằng tôi đã mắc bệnh rối loạn lưỡng cực và thuyết phục tôi tới bác sỹ tâm thần khám bệnh. Chúng tôi cùng tìm kiếm tất cả những bài viết về căn bệnh này. Chúng tôi đọc tất cả những gì có thể và tìm hiểu về cách chữa trị. Lithi mới chỉ được Cơ quan Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ cho phép sử dụng trong chữa trị bệnh điện bốn năm trước đó, năm 1970, nhưng chưa phổ biến ở California. Tuy nhiên, qua các bài viết y học, chúng tôi thấy rõ Lithi là loại thuốc duy nhất có thể có hiệu quả đối với tôi. Anh kê đơn Lithị và các loại thuốc thần kinh khác cho tôi sử dụng trong thời gian ngắn, khẩn cấp, đủ để làm dịu cơn điên của tôi, cho tới khi tôi tới bác sỹ tâm thần khám bệnh. Anh lấy sẵn số lượng thuốc tôi phải uống vào mỗi buổi sáng và buổi tối. Anh dành hàng giờ nói chuyện với gia đình tôi về tình trạng bệnh tật của tôi và bày cho họ cách tốt nhất để giải quyết vấn đề này. Anh đã vài lần lấy máu của tôi để kiểm tra lượng Lithi và đưa ra những dự đoán đầy phấn khích về khả năng phục hồi của tôi. Anh cũng kiên quyết yêu cầu tôi tạm nghỉ việc một thời gian ngắn, nhờ đó mà tôi khỏi bị mất việc và khỏi bị mất những đặc ân của bệnh viện. Anh cũng bố trí người chăm sóc tôi ở nhà trong những khoảng thời gian mà anh không thể ở bên cạnh tôi.

Trong lần điên đầu tiên này, tôi cảm thấy bị suy sụp một cách tệ hại và nguy hiểm hơn rất nhiều so với lúc bị trầm cảm nặng. Cảm giác khủng khiếp nhất là những cơn chao đảo, trồi lên rồi sụt xuống tâm thần tôi hoàn toàn bị rối loạn. Trước đó tôi đã bị điên nhẹ nhiều lần, nhưng chưa bao giờ có cảm giác hoảng sợ, mà nhẹ nhất là rơi vào trạng thái đê mê, còn tệ nhất là bị rối loạn. Tôi đã biết cách tự điều chỉnh trong những tình huống ấy. Tôi đã tạo dựng được phương pháp tự kiểm soát, để kiềm chế những trận cười không thích hợp và hạn chế đến mức thấp nhất sự cáu kỉnh. Tôi né tránh những tình huống có thể chạm tới, hoặc kích thích hệ thần kinh quá nhạy cảm của mình. Tôi cũng học được cách giả vờ như đang tập trung suy nghĩ về một vấn đề nào đó, khi tâm trí tôi nhảy ra khỏi đầu để đuổi theo những con thỏ ở hàng nghìn hướng khác nhau. Công việc và cuộc đời sự nghiệp của tôi như bị tan chảy. Tuy nhiên, không có ở đâu, cả nền giáo dục, trí tuệ và phẩm cách của tôi lại chuẩn bị cho tôi sẵn sàng đối phó với bệnh điên.

Mặc dù bệnh điên của tôi phải mất nhiều tuần mới phát bệnh và tôi biết có chuyện gì đó rất không ổn, nhưng có những lúc tôi biết chính xác rằng tôi đã bị điên. Ý nghĩ của tôi lướt qua rất nhanh, tới mức chỉ tới giữa chừng là tôi đã không nhớ phần đầu của nó là gì nữa. Từng mảng ý tưởng, hình ảnh và câu văn cứ đuổi nhau trong đầu tôi, như những con hổ trong chuyện kể thiếu nhi vậy. Cuối cùng, giống như những con hổ ấy, chúng tan chảy thành những vũng nước vô nghĩa. Tất cả những gì đã từng quen thuộc với tôi nay không còn quen thuộc nữa. Tôi rất muốn kìm hãm tình trạng này, nhưng không thể. Không có bất cứ cách nào có thể có ích - cả việc chạy từ đầu này tới đầu kia bãi đỗ xe trong nhiều giờ hay bơi qua nhiều dặm. Tôi làm mọi cách nhưng dường như đều không chạm được tới nguồn sinh lực trong tôi. Quan hệ tình dục bỗng trở nên quá mãnh liệt, tới mức không còn thấy sung sướng nữa và vào lúc ấy, tôi có cảm giác như đầu óc tôi bị bao bọc bởi những vệt tối đáng sợ. Ảo giác của tôi chỉ toàn thấy những cái chết đau đớn và từ từ của mọi cây xanh trên thế giới - từ dây leo này đến dây leo khác, từ thân cây này đến thân cây khác, từ chiếc lá này đến chiếc lá khác, cứ lần lượt chết đi, mà tôi không làm thế nào cứu chúng được. Những tiếng thét của chúng thật chói tai. Tất cả những hình ảnh ấy dần chuyển thành màu đen rồi tan biến.

Đã có lúc tôi quyết định nếu đầu óc của tôi mà nhờ nó tôi kiếm sống và đã từng ổn định trong nhiều năm - không chấm dứt hiện tượng truy đuổi nhau trong đầu và tôi không thể trở lại làm việc bình thường, thì tôi sẽ tự tử bằng cách nhảy từ nóc toà nhà 12 tầng gần đó. Tôi đã đặt ra thời hạn chót 24 giờ. Nhưng tất nhiên là tôi không còn cảm giác gì về thời gian nữa và hàng triệu suy nghĩ khác - cả cao thượng lẫn bệnh hoạn - vẫn đan xen nhau và đuổi nhau trong đầu tôi. Những ngày khủng khiếp và kinh hoàng. Cuối cùng Thorazine, Lithi, Valium và các loại thuốc an thần đã có tác dụng. Tôi cảm thấy tâm trạng của tôi bắt đầu ghìm cương, chậm dần và cuối cùng dừng lại. Tuy nhiên phải rất lâu sau tôi mới công nhận những suy nghĩ của mình, còn cho đến khi tôi có thể tin vào suy nghĩ của mình thì còn lâu hơn thế nhiều.

Lần đầu tiên tôi gặp người sau này trở thành bác sĩ tâm thần của tôi là khi ông làm bác sĩ trưởng của Viện Chức năng thần kinh UCLA. Ông cao, ưa nhìn và có quan điểm rất mạnh mẽ. Ông cứng rắn, nhưng hài hước và có nụ cười khá dễ mến, mà có thể làm dịu đi những tình huống khó khăn. Ông là người kiên quyết, rất nguyên tắc, biết mình đang làm gì và rất chú ý tới những biện pháp để thực hiện công việc đó. Ông yêu nghề bác sĩ và là một giáo viên tuyệt vời. Trong năm tôi làm thực tập sinh điều trị tâm lý trước khi nhận bằng tiến sĩ, ông được giao nhiệm vụ giám sát công tác điều trị của tôi--khoa bệnh nhân người lớn. Ông là người có lý trí, đưa ra những chẩn đoán rất nghiêm khắc, nhưng đầy tình thương, ở một khoa mà lòng tự trọng của con người đã trở nên quá mong manh và đầy rẫy những mâu thuẫn giữa nội tâm và nhục dục. Trong khi ông ủng hộ việc điều trị sớm và bằng biện pháp y học kiên quyết với những bệnh nhân rối loạn tâm thần, ông vẫn rất tin vào tầm quan trọng của liệu pháp tâm lý để chữa lành và tạo ra những thay đổi bền vững ở bệnh nhân. Tình thương bệnh nhân, cùng với sự hiểu biết sâu rộng về y học, tâm thần học và bản chất con người của ông đã để lại những ấn tượng tốt trong tôi. Khi tôi bị điên nặng, ngay sau khi trở thành giáo viên của UCLA, ông là người duy nhất tôi tin tưởng % cuộc sống của mình. Bằng trực giác của mình, tôi hiểu rằng tôi không thể nói nhiều hơn, suy nghĩ nhanh hơn và hành động nhanh hơn ông. Giữa một mớ vô cùng lộn xộn trong đầu, đó là quyết định tỉnh táo và rất có ý nghĩa của tôi.

Khi lần đầu tiên tôi gọi điện xin hẹn khám, tôi không chỉ rất yếu, mà còn hoảng sợ và rất bối rối. Tôi chưa bao giờ tới bác sĩ tâm thần hay nhà tâm lý nào để khám bệnh. Tuy nhiên, tôi không còn sự lựa chọn nào khác. Tôi đã hoàn toàn mất trí. Nếu không nhận được sự giúp đỡ của các nhà chuyên môn, tôi rất có thể bị mất việc, mất đi cuộc hôn nhân mong manh và thậm chí cả cuộc đời mình nữa. Tôi lái xe từ phòng làm việc ở UCLA tới phòng khám của ông ở thung lũng San Fernando. Đó là một buổi chiều tà ở Nam California, khoảng thời gian thường là đáng yêu trong ngày, nhưng tôi - lần đầu tiên trong đời – rùng mình vì sợ. Tôi sợ những gì ông sẽ nói với tôi và sợ cả những điều ông không thể nói ra với tôi. Đó là một trong những lần tôi không thể suy nghĩ hoặc cười để thoát ra khỏi hoàn cảnh mà tôi đã lâm vào và cũng không biết liệu trên đời này có cái gì đó có thể làm cho tôi khá hơn được không.

Tôi ấn nút cầu thang máy và đi dọc hành lang tới phòng đợi. Hai bệnh nhân khác cũng đang ngồi chờ bác sỹ. Họ càng làm cho tôi cảm thấy nhục nhã và xấu hổ với vị trí bệnh nhân hẹn khám của mình. Tôi cũng bắt đầu chán ngán tất cả những cơ hội xây dựng uy danh, mà vì nó người ta phải hy sinh cả cuộc sống bình thường của mình. Nếu tôi không ở trong tình trạng mong manh như khi ấy, tất cả những điều này có thể không trở nên nghiêm trọng đến thế. Tuy nhiên khi ấy tôi bối rối, hoảng sợ và tất cả những nhận thức về bản thân mình bỗng nhiên bị đảo lộn. Sự tự tin, vốn đã thấm sâu vào mọi góc cạnh của cuộc đời tôi từ rất lâu, bỗng nhiên tan biến.

Tôi nhìn thấy một dãy nút bấm, cái thì sáng, cái thì không sáng trên bức tường đối diện của phòng đợi. Rõ ràng là tôi phải bấm vào một trong những nút đó, để bác sỹ tâm thần của tôi biết rằng tôi đã tới. Tôi có cảm giác mình giống như một con chuột bạch khổng lồ, ấn bàn chân đầy móng vuốt vào chiếc đòn bẩy để lấy viên thức ăn. Đó là hệ thống tín hiệu tuy thực dụng, nhưng lại làm mất danh giá của con người đến kỳ lạ. Tôi bị chìm trong suy nghĩ rằng có lẽ tôi không thích hợp lắm với vị trí bệnh nhân bên bàn khám bệnh.

Bác sỹ tâm thần của tôi mở cửa. Ông nhìn tôi rất lâu, bảo tôi ngồi xuống và an ủi tôi. Tôi hoàn toàn không nhớ ông đã nói gì - tôi tin rằng đó là những ngôn từ mà bình thường người ta phải nói thôi nhưng tôi có cảm giác rằng một tia sáng nhỏ, rất nhỏ và rất chậm chạp, len dần vào đầu óc đen tối và hoảng sợ của tôi. Tôi gần như hoàn toàn không nhớ mình đã nói gì trong lần khám đầu tiên này, nhưng tôi biết đó chỉ là những câu dông dài, yếu ớt và lộn xộn. Ông ngồi đó, dường như rất chăm chú lắng nghe, cái bóng cao 1,9 mét của ông trải dài từ ghế xuống sàn nhà, đôi chân hết gác lên nhau lại bỏ ra và những ngón tay dài của ông cứ gõ mãi vào nhau. Sau đó ông bắt đầu hỏi.

Tôi ngủ bao nhiêu giờ mỗi ngày? Tôi có gặp khó khăn gì trong việc tập trung tâm trí không? Tôi có nói nhiều hơn bình thường không? Tôi có nói nhanh hơn bình thường không? Có ai đề nghị tôi nói chậm lại không, hay họ có hiểu tôi nói gì không? Tôi có cảm giác là buộc phải nói liên tục không? Tôi có cảm thấy có nhiều sinh lực hơn bình thường không? Những người khác có nói họ phải vất vả mới theo kịp tôi không? Tôi có tham gia nhiều hoạt động hơn bình thường không và có thực hiện nhiều dự án hơn không? Có phải những suy nghĩ của tôi diễn ra quá nhanh, tới mức tôi khó theo kịp được chúng không? Có phải tôi ít nghỉ ngơi hơn và dễ xúc động hơn không? Tôi có quan hệ tình dục nhiều hơn không? Tôi có tiêu tiền nhiều hơn không? Tôi có hành động hấp tấp không? Tôi có dễ cáu kỉnh và giận dữ hơn bình thường không? Tôi có cảm giác rằng mình có tài năng hay uy lực đặc biệt không? Tôi có nhìn thấy hay nghe thấy hình ảnh và âm thanh nào mà những người khác không nhìn thấy hay nghe thấy không? Tôi có cảm giác kỳ lạ nào không? Trước đây đã bao giờ tôi gặp phải triệu chứng này chưa? Có ai trong gia đình tôi có triệu chứng giống như tôi không?... 

Tôi nhận ra rằng tôi đang trải qua một kỳ sát hạch rất chi tiết về bệnh tâm thần. Những câu hối này là khá quen thuộc. Tôi đã hỏi những người khác những câu hỏi ấy hàng trăm lần rồi. Tuy nhiên, tôi cảm thấy mất tự tin khi phải trả lời những câu hỏi đó. Tôi mất tự tin vì không biết tất cả những chuyện này rồi sẽ đi tới đâu và mất tự tin khi nhận ra rằng tôi bối rối biết bao khi trở thành một bệnh nhân. Tội trả lời “có” cho hầu hết các câu hỏi của ông, kể cả hàng loạt lời giải thích dài dằng dặc về sự trầm cảm nữa. Rồi tôi có cảm giác rằng tôi đang nhận được sự tôn trọng mới cả về nghề nghiệp lẫn tâm thần. 

Dần dần, kinh nghiệm của ông với tư cách một bác sĩ và sự tự tin của ông với tư cách một con người, bắt đầu có hiệu lực, rất giống với tác động của thuốc làm địu dần cơn điên. Ông nói rất rõ ràng rằng ông nghĩ tôi đã bị hưng-trầm cảm và tôi cần phải uống thuốc Lithi, có thể vô thời hạn. Điều đó làm tôi vô cùng hoảng sợ - khi đó tôi biết ít hơn bây giờ rất nhiều về căn bệnh này, cũng như những dự báo về tiến trình phát triển của nó — nhưng nó cũng đồng thời làm tôi địu đi, vì tôi đã được nghe lời chẩn đoán mà trong thâm tâm tôi biết là đúng. Dù vậy tôi vẫn tìm cách cưỡng lại lời phán xét mà ông vừa giáng xuống đầu tôi, nhưng không thành công. Ông lắng nghe một cách kiên nhẫn. Ông lắng nghe tất cả những lời giải thích khác về sự suy sụp tinh thần của tôi - sức ép của cuộc hôn nhân cưỡng bức, sức ép của việc trở thành giáo viên tâm thần ở trường đại học và sức ép của công việc quá nhiều — nhưng ông vẫn giữ nguyên chẩn đoán của mình và gợi ý rằng tôi cần điều trị bằng thuốc. Tôi cay đắng cưỡng lại, nhưng lại nhẹ người đi rất nhiều. Tôi vô cùng kính trọng ông vì những suy nghĩ rất rõ ràng của ông, vì sự quan tâm mà ông dành cho tôi và vì ông không ngần ngại nói ra một tin xấu. 

Trong rất nhiều năm sau, tôi thường xuyên tới ông khám bệnh, ít nhất mỗi tuần một lần, trừ khi tôi sống ở Anh. Những khi tôi thấy quá trầm cảm hoặc muốn tự tử, tôi tới chỗ ông thường xuyên hơn. Ông đã hàng nghìn lần giữ lại cuộc sống của tôi. Ông theo dõi tôi vượt qua những cơn điên rồi suy sụp, những lúc tuyệt vời và tình yêu cháy bỏng, những lúc bị vỡ mộng và những lúc vinh quang, những khi bệnh tái phát và lúc tôi mưu toan tự tử, khi người đàn ông mà tôi yêu say đắm qua đời và những khi tôi hài lòng hay bực dọc với công việc chuyên môn của mình. Tóm lại, ông theo dõi tôi vượt qua gần như tất cả mọi khía cạnh của cuộc sống tâm hồn _ và tâm lý của tôi, kể từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc. Ông rất cứng rắn, nhưng cũng rất tốt bụng. Ông hiểu hơn ai hết về những mất mát to lớn - cả về sinh lực, sự sôi nổi và tính độc đáo - của tôi khi uống thuốc, nhưng ông cũng chưa bao giờ nhân nhượng trong đánh giá về những tổn thất, thiệt hại và sự nguy hiểm đến tính mạng, mà căn bệnh của tôi có thể mang lại. Ông dễ dàng vượt qua sự mơ hồ, không ngại những rắc rối và có khả năng đưa ra quyết định đúng giữa những điều rối rắm. Ông điều trị cho tôi với sự tôn trọng, với khả năng chuyên môn rất cao, với khiếu hài hước và niềm tin vững chắc rằng tôi sẽ hồi phục, tôi sẽ đấu tranh với bệnh tật và tôi có thể làm thay đổi tình hình. 

Mặc dù tôi tìm đến ông để chữa bệnh, nhưng ông đã dạy cho tôi nhiều điều, ví dụ như tác động của bộ óc tới tâm thần và tâm hồn tới bộ óc ở những bệnh nhân của tôi. Tính khí, tâm trạng và bệnh tật của tôi rõ ràng là ảnh hưởng rất nhiều tới mối quan hệ của tôi với những người khác, cũng như tới công việc của tôi. Tuy nhiên, chính tâm trạng của tôi lại cũng chịu ảnh hưởng rất lớn của những mối quan hệ ấy và của công việc. Thách thức ở đây là hiểu được sự phức tạp của những mối quan hệ tác động lẫn nhau này, xác định được vai trò rõ ràng của Lithi, của ý chí và sự sáng suốt để vượt qua bệnh tật, tiến tới một cuộc sống có ý nghĩa. Đó là nhiệm vụ và cũng là món quà của liệu pháp tâm lý. 

Trong khoảng thời gian này, tôi không thể hình dung được khả năng trở lại với cuộc sống bình thường, nếu không uống Lithi và không được điều trị bằng liệu pháp tâm lý. Lithi giúp tôi tránh được những cơn cao hứng đầy quyến rũ, nhưng nguy hiểm, làm dịu những cơn trầm cảm, giúp tôi thoát khỏi mớ bòng bong suy nghĩ lộn xộn của mình, làm cho tôi bình tĩnh trở lại, giúp tôi thoát khỏi tình huống của mình, giúp tôi khỏi bị mất việc và mất những mối quan hệ của mình, tránh cho tôi khỏi phải vào viện, giữ cho tôi tiếp tục sống và tạo điều kiện cho liệu pháp tâm lý phát huy hiệu quả. Tuy nhiên, chính liệu pháp tâm lý mới chữa lành bệnh cho tôi. Nó giúp tôi nhận thức được sự lộn xộn, kiềm chế những suy nghĩ và cảm giác khủng khiếp, khôi phục lại khả năng kiểm soát và niềm hy vọng và có lẽ cả khả năng rút ra được bài học từ tất cả những điều đó nữa. Thuốc không và không thể đưa người ta trở lại với thực tế. Thuốc chỉ kiềm chế người ta khỏi những cơn liều lĩnh và mất phương hướng và rút ngắn cơn điên mà thôi. Liệu pháp tâm lý là nơi trú ẩn, là chiến trường, nơi tôi đã từng bị tâm thần, bị rối loạn thần kinh chức năng, bị kích động, và tuyệt vọng đến mức không thể tưởng tượng nổi. Tuy nhiên, đó cũng chính là nơi tôi tin rằng, hay đã học được cách tin rằng, tới một ngày nào đó, tôi có thể chiến thắng tất cả những chuyện đó.

Không có loại thuốc nào chữa được bệnh không muốn uống thuốc, không có một liệu pháp tâm lý nào, mà riêng nó có thể ngăn tôi khỏi bị điện và trầm cảm. Tôi cần cả hai. Thật kỳ quặc khi phải gắn cả cuộc đời với thuốc, mà uống thuốc trở thành một thói quen suốt cả cuộc đời, và gắn với cách chữa trị độc đáo, kỳ lạ, nhưng cuối cùng lại rất có hiệu quả, gọi là liệu pháp tâm lý.

Tuy nhiên, không phải tôi đã sớm nhận ra rằng tôi phải gắn cả cuộc đời với thuốc. Tôi đã phải trả giá đắt cho việc đánh giá không đúng sự cần thiết phải uống Lithi.

Nhớ Sao Thổ

Mỗi người điên theo một cách khác nhau. Có lẽ, không có gì đáng ngạc nhiên, khi tôi, con gái của nhà khí tượng, bỗng tự thấy mình chìm trong ảo ảnh đầy thú vị của đêm hè, lướt đi, bay đi và thỉnh thoảng cũng trong tránh khi xuyên qua những đám mây dày và lướt trên chín tầng mây, vượt qua những ngôi sao và xuyên qua những cánh đồng băng tuyết trong suốt. Ngay cả đến bây giờ, trong con mắt độc đáo ở đầu mình, tôi vẫn thấy thứ ánh sáng như vỡ ra và chuyển dịch, những sắc màu không ổn định, nhưng mê mẩn lòng người, tạo thành những vòng tròn rộng hàng dặm. Và thật khó có thể tưởng tượng được, tôi đã thấy những hành tinh nhợt nhạt trong vòng tròn bao quanh ngôi sao ấy. Tôi còn nhớ là tôi đã hát bài “Hãy đưa tôi bay lên Mặt trăng”, khi tôi lướt qua vòng tròn đó của Sao Thổ. Thật kỳ lạ. Tôi đã nhìn thấy và được chiêm ngưỡng cái chỉ xuất hiện trong giấc mơ hay trong những ước vọng chập chờn.

Cái đó có thực không? Chắc chắn là không.

Không với đúng nghĩa của từ “thực”. Nhưng nó có ở trong tôi không? Chắc chắn là có. Cho tới rất lâu sau khi tâm thần của tôi đã ổn định và thuốc đã có hiệu lực, nó vẫn là một phần trong trí nhớ của tôi và được bao bọc trong sự phiền muộn. Rất lâu sau chuyến du hành ấy của trí óc và tâm hồn, Sao Thổ cùng vòng tròn bằng của nó vẫn luôn mang một vẻ đẹp buồn thảm. Nay mỗi lần nhìn thấy hình ảnh của Sao Thổ, tôi lại thấy vô cùng buồn bã, buồn vì nó ở quá xa và không làm thế nào nắm bắt được. Cảm xúc mạnh mẽ, cảnh đẹp thần tiên và niềm tin tuyệt đối rằng chuyến bay trong tâm hồn ấy là có thực đã làm cho tôi, khi tôi đã khá hơn, khó có thể tin được rằng bệnh tật là cái cần phải từ bỏ. Mặc dù tôi là một bác sỹ điều trị, một nhà khoa học và cho dù tôi đã đọc nhiều công trình nghiên cứu và biết rõ những hậu quả nguy hiểm không thể tránh khỏi nếu không uống Lithi, nhưng tôi vẫn ngần ngại uống thuốc theo đúng đơn của bác sỹ, cho tới mãi nhiều năm sau lần khám bệnh đầu tiên. Tại sao tôi lại không sẵn sàng từ giã bệnh tật? Tại sao tôi lại phải trải qua nhiều cơn điên nữa và tiếp sau đó là những cơn trầm cảm kéo dài tới mức tôi chỉ muốn tự tử, tôi mới bắt đầu tự giác uống Lithi?

Sự ngần ngại của tôi chắc chắn một phần xuất phát từ việc về cơ bản tôi không coi những gì tôi đang mắc là một căn bệnh thực sự. Đây là phản ứng thường thấy sau những đợt hưng trầm cảm nhẹ ban đầu. Tâm lý là một phần quan trọng của cuộc sống. Trong ý niệm của mỗi người, những biểu hiện loạn thần kinh, cả trong tâm trạng hay hành vi, cũng đều có thể được coi là phản ứng tạm thời trước những vấn đề của cuộc sống. Trong trường hợp của tôi, tôi có cảm giác khủng khiếp rằng tôi có thể bị mất những người mà tôi đã từng chung sống và những nơi tôi đã từng đến. Thật khó có thể từ bỏ sự hưng phấn của trí tuệ và tâm thần, cho dù sau đó chắc chắn là đến giai đoạn suy sụp mà đã từng suýt cướp đi sinh mạng của tôi.

Gia đình cũng như bè bạn của tôi đều nghĩ rằng tôi sẽ vui mừng chào đón cuộc sống “bình thường”, sẽ đánh giá cao hiệu quả của Lithi và dễ dàng quen với sinh lực và những giấc ngủ bình thường. Tuy nhiên, nếu bạn đã từng lướt trên những ngôi sao và vòng tròn của hành tinh, đã từng quen với việc ngủ bốn, năm tiếng đồng hồ mỗi đêm trong khi nay ngủ tới tám tiếng, và đã từng đứng bên lan can suốt đêm, hết đêm này tới đêm khác, hết tuần này sang tuần khác, nhưng nay không thể, thì bạn sẽ thấy rằng đây thực sự là một sự điều chỉnh ghê gớm. Nó giống như phải làm quen với bộ comple, mặc dù thuận tiện với nhiều người, nhưng lại là một cái gì đó mới mẻ, chật hẹp, ít hữu ích và vô cùng khó chịu với tôi. Khi tôi phàn nàn rằng nay tôi kém sắc sảo hơn, ít hoạt bát hơn và ít mạnh mẽ hơn, thì mọi người lại nói rằng “ồ, nay cô đang giống tất cả chúng tôi”. Đó là điều an ủi. Tuy nhiên tôi muốn so sánh tôi với chính mình trước đây, chứ không phải với người khác. Không chỉ có thế, tôi còn có xu hướng so sánh tôi hiện nay với thời điểm tốt nhất trước đây, khi tôi ở trạng thái điện nhẹ. Khi ở trong cái vỏ “bình thường” hiện nay, tôi khác rất xa với khi tôi đáng yêu nhất, hữu ích nhất, mạnh mẽ nhất, thoải mái nhất và sôi nổi nhất. Tóm lại tôi đang phải chật vật để theo kịp chính mình.

Và tôi rất nhớ Sao Thổ.

Cuộc chiến của tôi với Lithi diễn ra không lâu sau khi tôi bắt đầu uống thuốc. Lần đầu tiên bác sỹ kê đơn Lithi cho tôi là vào mùa thu 1974, nhưng đến đầu mùa xuân 1975, bất chấp những lời khuyên của y học, tôi ngừng uống thuốc. Khi cơn điên đầu tiên qua đi và tôi bắt đầu hồi phục sau đợt suy sụp khủng khiếp tiếp sau cơn điên, hàng nghìn lý do đã tập hợp lại trong đầu tôi, hình thành một phòng tuyến mạnh mẽ chống lại việc tôi uống thuốc. Một số lý do là tâm lý. Một số khác thì có liên quan đến những tác dụng phụ của thuốc, do lượng Lithi trong máu cao để có thể kiểm soát được bệnh, ít nhất cũng là trong giai đoạn đầu. (Hồi năm 1974, tiêu chuẩn điều trị khi đó là duy trì lượng Lithi trong máu của bệnh nhân cao hơn đáng kể so với hiện nay. Tôi đã dùng Lithi liều thấp từ nhiều năm nay và hầu như tất cả những vấn đề mà tôi gặp phải khi bắt đầu điều trị đã biến mất). Những tác dụng phụ mà tôi gặp phải trong 10 năm đầu tiên là rất khó xử lý. Ở một số ít bệnh nhân, trong đó có tôi, lượng Lithi cần thiết để điều trị có hiệu lực là rất gần với mức độc hại.

Không có ai nghi ngờ việc Lithi có tác dụng tốt đối với tôi - sách giáo khoa đã coi dạng hưng - trầm cảm của tôi là trường hợp điển hình có phản ứng tốt với Lithi. Tôi bị điên nặng và kéo dài, gia đình có tiền sử điện và triệu chứng điện xuất hiện trước trầm cảm, chứ không phải ngược lại nhưng thuốc đã ảnh hưởng rất mạnh đến tâm lý của tôi. Tôi tự thấy mình phải chịu ơn loại thuốc, mà đã từng làm cho tôi bị nôn thốc tháo vài lần mỗi tháng tôi thường phải ngủ trên sàn nhà tắm, với chiếc gối kê đầu và chiếc áo choàng len St. Andrew đắp trên người - mỗi khi sự thay đổi của lượng muối, của chế độ ăn kiêng, của luyện tập thể thao hay hócmôn làm cho lượng Lithi trong máu tôi trở nên quá cao. Tôi rơi vào tình trạng điên ở rất nhiều nơi và rất xấu hổ khi bị điên ngay giữa nơi công cộng, từ giảng đường, tới nhà hàng ăn và Bảo tàng nghệ thuật ở Luân Đôn. (Tất cả những hiện tượng này đã được cải thiện rất nhiều kể từ khi tôi chuyển sang sử dụng thuốc Lithi chỉ để làm dịu cơn điên từng lần một). Khi bị độc cao, người tôi bắt đầu run lên, mất khả năng điều hòa, lao thẳng vào tường và giọng nói líu lại. Kết quả là đã vài lần tôi bị đưa vào bệnh viện cấp cứu. Ở đó, người ta truyền tĩnh mạch cho tôi để giải độc. Tuy nhiên, điều làm tôi xấu hổ hơn là hiện tượng này giống như tôi đã sử dụng ma túy bất hợp pháp, hoặc đã uống quá nhiều rượu.

Một buổi tối, sau lớp học cưỡi ngựa ở Malibu, mà hôm đó tôi hai lần bị ngã ngựa, trên đường về tôi bị cảnh sát kéo ra vệ đường. Họ yêu cầu tôi cho kiểm tra thần kinh tại chỗ. Tôi không thể bước theo một đường thẳng. Tôi không thể đưa đầu ngón tay lên đúng mũi của mình. Tệ hại hơn nữa là tôi không thể chạm được đầu các ngón tay vào đúng đầu ngón tay cái của mình. Có Chúa mới biết cầu mắt của tôi ra sao khi cảnh sát soi đèn vào đó kiểm tra. Khi tôi đưa lọ thuốc ra cho cảnh sát biết tên và số điện thoại của bác sỹ tâm thần của tôi và đồng ý tiến hành bất cứ cuộc xét nghiệm máu nào mà họ muốn, cảnh sát vẫn không tin rằng tôi đã không sử dụng ma túy hay uống rượu quá nhiều.

Không lâu sau sự kiện đó và ít lâu sau khi tôi bắt đầu học trượt tuyết, tôi đã leo tới đỉnh một ngọn núi cao ở bang Utah, mà không nhận ra rằng độ cao và việc tập luyện quá nhiều có thể làm tăng lượng Lithi trong máu. Tôi hoàn toàn bị mất phương hướng và không biết làm cách nào để có thể xuống núi. Thật may là người bạn của tôi biết tôi đang dùng Lithi và chính anh ta cũng là một chuyên gia về cách sử dụng loại thuốc này, đã lo ngại khi thấy tôi không theo kịp anh tới địa điểm mà chúng tôi đã hẹn trước. Anh tin rằng tôi có thể đã bị độc Lithi và yêu cầu các nhân viên tuần tra lên áp tải tôi xuống. Tôi đã xuống núi an toàn, nhưng ở tư thế nằm ngang, chứ không phải ở tư thế trượt tuyết mà tôi muốn.

Hiện tượng nôn mửa và thỉnh thoảng bị độc, tuy làm cho tôi khó chịu và đôi khi xấu hổ, vẫn ít quan trọng hơn nhiều so với tác động của Lithi tới khả năng đọc, lĩnh hội và ghi nhớ những gì đã đọc của tôi. Trong một vài trường hợp, Lithi còn tác động tới khả năng thị lực của tôi, làm cho tôi thấy hình ảnh bị nhòe đi. Nó cũng làm giảm khả năng tập trung chú ý và ảnh hưởng đến trí nhớ của tôi. Đọc, vốn là cốt lõi của trí tuệ và tâm hồn tôi, bỗng vượt ra ngoài tầm với của tôi. Tôi đã từng đọc ba, bốn cuốn sách mỗi tuần, nay bỗng trở nên không thể. Trong hơn một chục năm, tôi không thể đọc một mạch từ đầu đến cuối một tác phẩm văn học hay một cuốn sách nào. Điều này đã làm cho tôi thất vọng và đau đớn, tới mức không thể lường được. Tôi đã từng ném sách vào tường giữa cơn giận dữ điên cuồng và vứt tạp chí y học tung toé khắp phòng làm việc. Tôi có thể đọc những bài viết trên tạp chí tốt hơn sách, vì chúng ngắn hơn. Dù vậy, tôi cũng gặp rất nhiều khó khăn. Có những dòng tôi phải đọc đi đọc lại nhiều lần và ghi chép, trước khi tôi lĩnh hội được ý nghĩa của nó. Ngay cả như thế, những gì tôi đọc được cũng thường biến khỏi trí nhớ của tôi, giống như tuyết trên con đường ấm vậy. Tôi chuyển sang ren đăng ten, như là một sự thay đổi, và tôi đã ren biết bao chiếc áo gối và màn chống nóng, nhưng vẫn không thành công trong việc lấp khoảng trống thời gian mà trước đây tôi vẫn dành để đọc sách.

Ơn Chúa, tôi vẫn còn hiểu được thơ. Lúc nào tôi cũng yêu thơ và nay tôi lao vào thơ với một niềm đam mê khó tả. Tôi cũng thấy những cuốn sách dành cho trẻ em, ngoài việc ngắn hơn sách dành cho người lớn, còn được in chữ to hơn và dễ cảm nhận hơn. Tôi đọc đi đọc lại những cuốn sách cổ điển của trẻ em - Peter Pen, Mary Poppins, Tấm mạng của Charlotte, Cây việt quất Phần Lan, bộ sách Oz và Bác sỹ Nhí - mà nhiều năm trước đã mở ra trước mắt tôi những thế giới không thể nào quên. Nay chúng lại mang đến cho tôi cơ hội thứ hai, sự thích thú và vẻ đẹp kỳ diệu. Trong số những cuốn sách của trẻ em, Gió trong rừng liễu là cuốn sách tôi đọc đi, đọc lại nhiều nhất. Thỉnh thoảng tôi thấy mình như bị chìm trong đó. Tôi nhớ một lần tôi hoàn toàn bị tan nát cõi lòng khi đọc đoạn miêu tả Chuột chũi và căn nhà của nó. Tôi khóc và cứ thế khóc không kìm lại được.

Gần đây tôi đã lấy cuốn Gió trong rừng liễu từ trên giá xuống. Cuốn sách này vẫn được gập nguyên ở đó kể từ khi tôi lấy lại được khả năng đọc sách. Tôi cố tìm lại xem cái gì đã làm cho tôi phải mủi lòng đến thế. Chỉ trong ít phút, tôi đã tìm lại được đoạn mà tôi cần tìm. Chuột chũi, sau một khoảng thời gian dài rời căn nhà của mình trong lòng đất để đi khám phá thế giới ánh sáng cùng với anh bạn Chuột, trong một buổi tối mùa đông đã đi ngang qua và đột nhiên “nhớ lại tất cả những mùi vị” trong căn nhà cũ của mình. Khao khát được thăm lại nơi ở cũ, Chuột chũi tìm mọi cách thuyết phục anh bạn cùng mình quay lại:

“Dừng lại chuột”, chú chuột chũi đáng thương cầu khẩn, trong trái tim tan nát. “Bạn không hiểu nổi đâu! Đó là nhà tôi, nhà cũ của tôi! Tôi vừa ngửi thấy mùi của nó. Nó rất gần đây thôi, rất gần. Tôi phải về thăm nhà. Tôi phải về, tôi phải về! Quay lại đi chuột! Nào, xin bạn hãy quay lại đi!”

Chuột, lúc đầu lo lắng và ngần ngại không muốn mất thời gian cho việc này, cuối cùng cũng đồng ý tới thăm nhà chuột chũi. Sau khi nghe bài hát Thánh ca nhân dịp Giáng sinh và nhấm nháp li rượu nóng trước lò sưởi, chuột chũi mới kể rằng anh ta đã nhớ biết bao sự ấm áp và an toàn mà anh ta đã từng có. Anh ta nhớ “tất cả những thứ thân quen đã vô tình trở thành một phần cuộc đời anh”. Đọc đến đây tôi bỗng nhớ một cách chính xác, bằng bản năng, điều mà tôi đã cảm thấy khi đọc nó, không lâu sau khi uống Lithi. Tôi nhớ nhà, tôi nhớ tâm hồn mình, tôi nhớ cuộc đời mình với những cuốn sách và “những thứ thân quen”, tôi nhớ thế giới của tôi, nơi mọi thứ đều có chỗ của chúng và không gì có thể phá vỡ chúng được. Nhưng nay tôi không còn sự lựa chọn nào khác, buộc phải sống trong thế giới đổ vỡ, mà tâm trí tôi áp đặt. Tôi ước mong trở lại những ngày mà tôi đã biết trước khi điện và thuốc len lỏi vào mọi góc cạnh của cuộc đời tôi.

Những nguyên tắc tiếp đón Lithi một cách lịch thiệp vào cuộc đời bạn

1, Dọn sạch tủ thuốc trước khi khách tới ăn tối hoặc khi người yêu mới ở lại qua đêm.

2, Ngày hôm sau nhớ để Lithi trở lại tủ thuốc.

3, Đừng quá xấu hổ khi bạn không thể phối hợp hoặc chơi tốt môn thể thao mà bạn đã từng dễ dàng vượt qua.

4, Học cách cười khi đánh đổ cà phê, khi ký chữ ký đờ đẫn như của người tám mươi tuổi và khi không thể cài cúc áo khoác trong vòng mười phút.

5, Mỉm cười khi mọi người nói đùa rằng họ nghĩ họ “cần phải uống Lithi”.

6, Gật đầu một cách thông minh và tin tưởng khi bác sĩ giải thích cho bạn những lợi thế của Lithi trong việc làm dịu những xáo trộn trong cuộc đời bạn.

7, Kiên nhẫn chờ đợi những xáo trộn ấy qua đi. Phải thật kiên nhẫn. Đọc lại chương trình làm việc. Tiếp tục kiên nhẫn. Suy ngẫm về sự tương đồng giữa “kiên nhẫn” và “là một bệnh nhân”. (Chơi chữ: Trong tiếng Anh, chữ “patient” vừa là “kiên nhẫn” vừa là “bệnh nhân”- ND).

8, Đừng phiền lòng trước việc bạn không thể đọc nếu không cố gắng. Hãy triết lý một chút. Ngay cả khi đọc được, bạn vẫn có thể không nhớ hầu hết những gì mình đọc kia mà.

9, Hãy quen với việc bạn kém nhiệt tình và hứng khởi hơn trước đây. Cố gắng đừng nghĩ tới tất cả những đêm phóng túng mà bạn đã từng có. Biết đâu, nếu không có những đêm như thế, có khi lại tốt.

10, Hãy tìm nén suy nghĩ rằng mình đã từng tốt hơn rất nhiều. Chắc chắn mọi người sẽ thường xuyên nhắc tới điều này là nó có thể làm cho bạn khó chịu, nhưng đó là sự thật.

11, Hãy đánh giá đúng vai trò của Lithi. Đừng bao giờ nghĩ tới chuyện ngừng uống Lithi.

12, Nếu bạn ngừng uống thuốc và bị điên, bị suy sụp, thì hãy sẵn sàng lắng nghe hai chủ đề quen thuộc từ gia đình, bạn bè và những người đang chữa bệnh cho bạn:

- Bạn đang khá hơn rất nhiều. Tôi chỉ không hiểu tại sao lại thế thôi.

- Tôi đã nói với bạn là chuyện này có thể xảy ra.

13, Hãy lại tích trữ thuốc vào tủ thuốc của bạn.

Cuối cùng các vấn đề tâm lý lại đóng vai trò quan trọng hơn nhiều so với những tác dụng phụ trong việc tôi không chịu uống Lithi trong một thời gian dài. Đơn giản là tôi không muốn tin rằng tôi cần phải uống thuốc. Tôi đâm nghiện tâm trạng hứng khởi cao độ của mình. Tôi bỗng thấy như bị phụ thuộc vào cảm xúc mãnh liệt, trạng thái phởn phơ và sự tự tin, cũng như khả năng truyền cảm hứng và tâm trạng phấn khởi đó sang người khác. Giống như những con bạc sẵn sàng hy sinh mọi thứ cho sự phù du và cảm giác đê mê khi chiến thắng, hay giống như những con nghiện đánh đổi cả gia đình, sự nghiệp và cuộc đời mình lấy sự hứng khởi và sinh lực cao trong một khoảng thời gian ngắn ngủi, tôi thấy tình trạng điện nhẹ làm cho tôi mê mẩn và rất hữu ích trong việc nâng cao năng suất làm việc. Tôi không thể từ bỏ nó được. Quan trọng hơn nữa là tôi vẫn tin tưởng tuyệt đối nhờ thừa hưởng ý chí mạnh mẽ của bố mẹ, nhờ sự bướng bỉnh của chính mình và nhờ nền giáo dục kiểu quân sự WASP : rằng tôi có khả năng chống chọi bất cứ khó khăn nào, mà không cần phải dựa vào những cái nạng, như uống thuốc.

Tôi không phải là người duy nhất có suy nghĩ kiểu này. Khi tôi bị bệnh, chị tôi đã kịch liệt phản đối việc tôi uống Lithi và chị đã tỏ ra ghê sợ khi tôi dùng thuốc. Trong sự trở lại kỳ quặc với nền giáo dục đạo đức khắt khe của Thanh giáo mà chị đã từng điên cuồng chống lại, chị nói thẳng với tôi rằng tôi cần phải biết cách vượt qua” cơn trầm cảm và chứng điên, và rằng tâm hồn tôi sẽ khô héo đi nếu tôi uống thuốc. Thái độ tệ hại hơn của chị đối với tôi, kết hợp với sự nguy hiểm trong quan điểm của chị về việc dùng thuốc, đã làm cho mối quan hệ giữa chị và tôi càng khó duy trì. Một buổi tối, cách đây đã nhiều năm về trước, chị đã khoét sâu thêm vào nỗi đau của tôi, vì tôi đã “đầu hàng bọn y tế có tổ chức” khi “Lithi hoá tâm hồn của tôi”. Chị nói, tâm hồn tôi đã bị khô cứng lại, lửa đang cháy lan ra và tôi chỉ còn là cái vỏ của chính mình trước đây. Điều này đã giáng thẳng vào thần kinh của tôi. Tôi nghĩ là chị đã biết điều này rồi, nhưng cố tình chọc tức người đàn ông chuẩn bị đi ra ngoài cùng với tôi. Anh ta đã thấy tôi ốm yếu, nhưng không thấy những triệu chứng của bệnh điên. Anh ta cố dùng tài hóm hỉnh để né tránh tình huống này - “Có thể chính chị gái của em mới là cái vỏ của chị ấy trước đây”, anh ta nói, “Tuy nhiên cái vỏ của chị ấy cứng quá, anh chẳng thể làm gì nổi”. Ngay sau đó chị tôi tiễn anh ta, để lại tôi ốm yếu một mình ở trong nhà, cùng với mối nghi ngờ về quyết định uống Lithi.

Tôi không dám gần gũi bất kỳ ai đại diện cho phái mà chị tôi nói là mưu toan can thiệp vào tâm hồn không bị nhiễm thuốc của tôi, vào nền giáo dục vốn dạy tôi rằng con người ta cần phải có khả năng tự giải quyết mọi thứ, và quyến rũ tôi khỏi tâm trạng hứng khởi và đê mê của mình. Khi đó tôi chỉ mới bắt đầu hiểu được rằng không chỉ tâm hồn tôi, mà cả sinh mệnh tôi đang đứng trước hiểm nguy. Tuy nhiên, tôi cũng được dạy dỗ rằng tôi không thể tuân phục mà không chiến đấu. Tôi thực sự tin vào những điều tôi đã được dạy dỗ rằng tôi cần phải tự tìm cách vượt qua khó khăn, tự tin, và không phụ thuộc vào người khác trong giải quyết các vấn đề của mình. Tuy nhiên, khi nhìn lại những tổn thất mà niềm tin ngu xuẩn và niềm tự hào mù quáng ấy đã mang lại, nay tôi lại băn khoăn tự hỏi: Tại sao mình lại có thể suy nghĩ kỳ cục đến thế nhỉ? Tôi cũng đã từng được dạy rằng tôi phải biết suy nghĩ cho chính mình. Vậy tại sao khi đó tôi lại không nghi ngờ những lời khuyên cứng nhắc và không thích hợp về ý chí tự lực này? Tại sao tôi lại không thấy rằng sự kháng cự của tôi là ngu xuẩn biết chừng nào?

Vài tháng trước đây, tôi đề nghị bác sĩ tâm thần cho tôi xin một bản sao hồ sơ điều trị của tôi. Tôi vô cùng bối rối khi đọc lại toàn bộ y bạ. Sau sáu tháng bắt đầu sử dụng Lithi, tháng 3/1975 tôi đã ngừng không uống thuốc nữa. Chỉ trong vòng vài tuần, tôi đã bị điện và rơi vào trầm cảm nghiêm trọng. Cuối năm đó, tôi bắt đầu dùng lại Lithi. Đọc lại những dòng ghi chép của bác sĩ khi đó, tôi kinh hoàng nhận ra sự tiếp diễn của bệnh.

Ngày 17/7/1975: Bệnh nhân quyết định uống Lithi trở lại, vì bị trầm cảm nghiêm trọng. Bắt đầu với Lithi 300g, hai lần mỗi ngày.

Ngày 25/7/1975: Bị nôn.

Ngày 5/8/1975: Chấp nhận uống Lithi. Bệnh nhân suy sụp khi nhận ra rằng cô ta mắc chứng hưng trầm cảm nặng hơn cô nghĩ.

Ngày 30/9/1975: Bệnh nhân lại ngừng uống Lithi. Cô ta nói, việc chứng minh rằng cô ta có thể vượt qua ức chế mà không cần đến Lithi là rất quan trọng.

Ngày 2/10/1975: Kiên quyết không uống Lithi. Chứng hưng trầm cảm lại tái phát. Bệnh nhận biết rõ điều này.

Ngày 7/10/1975: Bệnh nhân nối lại việc uống Lithi vì ngày càng trầm cảm, mất ngủ và không thể tập trung suy nghĩ được.

Sự bướng bỉnh của tôi một phần do bản chất của con người. Hiếm có ai bị bệnh, dù là mãn tính hay cấp tính, lại tự nguyện uống đầy đủ thuốc theo đơn của bác sĩ. Một khi có dấu hiệu bệnh đã tiến triển hoặc qua khỏi, việc uống thuốc càng trở nên khó khăn hơn. Trong trường hợp của tôi, mỗi khi thấy mình khoẻ lại, tôi không có nhu cầu cũng như động cơ để tiếp tục uống thuốc. Tôi không muốn uống thuốc, trước hết vì không muốn chịu những tác dụng phụ mà tôi rất khó làm quen. Tôi cũng nhớ tâm trạng hứng khởi cao độ của mình. Và một khi đã trở lại bình thường, tôi càng khó tin rằng mình đã mắc một căn bệnh mà nó có thể dễ dàng quay trở lại. Trong chừng mực nào đó tôi cũng tin rằng mình là trường hợp ngoại lệ, cho dù các công trình nghiên cứu đã chứng minh một cách rõ ràng rằng chứng hưng-trầm cảm không chỉ quay trở lại, mà còn quay lại ở mức nghiêm trọng hơn và thường xuyên hơn.

Lý do không phải vì tôi nghĩ rằng Lithi là loại thuốc không hiệu quả. Trái lại, những bằng chứng cho tính hiệu quả và an toàn của nó là rất thuyết phục. Không chỉ thế, tôi còn biết thuốc này có tác dụng tốt đối với tôi. Cũng không phải vì trong thâm tâm tôi phản đối việc điều trị tâm thần bằng thuốc. Trái lại, tôi đã và vẫn không tha thứ cho bất kỳ ai - đặc biệt là các bác sĩ tâm thần và các nhà tâm lý học - phản đối việc dùng thuốc trong điều trị bệnh tâm thần. Tôi cũng phản đối những người tìm cách tách biệt giữa “bệnh y” có thể chữa trị được, như bệnh Hodgkin hay ung thư vú, với các loại bệnh tâm thần, như trầm cảm, hưng - trầm cảm và tâm thần phân liệt. Tôi hoàn toàn tin rằng hưng-trầm cảm là một loại bệnh. Tôi cũng tin rằng, trừ một vài trường hợp hiếm hoi, việc chữa căn bệnh này mà không dùng đến thuốc là sai lầm. Tuy nhiên, khi gạt tất cả những niềm tin này sang một bên, tôi vẫn tin rằng tôi có khả năng vượt qua bệnh tật mà không cần thuốc và tôi có thể tiếp tục cuộc sống theo cách của mình.

Bác sĩ tâm thần của tôi, người đã lắng nghe rất nghiêm túc mọi lời phàn nàn của tôi - về tình trạng buồn nôn kéo dài, những tác dụng phụ và các vấn đề về giá trị nhân phẩm mà tôi đã được dạy dỗ - vẫn khẳng định rằng tôi cần phải uống Lithi. Ơn Chúa, ông đã không bị rơi vào mạng lưới chằng chịt những lý do xúc động của tôi về việc tại sao tôi lại không thử sống không cần thuốc một lần nữa. Ông giữ vững sự lựa chọn cơ bản của mình: Vấn đề ở đây không phải Lithi là loại thuốc vẫn đang còn tranh cãi, không phải là tôi nhớ cảm giác hứng khởi của mình hay không; và cũng không phải việc uống thuốc có phù hợp với một số quan điểm của gia đình tôi về nhân phẩm hay không. Vấn đề cơ bản ở đây là tôi có chấp nhận uống Lithi không đều đặn và vì thế mà bệnh điện và trầm cảm sẽ quay trở lại hay không. Sự lựa chọn ở đây, như ông nhìn thấy - và nay tôi cũng đau đớn nhận thấy - là giữa điện với tỉnh táo và giữa cuộc sống với cái chết. Bệnh điên của tôi đã xảy ra thường xuyên hơn và với bản chất ngày càng “hỗn tạp” hơn (Nghĩa là hiện tượng hứng khởi, mà tôi nghĩ là bệnh “điên trắng” bao trùm trước đây đã bị lấn át bởi sự suy sụp kéo dài). Sự suy sụp của tôi cũng trở nên tồi tệ hơn và có nguy cơ tự tử cao hơn. Bác sĩ đã chỉ cho tôi thấy rằng rất ít thuốc điều trị không gây tác dụng phụ và trong tất cả các loại thuốc được xem xét, Lithị ít gây tác dụng phụ hơn cả. Tất nhiên, cách điều trị ngày nay đã tiến bộ hơn rất nhiều so với các phương pháp điều trị tàn nhẫn và không hiệu quả trước đây - như xích, để cho chảy máu, quấn mền ướt, nhốt riêng và chườm đá - và các loại thuốc chống co giật cũng đã có hiệu quả hơn rất nhiều và ít gây tác dụng phụ, nhưng đối với những người mắc chứng hưng-trầm cảm, Lithi vẫn là loại thuốc rất có hiệu quả. Khi đó tôi đã biết tất cả những điều này, và nay tôi càng tin vào điều đó.

Trên thực tế, ẩn sau tất cả những lý do trên, tôi còn một nỗi lo sợ ngấm ngầm nữa, đó là Lithi có thể không có tác dụng. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu tôi uống Lithi mà vẫn bị bệnh? Trong khi đó, nếu tôi không uống Lithi, tôi sẽ không phải chứng kiến nỗi lo sợ nhất của mình trở thành sự thật. Bác sĩ tâm thần đã sớm nhận ra nỗi lo này của tôi. Trong hồ sơ bệnh án của tôi, ông đã ghi một câu thâu tóm rất đầy đủ nỗi lo sợ này của tôi: Bệnh nhân coi uống thuốc như một triển vọng được chữa khỏi, nhưng nếu thuốc không có tác dụng, đây sẽ là lý do để tự tử. Cô ta lo ngại rằng với việc uống thuốc, cô ta sẽ mất đi chỗ lựa cuối cùng.

Nhiều năm sau, tôi được dự cuộc gặp mặt của hơn một nghìn bác sĩ tâm thần trong phòng lớn của một khách sạn. Nhiều người trong số họ chỉ mải mê ăn uống, thức ăn và đồ uống miễn phí đã trở thành một cách để kéo các bác sỹ ra khỏi công việc thường ngày của họ. Báo chí vẫn thường nói tới mùa di chuyển của các bác sĩ tâm thần vào tháng 8, nhưng có một cuộc tụ hội khác trong tháng 5 - tháng có số vụ tự tử cao nhất - khoảng 15.000 bác sĩ tâm thần tới dự hội nghị hàng năm của Hiệp hội Tâm thần Mỹ. Tôi cùng một vài đồng nghiệp phát biểu về những tiến bộ trong chẩn đoán, nghiên cứu bệnh lý và điều trị bệnh hưng-trầm cảm. Tất nhiên là tôi hài lòng khi thấy căn bệnh mà mình mắc phải đã thu hút sự quan tâm của nhiều người đến vậy. Đây là một trong những năm mà vấn đề này được quan tâm nhiều. Tôi biết rằng vào những năm khác, chắc chắn người ta sẽ quan tâm tới những căn bệnh khác, tới bước đột phá trong điều trị một căn bệnh nào đó, hay những tiến bộ trong kỹ thuật chụp cắt lớp, thậm chí cả những vụ kiện tụng tốn kém, hay vấn đề bồi thường của các công ty bảo hiểm.

Tôi được mời nói về tâm lý và những khía cạnh y học của việc điều trị bằng Lithi. Giống như nhiều bài nói khác, tôi bắt đầu bằng việc dẫn lời “một bệnh nhân hưng - trầm cảm”. Tôi đọc đoạn dẫn cứ như là do ai đó viết ra, mặc dù đó là những trải nghiệm của bản thân tôi.

Những câu hỏi dồn dập như không bao giờ kết thúc cuối cùng cũng chấm dứt. Bác sĩ tâm thần nhìn tôi và nói bằng một giọng đoan chắc: “Bệnh rối loạn lưỡng cực”. Tôi ngưỡng mộ sự thẳng thắn của ông, nhưng cũng ước gì điều ông nói không phải là sự thực. Im lặng, một cuộc chiến dữ dội diễn ra trong nội tâm. Tôi mỉm cười hài lòng. Ông cũng mỉm cười đáp lại. Và cuộc chiến chỉ mới bắt đầu.

Sự thật của tình huống này đã làm cả hội trường ồ lên, bởi lẽ hiếm có một bác sĩ tâm thần nào lại không phải đối mặt với hiện tượng bệnh nhân hưng-trầm cảm chống lại các biện pháp điều trị, một cách tinh tế hoặc thẳng thừng. Câu cuối “Và cuộc chiến mới chỉ bắt đầu” đã làm cả hội trường cười ồ. Tuy nhiên, trong sự dí dỏm ấy hàm chứa một cái gì đó đau đớn hơn. Việc không chịu uống Lithi, thật đáng tiếc, đã cướp đi sinh mạng của hàng chục nghìn bệnh nhân mỗi năm. Việc không chịu uống thuốc gần như bao giờ cũng dẫn tới tái phát bệnh và nhiều trường hợp dẫn tới thảm họa. Vài năm sau cuộc chiến chống lại Lithi của chính mình, tôi đã thấy hiện tượng này lặp lại ở một bệnh nhân của tôi. Anh ta đã làm cho tôi đau đớn nhớ lại cái giá phải trả cho việc không chịu uống thuốc.

Phòng cấp cứu của bệnh viện UCLA nhộn nhịp bác sĩ, thực tập sinh và sinh viên y khoa. Thật kỳ cục, đó cũng là nơi đầy rẫy bệnh tật và cái chết. Mọi người đi lại rất nhanh, với niềm tự tin rằng sự thông minh, được đào tạo tốt và trong những tình huống cấp bách sẽ tạo ra những kết quả tốt. Vì một lý do kỳ lạ nào đó, khi đọc tới tên ER - một trong những bệnh nhân của tôi được nhập viện với bệnh tâm thần nặng - tôi bỗng thấy người nôn nao và nhịp tim rối loạn. Ngay lúc đó một tiếng thét thất thanh phát ra từ một phòng khám - tiếng thét hoảng sợ và chắc chắn là bị điên. Tôi chạy vội dọc hành lang, vượt qua các y tá, vượt qua một bác sỹ đang thông báo phác đồ điều trị cho một bệnh nhân, rồi vượt qua một bác sĩ phẫu thuật đang chăm chú xem PDR với một cốc cà phê trên tay, trong khi chiếc kẹp cầm máu vẫn còn kẹp chặt và đung đưa trên tay áo cộc của chiếc áo choàng mổ và chiếc ống nghe vẫn còn đeo lủng lẳng trên cổ.

Tôi mở cửa căn phòng nơi có tiếng thét phát ra và tim tôi thót lại. Người đầu tiên tôi nhìn thấy là bác sĩ thần kinh trực, mà tôi biết, và anh ta nhìn tôi cười thông cảm. Tiếp đó, tôi nhìn thấy bệnh nhân của tôi, bị trói ghì xuống cáng bằng dây da. Anh ta nằm ngửa, chân tay giang rộng, mỗi cổ tay và cổ chân bị trói vào cáng bằng dây da. Một dây da khác chẳng qua ngực. Tôi thấy buồn nôn. Mặc dù rất kiềm chế, tôi vẫn thấy sợ. Một năm trước đây chính bệnh nhân này đã kề dao vào cổ tôi trong một lần điều trị ở phòng khám của tôi. Khi đó, tôi đã phải gọi cảnh sát và anh ta bị đưa vào khoa bệnh nhân cần phải nhốt riêng của Viện Chức năng thần kinh UCLA, Bảy mươi hai giờ đồng hồ sau, anh ta được đưa trở lại cộng đồng. Và được đưa trở lại cho tôi điều trị. Tôi nhận thấy một điều nghịch lý rằng hai trong ba cảnh sát đứng quanh chiếc cáng đã đặt tay vào súng, rõ ràng là họ nhận thấy rằng bệnh nhân này là “mối đe dọa cho chính bản thân anh ta và cho người khác”, nhưng viên thẩm phán đã không cho là như vậy.

Anh ta lại thét lên. Đó là tiếng thét thực sự nguyên sơ và sợ hãi, một phần vì chính anh ta đã sợ hãi, một phần vì anh ta rất cao, to, và hoàn toàn bị rối loạn tâm thần. Tôi đặt tay lên vai anh ta. Tôi thấy toàn thân anh ta run lên, vượt ra ngoài tầm kiểm soát. Tôi chưa bao giờ thấy sự sợ hãi đến thế trong mắt của bất kỳ ai, cũng chưa thấy ở ai nỗi đau trong thâm tâm và sự lo sợ theo bản năng đến thế. Điện mê sảng có rất nhiều loại và tất cả đều rất kỳ cục, tới mức khó có thể tả thành lời. Bác sỹ trực đã tiêm cho anh ta khá nhiều thuốc chống loạn thần kinh, nhưng thuốc vẫn chưa phát huy tác dụng. Anh ta bị ảo giác, hoang tưởng, nói lảm nhảm và bị ảo giác cả về hình ảnh lẫn âm thanh. Anh ta làm cho tôi nhớ tới bộ phim, trong đó có cảnh những con ngựa bị kẹt trong hỏa hoạn, đôi mắt hoang dại của chúng hiện lên sự sợ hãi, trong khi toàn thân chúng thì run lên trong khủng khiếp. Tôi bóp chặt vai anh ta và khẽ lắc: “Bác sĩ Jaminson đây. Anh vừa được tiêm Haldol. Chúng tôi sẽ đưa anh về khoa. Anh sẽ ổn thôi”. Tôi bắt gặp ánh mắt của anh ta. Sau đó anh ta lại thét lên. Tôi nói: “Anh sẽ khỏi. Tôi biết vào lúc này anh không tin, nhưng anh sẽ trở lại bình thường”. Tôi nhìn lướt qua ba tập hồ sơ bệnh án dày cộp của anh ta để trên chiếc bàn gần đó. Tôi nghĩ tới việc anh ta đã phải vào viện không biết bao nhiêu lần và băn khoăn không biết điều mình vừa nói có thật không.

Tôi không nghi ngờ gì việc anh ta sẽ khỏi. Tuy nhiên, thời gian khỏi bệnh của anh ta kéo dài được bao lâu thì lại là vấn đề khác. Lithi rất thích hợp cho anh ta, nhưng một khi ảo giác và nỗi sợ hãi của anh ta chấm dứt, anh ta có thể sẽ lại không uống thuốc nữa. Cả bác sỹ trực lẫn tôi đều không cần xem kết quả kiểm tra lượng Lithi trong máu của anh ta khi được đưa tới phòng cấp cứu. Chắc chắn là không có một lượng Lithi nào trong máu của anh ta cả. Kết quả là điện. Tiếp đó chắc chắn sẽ là sự suy sụp đến mức muốn tự tử. Cùng với nó là nỗi đau khôn tả và sự đổ vỡ trong cuộc đời anh ta, cũng như của các thành viên khác trong gia đình anh ta. Mức độ nghiêm trọng của sự suy sụp là hình ảnh phản chiếu mức độ nguy hiểm của bệnh điên ở anh ta. Tóm lại anh ta đã mắc một căn bệnh rất tồi tệ, nhưng không phải là hiếm. Lithi rất hữu ích cho anh ta, nhưng anh ta không uống. Khi tôi đứng đó cạnh anh ta trong phòng cấp cứu, tôi có cảm giác rằng tất cả thời gian, nỗ lực và nhiệt tâm mà tôi và những người khác đã cố gắng dành để chữa trị cho anh ta đã mang lại rất ít kết quả, hoặc chẳng có tác dụng gì.

Dần dần Haldol cũng bắt đầu phát huy tác dụng. Tiếng kêu thét đã ngừng lại và sự chống cự điên cuồng của anh ta cũng biến mất. Anh ta đã bớt sợ hãi hơn và ít hoảng sợ hơn. Một lát sau anh ta nói với tôi bằng một giọng líu ríu và chậm: “Đừng bỏ tôi, Bác sĩ Jaminson. Xin bà đừng bỏ tôi”. Tôi bảo đảm với anh ta rằng tôi sẽ lại bên anh ta cho tới khi anh ta được đưa về khoa. Tôi biết, tôi là người thường có mặt trong suốt thời gian anh ta điều trị tại bệnh viện, tại các buổi điều trần ở toà án, trong các cuộc gặp gia đình và khi anh ta suy sụp. Là bác sĩ tâm thần của anh ta trong nhiều năm, tôi được anh ta chia sẻ nhiều điều thầm kín về những giấc mơ và nỗi sợ hãi, về những mối quan hệ đầy hứa hẹn nhưng sau đó bị hủy hoại và những kế hoạch vĩ đại cho tương lai nhưng sau đó bị tan vỡ. Tôi nhìn thấy ở anh ta sự sôi nổi, lòng dũng cảm và sự hóm hỉnh. Tôi thích và rất tôn trọng anh ta. Tuy nhiên, tôi cũng ngày càng thất vọng trước việc anh ta hết lần này đến lần khác không chịu uống thuốc theo đơn. Bằng kinh nghiệm của mình, tôi hiểu những lo ngại của anh ta trong việc uống Lithi, nhưng chỉ đến đó thôi, còn vượt qua giới hạn ấy, anh ta sẽ khó có thể tránh được sự tái phát của những cơn điên đau đớn, đã được dự báo trước.

Không một liệu pháp tâm lý nào, nền giáo dục nào, sự thuyết phục nào và sự cưỡng ép nào thành công với anh ta. Không một phác đồ điều trị nào mà các bác sĩ và y tá vạch ra cho anh ta mang lại kết quả. Liệu pháp gia đình không có tác dụng. Việc phải thường xuyên vào viện, các mối quan hệ bị tan vỡ, tài chính khủng hoảng, mất việc làm và bị tống giam đã làm hoài phí một trí tuệ sáng tạo và được giáo dục tốt. Không có bất cứ thứ gì mà tôi, hay những người khác nghĩ ra có thể có tác dụng. Trong nhiều năm tôi đã đề nghị một vài đồng nghiệp tư vấn điều trị cho anh ta, nhưng giống như tôi, họ cũng không tìm được cách nào thuyết phục nổi anh ta và không tìm được khe hở nào trên chiếc vỏ bọc thép để đi vào tâm hồn anh ta. Tôi đã dành nhiều giờ đồng hồ nói chuyện với bác sĩ tâm thần của chính tôi về anh ta, một phần để xin lời khuyên của ông về cách điều trị, một phần để bảo đảm rằng việc tôi uống Lithi không đều đặn đã không tác động xấu tới anh ta. Những cơn điên và suy sụp của anh ta xuất hiện thường xuyên hơn và nghiêm trọng hơn. Không có bất cứ một sự đột phá nào và cũng không có kết cục có hậu. Không một biện pháp nào, cả y học lẫn tâm lý, có thể làm cho anh ta uống thuốc đủ lâu để duy trì sự tỉnh táo. Lithi có hiệu quả, nhưng anh ta không uống. Mối quan hệ của tôi với anh ta có tác dụng thuyết phục, nhưng chưa đủ. Anh ta mắc bệnh quá nặng và nó đã cướp đi sinh mệnh của anh ta - giống như hàng chục nghìn người khác mỗi năm. Những gì mà chúng tôi có thể làm cho anh ta là có giới hạn và điều đó đã làm cho tâm hồn tôi tan nát. 

Tất cả chúng ta đều khó chịu khi phải vận hành trong những giới hạn của chính mình.

Nhà xác

Tôi đã phải gặt hái những kết quả cay đắng của việc không chịu uống Lithi đều đặn. Sau thời kỳ điên với tâm trạng hưng phấn bao giờ cũng là thời kỳ trầm uất kéo dài, với cõi lòng tan nát, đen tối và tuyệt vọng tới mức muốn tự tử. Thời kỳ trầm uất này có thể kéo dài tới hơn một năm rưỡi. Từ khi thức dậy vào buổi sáng cho đến khi đi ngủ vào ban đêm, tôi thấy khổ sở tới mức không chịu đựng nổi và không thể tìm ra bất cứ điều gì vui thú để động viên khích lệ. Tất cả - từ suy nghĩ, lời nói, cử chỉ - đều phải cố gắng. Tất cả những thứ đã từng lung linh huyền ảo, nay đều trở nên vô vị. Tôi tự thấy mình ngu ngốc, buồn tẻ, kém cỏi, đần độn, tối tăm, vô cảm, lạnh lùng, nhẫn tâm và nhơ bẩn. Tôi hoàn toàn không tin rằng mình có thể làm được điều gì đó tốt đẹp. Trí tuệ của tôi dường như bị mòn mỏi và tàn lụi tới mức trở nên vô dụng. Một mớ những điều khốn khổ và thảm bại chồng chéo nhau ấy như càng dày vò tôi về những yếu kém và khiếm khuyết của chính mình, và nhạo báng tôi về sự liều lĩnh và tuyệt vọng đến cùng cực. Nếu cứ như thế thì sống để làm gì? Tôi vẫn tự hỏi mình như vậy. Những người khác có thể nói: “Đó chỉ là tạm thời, nó sẽ qua đi và tôi sẽ lại trở lại bình thường”. Tuy nhiên, chắc chắn là họ không biết tôi đang cảm thấy gì, cho dù họ vẫn tin rằng họ biết. Tôi đã tự nói đi nói lại với mình rằng nếu tôi không cảm thấy gì, không thể hành động gì, không thể suy nghĩ và không thể chăm sóc cho chính mình, thì cuộc sống của tôi phỏng có ích gì?

Cảm giác bệnh hoạn trong tôi thật khủng khiếp. Tôi luôn nhìn thấy cái chết đồng hành với những gì liên quan đến cái chết. Qua con mắt ở trong đầu mình, tôi nhìn thấy cái chết ở khắp mọi nơi, thấy những tấm vải bọc tử thi, những chiếc thẻ buộc vào chân người chết và những chiếc túi đựng tử thi. Tất cả đều gợi cho tôi nhớ rằng mọi chuyện đều kết thúc ở nhà xác. Trí nhớ của tôi chỉ nắm bắt được những điều tồi tệ của trí tuệ. Suy nghĩ của tôi đi từ nỗi dày vò này sang điều khổ tâm khác. Nỗi dày vò sau tệ hại hơn nỗi dày vò trước. Và mọi việc đều đòi hỏi tôi phải cố gắng hết sức mới làm nổi. Tôi phải mất hàng giờ đồng hồ để gội xong mái tóc của mình và nó làm cho tôi kiệt sức nhiều giờ sau đó. Việc rót nước vào khay làm đá là vượt ra ngoài khả năng của tôi. Thỉnh thoảng tôi lại ngủ trong chính bộ quần áo tôi mặc ban ngày, bởi vì tôi quá kiệt sức tới mức không thể cởi quần áo ra được nữa.

Trong thời kỳ này, tôi tới khám bác sĩ tâm thần hai, ba lần mỗi tuần và cuối cùng tôi lại phải uống Lithi đều đặn. Trong hồ sơ bệnh án của tôi, ông không chỉ ghi lại việc tôi uống thuốc

ví dụ, tôi đã uống thuốc chống suy nhược trong một thời gian ngắn và việc này đã làm cho tôi dễ bị kích động nguy hiểm hơn - mà còn tóm tắt cả tình trạng chán nản, tuyệt vọng và xấu hổ mà chứng trầm cảm đã gây ra: “Thỉnh thoảng bệnh nhân muốn tự tử. Cô ta muốn nhảy từ nóc cầu thang của toà nhà trong bệnh viện”, “Bệnh nhân vẫn có nguy cơ tự tử khá cao. Nhập viện là điều không thể chấp nhận được đối với cô ta và tôi cho rằng cô ta không thể bị nhốt theo LPS (Luật tống giam của California)”; “Tuyệt vọng về tương lai, lo sợ bệnh tái phát và sợ phải đối mặt với những cái cô ta đã cảm thấy”; “Bệnh nhân cảm thấy rất khó xử trước việc cô đã có thái độ không thể tha thứ được, cho dù cô ta đang bị trầm cảm”; “Bệnh nhân không muốn quan hệ với mọi người khi bị trầm cảm vì nghĩ rằng sự suy sụp của mình là gánh nặng không thể chịu đựng nổi đối với người khác”; “Bệnh nhân sợ phải rời phòng khám của tôi. Đã không ngủ trong nhiều ngày. Tuyệt vọng”. Vào lúc này, cơn trầm cảm của tôi tạm lắng trong một thời gian ngắn, để sau đó đợt suy sụp nghiêm trọng hơn xảy ra. “Bệnh nhân cảm thấy như cô ta bị vỡ ra. Thất vọng vì cảm giác suy sụp trở lại”.

Bác sỹ tâm thần của tôi đã nhiều lần cố thuyết phục tôi nhập viện, nhưng tôi từ chối. Tôi hoảng sợ khi nghĩ tới việc mình bị nhốt, phải xa rời những gì quen thuộc hàng ngày, phải tham dự các buổi trị liệu theo nhóm và phải chịu đựng tất cả những điều nhục nhã và sự xâm phạm đến đời tư cá nhân một khi trở thành bệnh nhân của khoa tâm thần. Khi đó, tôi đang làm việc ở khoa bệnh nhân phải nhốt và tôi không thích thú gì với ý tưởng mình không có chìa khoá trong tay. Quan trọng nhất là tôi sợ rằng, nếu tất cả mọi người biết tôi phải vào viện, công việc và đặc ân của tôi ở bệnh viện sẽ bị mất. Tệ hại hơn nữa, giấy phép hành nghề của tôi có thể sẽ bị tước vĩnh viễn. Vì thế, tôi chống lại việc tình nguyện vào viện. Do luật giam giữ của California được soạn thảo vì lợi ích của các luật sư, hơn là của bệnh nhân, nên nó càng dễ làm cho tôi từ chối việc bị giam giữ tự nguyện. Cho dù tôi có tình nguyện bị giam giữ, thì cũng không có gì để bảo đảm rằng tôi sẽ không có ý định hay thực hiện việc tự tử trong thời gian điều trị ở khoa tâm thần. Bệnh viện tâm thần không phải là nơi hiếm xảy ra hiện tượng tự tử (Sau giai đoạn này tôi đã có một thỏa thuận rõ ràng với bác sĩ tâm thần và gia đình tôi rằng nếu tôi lại rơi vào trầm cảm nặng, họ được quyền chấp thuận, bất chấp sự phản đối của tôi nếu cần, để cho tôi được áp dụng liệu pháp sốc điện, hay ECT, một phương pháp điều trị có hiệu quả đối với một số loại trầm cảm nặng, hoặc tống tôi vào viện).

Vào thời điểm ấy, mọi thứ dường như đều không còn tác dụng nữa và bất chấp sự chăm sóc tuyệt vời về y tế, tôi chỉ muốn chết. Và tôi quyết tâm tự tử. Tôi lạnh lùng quyết tâm không để lộ bất cứ dấu hiệu nào về kế hoạch hay ý định của mình. Tôi đã thành công. Một ngày trước khi tôi mưu toan tự tử, bác sĩ tâm thần của tôi chỉ viết: “Rất tuyệt vọng. Hoàn toàn im lặng”.

Trong cơn giận dữ, tôi giật chiếc đèn trong phòng tắm ra khỏi tường. Tôi cảm thấy bạo lực lan tỏa khắp người, nhưng chưa tràn ra ngoài. “Vì Chúa”, ông bác sĩ tâm thần của tôi nói, ông chạy lao vào - và sau đó lẳng lặng chấm dứt mọi chuyện. Chúa Jesus. Chắc chắn là tôi điên rồi, và tôi có thể nhìn thấy điều đó trong mắt ông: sự pha trộn khủng khiếp của lo ngại, kinh hoàng, bực tức và nhẫn nhục. Nhưng tại sao lại là con, thưa Chúa? “Con có đau không?”, ông hỏi. Tôi quay đầu là với đôi mắt lướt nhanh, tôi nhìn thấy trong gương một dòng máu chảy dài xuống cánh tay tôi và thấm đẫm chiếc đai áo khoác trong nhà đẹp đẽ và gợi tình, mà mới chỉ một giờ trước đó nó được sử dụng trong một niềm khoái lạc tuyệt diệu hoàn toàn khác. “Con không thể chịu đựng được nữa. Con không thể chịu đựng được nữa”, tôi gào lên trong thâm tâm, nhưng không thể nói ra được thành lời. Suy nghĩ cứ thế lao đi, rất xa và rất nhanh. Tôi đập đầu vào cửa, rồi lại đập đầu vào cửa. Chúa đã ngăn tôi lại. Tôi không chịu đựng được nữa. Tôi biết tôi lại bị điên. Tôi nghĩ Chúa thực sự quan tâm đến tôi, nhưng chỉ mười phút sau ông cũng thét lên và đôi mắt ông cũng nhuốm vẻ hoang dại, như lây nhiễm bệnh điện qua một tia vô hình giữa hai chúng tôi. “Ta không thể bỏ con trong tình cảnh này”. Tuy nhiên, tôi đã nói vài lời thực sự khủng khiếp và truyền nó qua cuống họng của ông, theo đúng nghĩa của từ này. Ông bỏ đi vì bị khiêu khích tới mức không thể chịu đựng nổi và do không nhìn thấy sự tàn phá và tuyệt vọng trong tôi. Tôi không thể truyền đạt nó cho ông và ông cũng không nhìn thấy, ông không còn gì để làm nữa. Tôi không thể suy nghĩ được gì nữa. Tôi không thể làm dịu cơn sát khí này. Ý tưởng vĩ đại của tôi một giờ trước đó bỗng trở nên ngớ ngẩn và đáng khinh. Cuộc đời tôi đang tàn lụi và tệ hại hơn nữa, nó đã bị đổ nát và không thể trú ngụ trong cơ thể tôi được nữa. Nguồn sinh lực điên khùng, đầy sức tàn phá và hoang dại đã thoát ra ngoài. Tôi nhìn thấy trong gương một sinh vật mà tôi không biết, nhưng chắc chắn là đã sống và chia sẻ trí tuệ cùng tôi.

Tôi đã hiểu vì sao Jekyll đã tự hủy hoại cuộc đời mình trước khi Hyde tiếp quản nó. Tôi không ân hận vì đã uống Lithi quá liều.

Trong giới bác sĩ tâm thần, nếu bạn tự sát, thì đó sẽ được coi là một vụ tự tử “thành công”. Đó là một loại thành công mà người ta có thể không cần tới nó. Tôi quyết định tự sát trong một cuộc vật lộn khủng khiếp tới mức không thể tả được kéo dài mười tám tháng. Trầm cảm đến mức tự sát có lẽ là cách để Chúa giữ cho bệnh điên ở đúng chỗ của nó. Và nó có hiệu quả. Bệnh u sầu trầm trọng, có hôm xuất hiện có hôm không, có đêm xuất hiện có đêm không, quả là khủng khiếp. Đó là một nỗi đau ghê gớm, không ngớt, không một tia hy vọng và chỉ có sự tàn nhẫn. Tôi như không thể thoát ra khỏi dòng chảy ngầm của những suy nghĩ và cảm giác lạnh lẽo vẫn bao trùm những đêm tuyệt vọng và mất ngủ. Nếu gắn hành động tự sát với quan niệm “thành công” hay “không thành công” của Thanh giáo, thì những ai “thất bại” trong việc tự giết mình sẽ không chỉ là yếu kém, mà còn bất tài và không đủ khả năng chết đúng cách nữa. Tuy nhiên, tự tử hầu như bao giờ cũng bị coi là hành động phi lý và hiếm khi xảy ra khi người ta tỉnh táo. Đó cũng thường là hành động cấp thời, không xảy ra theo đúng kế hoạch ban đầu.

Ví dụ, tôi nghĩ rằng tôi đã vượt qua được mọi tình huống khẩn cấp. Tuy nhiên, tôi không thể chịu đựng được nỗi đau lâu hơn nữa, không thể tiếp tục cuộc sống mệt mỏi và rã rời được nữa và không thể tiếp tục gây rắc rối cho gia đình và bạn bè được nữa. Trong thâm tâm, tôi nghĩ rằng tôi hành động như vậy chẳng qua cũng chỉ là một việc đáng làm, vì những người mà tôi quan tâm, giống như viên phi công mà tôi đã nhìn thấy, tự hy sinh cuộc đời mình để cứu những người khác vậy. Đó cũng là hành động biết điều duy nhất mà tôi có thể làm được. Nó giống như khi giết một con vật người ta cảm thấy ít mất mát hơn nhiều.

Đã có lúc tôi mua một khẩu súng, nhưng trong một thoáng suy nghĩ đắn đo, tôi đã nói cho bác sỹ tâm thần của tôi biết và tất nhiên là tôi phải miễn cưỡng giã từ khẩu súng ấy. Sau đó, trong nhiều tháng, tôi đã leo lên tầng tâm của cầu thang trong bệnh viện UCLA và đã rất nhiều lần chỉ chút xíu nữa là nhảy ra khỏi hàng rào chắn. Khi rơi vào trầm cảm tự sát, người ta không thể suy nghĩ thận trọng, tính tới ngoại cảnh hay có bất cứ một sự cân nhắc nào. Tuy nhiên, một ý nghĩ thoáng qua rằng gia đình tôi sẽ phải nhận dạng tôi bị ngã dập nát hết mặt mày đã làm cho tôi tin rằng phương pháp tự sát này là không thể chấp nhận được. Vì thế, tôi đã quyết định chọn giải pháp mà tôi nghĩ là thơ mộng và trọn vẹn nhất. Mặc dù Lithi đã cứu sống đời tôi, nhưng vào thời điểm cụ thể ấy, nó đã làm tôi đau khổ và buồn tủi đến cùng cực. Và tôi đã quyết định uống Lithi quá liều rất cao.

Để tránh Lithi bị nôn ra, tôi đã tới phòng cấp cứu lấy một đơn thuốc chống nôn. Sau đó, tôi đợi đến khoảng giao thời giữa những giờ “theo dõi tự sát” mà bạn bè, gia đình và bác sĩ tâm thần của tôi đã vạch ra. Sau đó, tôi chuyển điện thoại ra khỏi phòng ngủ, đề phòng khả năng tối vô tình nhấc điện thoại lên - tôi không thể nhấc hẳn tai nghe ra khỏi máy điện thoại, vì tôi biết điều này sẽ báo động cho những người canh giữ tôi - và trong tâm trạng bị kích động mạnh mẽ và hung dữ, tôi uống hết nắm thuốc này đến nắm thuốc khác. Sau đó tôi cuộn tròn trên giường chờ chết. Tuy nhiên, tôi đã không lường được rằng bộ óc khi uống thuốc sẽ phản ứng khác với lúc nó được cảnh giác. Khi chuông điện thoại kêu, tôi chỉ có một suy nghĩ là phải trả lời, vì thế tôi đã bò ra khỏi giường, tới chiếc điện thoại ở ngoài phòng khách trong trạng thái nửa hôn mê. Giọng nói yếu ớt của tôi đã làm cho anh tôi cảnh giác. Anh tôi gọi từ Pari về để hỏi xem tình hình của tôi ra sao. Ngay sau đó, anh tôi gọi điện cho bác sĩ tâm thần của tôi.

 

Không mưu toan tự tử cũng chưa hẳn đã là hay. Lithi đã từng được sử dụng để dạy sói đồng cỏ ở Bắc Mỹ không giết cừu. Chỉ cần cho sói đồng cỏ ăn thịt cừu đã được xử lý Lithi một lần là đã đủ để nó yếu tới mức không bắt cừu nữa. Tôi đã suy sụp tới mức yếu hơn cả sói đồng cỏ, yếu hơn một con chó và yếu tới mức không thể yếu hơn được nữa. Tôi rơi vào trạng thái lúc tỉnh, lúc mê trong vài ngày sau đó.

Rất lâu trước và sau khi tôi định tự tử, một trong những người bạn của tôi đã giám sát tôi rất chặt. Anh xác định rõ với tôi rằng chúng tôi chỉ là bạn. Anh là một bác sỹ tâm thần. Anh là một người nồng hậu, nhưng tính khí hơi bất thường. Anh hóm hỉnh, nhưng hơi gần. Anh thích tìm hiểu những điều hơi kỳ dị, trong đó có tôi, và đã viết rất nhiều bài báo hấp dẫn về các chủ đề như chứng rối loạn tâm thần phân liệt và những lối sống hơi kỳ lạ kiểu như Sherlock Holmes. Anh là người rất tận tâm và đã ở bên tôi hết tối này đến tối khác, chấp nhận chịu đựng tính khí cáu gắt của tôi. Anh hào phóng với tôi cả về thời gian và tiền bạc. Anh tin tưởng mãnh liệt rằng tôi sẽ vượt qua thời kỳ trầm cảm và cuối cùng sẽ mạnh khoẻ.

Đã vài lần, sau khi tôi nói với anh rằng tôi cần yên tĩnh một mình và anh có thể gọi lại cho tội sau, vào lúc một, hai giờ sáng gì đó để xem tôi ra sao, nhưng qua giọng nói của tôi, anh đoán được tâm trạng tôi khi đó và bất chấp việc tôi đề nghị được ở một mình, anh vẫn nằng nặc đòi tới thăm. Thường thì anh lấy cớ rằng “Tôi không ngủ được, chẳng lẽ cô lại từ chối có một người bạn ở cùng sao?”. Biết rõ là anh chỉ muốn tới để kiểm tra xem tôi ra sao thôi, nên tôi nói: “Đúng thế. Hãy tin tôi đi. Tôi có thể từ chối. Hãy để tôi một mình. Tôi không sao đâu”. Tuy nhiên, chỉ ít phút sau anh gọi lại và nói: “Tôi xin cô đấy. Tôi khẩn khoản xin cô đấy. Tôi thực sự cần có bạn. Chúng ta có thể đi đâu đó, cùng ăn kem”. Thế là chúng tôi gặp nhau vào cái giờ mà chẳng ai hẹn gặp cả. Tôi kín đáo bày tỏ lòng biết ơn anh vô hạn, còn anh thì khéo léo để tôi không có cảm giác rằng tôi là gánh nặng quá lớn cho anh. Anh là món quà tặng hiếm có của tình bạn.

Tình cờ anh lại là bác sĩ  trực ở phòng cấp cứu trong những dịp cuối tuần. Sau ý định tự tử của tôi, anh và bác sĩ  tâm thần của tôi đã vạch ra chương trình chăm sóc y tế và giám sát tôi. Anh thường xuyên giám sát và lấy máu của tôi để kiểm tra lượng Lithi và điện phân. Anh liên tục lôi tôi đi dạo, để kéo tôi ra khỏi tình trạng mơ màng của thuốc, giống như người ta kéo con cá mập bị ốm bơi vòng quanh bể để cho nước lưu thông qua mạng của nó vậy. Anh là người duy nhất có thể làm cho tôi cười trong thời kỳ tồi tệ này. Giống như chồng tôi, người mà tôi đã li dị về mặt pháp lý, nhưng vẫn giữ liên lạc với nhau, anh đã có những tác động dịu dàng và êm ái lên tôi mỗi khi tôi cáu kỉnh, rối loạn và muốn làm rối tung mọi chuyện lên. Anh chăm sóc tôi suốt những ngày tệ hại nhất của cuộc đời mình. Vì thế sau bác sĩ tâm thần của tôi và gia đình tôi, anh là người tôi mang ơn nhiều nhất trong cuộc đời mình.

Ân đức của bác sĩ tâm thần đối với tôi là không gì tả xiết. Tôi nhớ đã ngồi trong phòng khám của ông hàng trăm lần trong những tháng nghiệt ngã này. Mỗi lần như thế tôi lại nghĩ, “Không hiểu ông sẽ nói cái quái gì đây để có thể làm cho tôi cảm thấy tốt hơn hay để giữ cho tôi sống?”. Tuy nhiên, điều buồn cười là dường như ông chẳng nói gì cả. Có lẽ tất cả đều trở nên ngu xuẩn và lạc quan vớ vẩn, nếu so với những gì ông không nói mà vẫn giữ được tôi tiếp tục sống. Tình thương và sự nồng hậu mà tôi cảm nhận được từ ông là không thể nói lên thành lời. Nó chứa đựng trong đó tất cả sự thông minh, năng lực và thời gian mà ông dành cho tôi và niềm tin vững chắc của ông rằng cuộc đời tôi là đáng sống. Ông là người rất thẳng thắn - một tiêu chuẩn rất quan trọng và sẵn sàng thừa nhận những hạn chế của mình trong hiểu biết và điều trị mỗi khi ông bị sai. Rất khó nói lên thành lời, nhưng bằng nhiều cách khác nhau, ông đã cho tôi thấy bản chất thực của mọi chuyện. Ông đã dạy cho tôi rằng con đường từ tự tử đến cuộc sống là chán nản và tuyệt vọng, nhưng - với quyết tâm sắt đá và nhờ ơn Chúa, giống như thời tiết chắc chắn phải thay đổi vậy - tôi sẽ vượt qua tất cả.

Mẹ tôi cũng là một người tuyệt vời. Mẹ tôi nấu ăn cho tôi trong suốt những thời kỳ trầm cảm kéo dài. Bà giúp tôi giặt giũ quần áo và trả tiền thuốc cho tôi. Bà chịu đựng sự cáu kỉnh và tâm trạng chán nản của tôi, đưa tôi tới bác sỹ, tới hiệu thuốc và đưa tôi đi mua hàng. Giống như mèo mẹ nhẹ nhàng lôi những chú mèo con chạy lăng xăng về nhà bằng cách ngâm vào cổ chúng, mẹ tôi luôn để mắt đến tôi và mỗi khi tôi loạng choạng đi đâu đó quá xa, bà lại kéo tôi về trong phạm vi an toàn cả về địa lý lẫn tâm hồn, trong sự bảo vệ và chăm sóc của bà. Sức mạnh to lớn của bà đã ngấm dần vào trong xương tủy đã kiệt sức của tôi. Sức mạnh ấy, cùng với thuốc điều trị cho bộ óc của tôi và liệu pháp tâm lý tuyệt vời cho tâm hồn tôi, đã dần kéo tôi ra khỏi những ngày vô cùng khó khăn ấy. Nếu không có bà, chắc tôi không thể nào tồn tại được. Đã có lần tôi cố gắng ngồi soạn bài, nhưng không hiểu nó có ý nghĩa gì không và nếu tôi giảng bài thì chắc nó cũng hỗn loạn và lộn xộn khủng khiếp giống như đầu óc của tôi vậy. Vào những lúc như thế, điều thường giúp tôi vượt qua được chính là niềm tin mà mẹ đã truyền cho tôi từ nhiều năm trước, đó là ý chí, kiên trì và trách nhiệm là những phẩm cách giúp con người ta trở nên thành đạt. Mỗi khi có một trận bão khủng khiếp nào đó tràn tới với tôi, thì mẹ tôi - với tình yêu và niềm tin mạnh mẽ của bà về giá trị nhân phẩm tạo ra trong tôi những luồng gió ngược mạnh mẽ và bền bỉ chống lại cơn bão ấy.

Những gì chúng tôi được dạy dỗ trong cuộc đời là phức tạp, to lớn và không thể thâu tóm được. Nó giống như bố tôi, qua tính khí của ông, đã tạo ra trong tôi một con ngựa bất kham và hoang dã. Đó là một con ngựa không tên, lúc nào cũng chạy lồng lên như không kiềm chế được. Mẹ tôi thì lại dạy tôi cách thuần hoá nó. Bà trao cho tôi những nguyên tắc và tình yêu để phá vỡ sự ngang bướng của con ngựa và - giống như Alexander hiểu rõ Bucephalas vậy - bà hiểu và dạy tôi rằng cách tốt nhất để thuần hoá nó là quay đầu nó hướng về Mặt trời.

Vả chứng điện lẫn trầm cảm của tôi đều chứa trong nó khía cạnh bạo lực. Bạo lực là điều không dễ nói ra, nhất là đối với một phụ nữ. Điên dại tới mức vượt ra ngoài tầm kiểm soát - hành hung về thể xác, gào thét điên dại đến hết hơi, chạy tứ tung không có mục đích hay giới hạn nào, hay vùng vằng lao ra khỏi xe - là những điều làm cho người khác phải hoảng sợ và tự mình cũng thấy khủng khiếp tới mức không thể nói ra. Khi rơi vào những cơn điên mù quáng, tôi đã làm tất cả những điều đó, vào lúc này hay lúc khác, và những hành động đó đôi khi được lặp lại. Tôi vẫn nhận ra một cách đau đớn và chính xác rằng việc kiểm soát và hiểu được những hành vi ấy là vô cùng khó, chứ đừng nói gì đến việc giải thích cho người khác hiểu. Trong những cơn bạo lực - khi tôi rơi vào trạng thái điên hoàn toàn - tôi đã phá hủy những gì tôi yêu thích và xô ngã những người mà tôi yêu quý, để khi tỉnh lại, tôi nghĩ mình sẽ không bao giờ hết xấu hổ. Tôi cũng đã từng bị đè nén bằng sức mạnh vũ phu, bị đá và bị đẩy xuống nền nhà, bị đấm vào bụng trong khi tay bị kéo quặt ra phía sau và bị nhét thuốc vào mồm bất chấp sự phản đối của tôi.

Tôi không biết bằng cách nào mà tôi có thể hồi phục được sau những hành động gần như đương nhiên phải xảy ra với những người điên ấy. Tôi càng không hiểu bằng cách nào mà mối quan hệ của tôi với bạn bè và những người thân lại tồn tại được sau những trận đập phá hung tợn của tôi làm quần áo họ bị xé tả tơi trong nước mắt. Sau mỗi lần bạo lực như vậy, cũng như sau mưu toan tự tử không thành của tôi, tất cả những người quan tâm đến tôi đều đầy vết thâm tím trên người. Sống cùng với nhận thức rằng mình đã từng có hành vi bạo lực, đã từng mưu toan tự tử, là rất khó khăn. Nó giống như phải hoà hợp những ý niệm hoàn toàn đối lập nhau trong con người mình vậy. Sau ý định tự tử, tôi đã phải cố gắng tự điều hoà giữa hình ảnh của một cô gái trẻ, đầy nhiệt huyết, tràn trề hy vọng và năng động, có hoài bão, tràn ngập tình yêu với cuộc sống, với một phụ nữ bướng bỉnh, hay gắt gỏng và đau khổ, người chỉ muốn chết và đã từng uống một liều Lithi chết người để thực hiện ý đồ ấy. Sau mỗi lần rối loạn tâm thần bạo lực, tôi lại phải cố gắng tự điều hoà những ý niệm về chính mình, giữa một người có nguyên tắc và rất ít nói, nhạy cảm với suy nghĩ và tâm trạng của những người khác, với một người hoàn toàn điện khùng, hung bạo vì mất hết lý trí và không kiểm soát được hành vi của mình.

Sự đối lập giữa cái mà người ta được dạy là thái độ đúng mực với mọi người với những gì xảy ra trên thực tế trong thời kỳ điên khùng hoặc rối loạn tâm thần, là hoàn toàn tương phản nhau tới mức không thể tả nổi - nhất là với một phụ nữ sinh ra và lớn lên trong thế giới có truyền thống bảo thủ. Nó cách quá xa so với sự duyên dáng và dịu dàng của mẹ tôi. Nó càng cách xa hơn so với quãng thời gian của những điệu nhảy côticông, những bộ váy áo bóng láng và lụa là, cùng những đôi găng tay trang nhã dài quá khuỷu tay có đính ngọc trai ở cổ tay, cái thời mà tôi chẳng có nỗi lo nào khác, ngoài việc phải chú ý để đường may của tất chân được kéo thẳng trước khi tới dự bữa tiệc tối Chủ nhật ở câu lạc bộ sỹ quan.

Trong những năm quan trọng nhất định hình tính cách cá nhân, tôi đã lớn lên trong một thế giới khắt khe và được dạy rằng phải nghĩ tới người khác, phải thận trọng và biết kiềm chế hành động của mình. Chủ nhật nào tôi cũng tới nhà thờ cùng với cả gia đình và mọi câu trả lời của tôi với người lớn luôn được đi cùng với từ “Dạ, thưa ông”, “Dạ, thưa bà”. Bố mẹ tôi chỉ khuyến khích tôi độc lập về trí tuệ, chứ không khuyến khích tôi tách rời xã hội. Thế rồi, đột nhiên tôi có hành động không thích hợp và phá hoại, tới mức không thể kiểm soát và dự báo được. Đây không phải là cái mà lễ nghi hay phép xã giao có thể thắng thế. Vào những lúc như thế, người ta không thấy Chúa ở đâu cả. Những điệu nhảy côticông, những bộ lễ phục và Cẩm nang nghi lễ bên bàn ăn dành cho tuổi thanh niên của Tiffany không thể, và nó cũng không có ý định, chuẩn bị lối hành xử cho người ta khi bị điện. Hành động tức giận và bạo lực không thể kiểm soát được vừa chết người, vừa không thích hợp và xa lạ với thế giới văn minh và có thể dự báo được.

Từ lâu lắm rồi, tôi đã có xu hướng thích cảm giác mạnh và hồ hởi, thích sống và yêu với cái mà Delmore Schwartz gọi là “đỉnh cao của sự phởn phơ”. Tuy nhiên, dễ bị kích động bao giờ cũng là mặt trái của sự phởn phơ. Cảm giác mạnh mẽ không phải bao giờ cũng xấu, ít nhất cũng là trong giai đoạn đầu. Ngoài việc tạo ra sự hứng khởi lãng mạn nhất định cho cuộc sống cá nhân của tôi, nó còn đóng góp tích cực vào cuộc đời sự nghiệp của tôi trong nhiều năm sau. Chắc chắn là nó đã châm ngòi và thúc đẩy tôi viết nhiều bài báo, thực hiện nhiều công trình nghiên cứu và tham gia các hoạt động tư vấn. Nó luôn thúc đẩy tôi cố gắng làm thay đổi tình hình. Nó làm cho tôi không bằng lòng với cuộc sống hiện có và vì thế mà buộc tôi phải nghỉ ngơi ít hơn để có thể thành đạt hơn. Tuy nhiên, sự bực dọc kéo dài, kết hợp với sự thiếu kiên nhẫn, quá hăng hái và không được nghỉ ngơi đã làm cho tôi trở nên quá tức giận. Điều này là không phù hợp với một phụ nữ trang nhã, có giáo dục mà tôi được dạy rằng cần phải ngưỡng mộ và trên thực tế vẫn đang được tôi ngưỡng mộ.

Trầm cảm, trong chừng mực nào đó, có quan hệ gần gũi hơn với những giá trị xã hội của phụ nữ: tiêu cực, nhạy cảm, không hy vọng, bất lực, mệt mỏi, phụ thuộc, rối rắm, buồn chán và không có nhiều ham muốn. Trong khi đó trái lại, trạng thái điên gần hơn với tính cách của đàn ông: ít nghỉ ngơi, hung hăng, xông xáo, dễ thay đổi, đầy sinh lực, sẵn sàng chấp nhận rủi ro, có ý tưởng lớn và tầm nhìn xa và không hài lòng với hiện trạng. Sự tức giận và cáu kỉnh ở đàn ông, trong một số tình huống, là có thể tha thứ và có thể hiểu được. Các nhà lãnh đạo và những người chỉ huy các chuyến đi xa cần có dải tính khí rộng hơn. Các nhà báo và nhà văn có xu hướng gần với phụ nữ trầm cảm hơn là với phụ nữ điên. Không có gì đáng ngạc nhiên khi tỷ lệ trầm cảm

phụ nữ cao gấp đôi nam giới. Tỷ lệ mắc bệnh hưng-trầm cảm ở nam và nữ là ngang nhau, nhưng trong những điều kiện bình thường, điện thường ảnh hưởng tới phụ nữ nhiều hơn. Những người này lại thường được chẩn đoán sai và điều trị tâm thần kém, kết quả là làm tăng nguy cơ tự tử, nghiện rượu, nghiện ma tuý và bạo lực ở họ. Tuy nhiên, giống như những người đàn ông mắc chứng hưng-trầm cảm, những người phụ nữ này cũng đóng góp sinh lực, sự năng động, hăng hái và trí tưởng tượng của họ cho những người xung quanh và cho thế giới.

Hưng - trầm cảm là căn bệnh vừa tạo ra lửa vừa dập tắt lửa. Lửa, về bản chất, vừa có khả năng sáng tạo, vừa có khả năng hủy diệt. Dylan Thomas đã viết: “Sức mạnh chảy qua dòng nhựa xanh tạo ra hoa trái/ Nhưng sức mạnh tuổi xanh của tôi, phá hoại rễ cây/ Lại là tàn phá”. Điên là một động lực kỳ lạ, một kẻ phá hoại và một ngọn lửa trong máu. Thật may là lửa trong máu đã tạo ra những lợi thế nhất định cho tôi trong thế giới y học, nhất là trong sự nghiệp của một giáo viên đại học.

Giáo viên đại học

Giáo viên đại học là nghề rất gần với trò bắn giết thú vật mà các trường đại học hàng đầu có thể tạo ra: đó là sự cạnh tranh căng thẳng, tiêu hao sức lực, phấn khích, nhanh, khá tàn nhẫn và rất đàn ông. Theo đuổi sự nghiệp giáo viên ở một trường đại học y nơi trách nhiệm điều trị được xây dựng trên kết quả nghiên cứu và giảng dạy - đòi hỏi người ta phải có những nỗ lực to lớn. Xét trên tất cả mọi khía cạnh, một phụ nữ, không phải bác sĩ điều trị và bị hưng-trầm cảm không nên đi theo con đường khó khăn này.

Đối với tôi, việc trở thành giáo viên thường xuyên của trường đại học không chỉ nhằm bảo đảm an toàn cho tôi về mặt học vấn và tài chính. Chỉ trong vài tháng đầu tiên làm giáo viên trợ giảng, tôi đã có những dấu hiệu ban đầu của bệnh tâm thần. Những năm theo đuổi sự nghiệp này, từ 1974 đến 1981, không chỉ là thời kỳ cạnh tranh vất vả trong giới y học đầy năng động và xông xáo. Quan trọng hơn, đây là thời kỳ tôi phải vật lộn để duy trì sự tỉnh táo, để tồn tại và để sống chung với bệnh tật. Theo thời gian, tôi ngày càng quyết tâm tìm ra những điểm tốt trong nỗi đau của mình và lợi dụng bệnh tật vào những việc có ích. Sự nghiệp giáo viên đại học vừa là khoảng thời gian để tôi tồn tại, vừa là thời kỳ giúp tôi chuyển hoá. Nó là biểu tượng cho sự ổn định mà tôi cần có và sự thừa nhận của xã hội mà tôi tìm kiếm, để có thể cạnh tranh và tồn tại được trong thế giới bình thường.

Ngay sau khi được giao nhiệm vụ giảng dạy và làm bác sĩ điều trị ở khoa bệnh nhân người lớn, tôi đã nhanh chóng rơi vào trạng thái ít nghỉ ngơi. Tôi cảm thấy ngày càng khó giữ khuôn mặt bình thản khi công bố kết quả kiểm tra tâm lý của các bệnh nhân trong khoa. Khi tìm cách diễn giải ý nghĩa của kết quả kiểm tra Rorschach, mà thường là có tính suy đoán, tôi có cảm giác như mình đang cố gắng bói bài hay bàn về sự liên kết giữa các hành tinh vậy. Đây không phải là lý do để tôi lấy bằng tiến sỹ và tôi bắt đầu hiểu ý nghĩa câu nói của Bob Dylan: “Sau hai mươi năm đèn sách, người ta tống bạn vào làm việc theo ca kíp”. Sau hai mươi ba năm học hành, chính tôi cũng bị đẩy vào cảnh tương tự. Trong những năm đầu làm giáo viên ở trường đại học, tôi quan tâm tới rất nhiều lĩnh vực. Đầu tiên tôi nghiên cứu về loài hyrax, voi và bạo lực. Tôi viết lại những gì đã nghiên cứu, từ hồi còn là sinh viên đại học, về chất ma túy gây ảo giác (LSD), về cần sa và thuốc phiện. Tôi đã cùng với anh trai nghiên cứu loài hải li. Cùng các đồng nghiệp ở khoa gây mê, tôi đã nghiên cứu về hiện tượng đau và trạng thái ảo trong cảm giác. Tôi là đồng tác giả của một cuốn sách giáo khoa về tâm lý không bình thường, được đưa vào giảng dạy trong các trường đại học. Tôi tham gia nghiên cứu tác động của cần sa tới hiện tượng nôn ở những bệnh nhân ung thư khi được hoá trị liệu. Tôi cũng tìm cách lý giải những hành vi của động vật trong vườn thú Los Angeles. Quả là quá nhiều và quá tản mạn. Mối quan tâm của tôi cuối cùng đã buộc tôi phải tập trung vào việc mình đang làm. Tôi thu hẹp dần mối quan tâm của mình vào nghiên cứu và điều trị các căn bệnh rối loạn tâm thần.

Cụ thể hơn, và không có gì đáng ngạc nhiên, khi tôi đặc biệt quan tâm tới bệnh hưng-trầm cảm. Tôi quyết tâm tạo ra sự khác biệt trong cách nhìn nhận và điều trị căn bệnh này. Hai đồng nghiệp của tôi, mà cả hai đều có nhiều kinh nghiệm trong điều trị và nghiên cứu bệnh rối loạn tâm thần, đã cùng tôi quyết định thành lập một bệnh viện ngoại trú ở UCLA chuyên chẩn đoán và điều trị bệnh trầm cảm và hưng - trầm cảm. Chúng tôi đã nhận được nguồn tài trợ ban đầu của bệnh viện, đủ để thuê một y tá và mua một vài chiếc tủ đựng hồ sơ. Tôi cùng bác sỹ trưởng của bệnh viện đã dành nhiều tuần để soạn thảo các quy định về chẩn đoán, nghiên cứu và vạch ra chương trình giảng dạy, theo đó các bác sĩ tâm thần năm thứ ba của bệnh viện nội trú và thực tập sinh tiến sĩ tâm lý phải luân phiên nhau ra làm việc tại bệnh viện ngoại trú, coi đó như một chương trình trao đổi kinh nghiệm. Mặc dù có một số ý kiến phản đối việc tôi không phải là bác sĩ điều trị lại được cử làm giám đốc bệnh viện ngoại trú, nhưng hầu hết nhân viên trong bệnh viện nội trú, đặc biệt là bác sĩ trưởng, chủ nhiệm khoa tâm thần và chánh văn phòng của Viện Chức năng thần kinh, ủng hộ tôi vào chức vụ này.

Chỉ trong vòng vài năm, Bệnh viện ngoại trú về rối loạn cảm xúc UCLA đã trở thành một cơ sở giảng dạy và nghiên cứu lớn. Chúng tôi đã chẩn đoán và điều trị hàng nghìn bệnh nhân rối loạn tâm thần, thực hiện hàng loạt công trình nghiên cứu về y học và tâm lý, và giảng dạy cho các bác sĩ tâm thần nội trú và các thực tập sinh về phương pháp chẩn đoán và chăm sóc bệnh nhân rối loạn tâm thần. Bệnh viện ngoại trú trở thành một trung tâm đào tạo được nhiều người lựa chọn. Đó là nơi lúc nào cũng nhộn nhịp, bận rộn, cấp cứu - và khủng hoảng - do tính chất và mức độ nghiêm trọng của loại bệnh đang được điều trị, nhưng đó cũng là nơi thường ấm cúng và tràn đầy tiếng cười. Tôi và bác sĩ trưởng không chỉ khuyến khích mọi người làm việc chăm chỉ và làm thêm giờ, mà còn khuyến khích cả những cuộc tụ hội chơi bời sau giờ làm việc. Sức ép điều trị các bệnh nhân muốn tự tử, loạn thần kinh và có xu hướng bạo lực là rất lớn đối với tất cả chúng tôi, nên chúng tôi luôn cố gắng hỗ trợ các bác sĩ nội trú và thực tập sinh bằng cách giám sát và theo dõi đến mức cao nhất có thể. Khi xảy ra những sự cố hiếm khi xảy ra - ví dụ một luật sư trẻ, rất thông minh từ chối mọi nỗ lực đưa anh ta vào viện, rồi sau đó tự sát bằng cách tự bắn vào đầu thì các giáo viên, bác sĩ và thực tập sinh sẽ họp lại theo từng nhóm nhỏ hoặc lớn, để làm rõ những gì đã xảy ra và tìm cách giúp đỡ không chỉ gia đình nạn nhân, mà cả những người chịu trách nhiệm chính trong việc điều trị bệnh nhân đó. Bởi vì trong trường hợp này, bác sĩ điều trị đã làm tất cả những gì có thể cho bệnh nhân và không có gì đáng ngạc nhiên khi cô bác sĩ điều trị vô cùng hoảng sợ trước cái chết của bệnh nhân. Điều nghịch lý là chính các bác sĩ thành thạo và tận tâm như thế lại thường là những người có cảm giác thất bại và đau đớn nhất trong những trường hợp như vậy.

Chúng tôi coi trọng việc kết hợp giữa điều trị bằng thuốc với liệu pháp tâm lý, chứ không phải chỉ đơn thuần điều trị bằng thuốc và coi trọng việc hướng dẫn về bệnh và phương pháp điều trị cho bệnh nhân và gia đình họ. Những kinh nghiệm của bản thân với tư cách một bệnh nhân đã giúp tôi hiểu rất rõ tầm quan trọng sống còn của liệu pháp tâm lý trong việc giúp bệnh nhân, vượt qua nỗi đau, tiếp tục cuộc sống để có thể hồi phục và điều hoà giữa sự căm ghét thuốc với những hậu quả khủng khiếp của việc không chịu uống thuốc. Ngoài nhiệm vụ cơ bản là hướng dẫn các phương pháp chẩn đoán khác, tâm thần dược học và các khía cạnh khác trong điều trị bệnh rối loạn tâm thần, phần lớn công tác đào tạo, điều trị và nghiên cứu của Bệnh viện ngoại trú tập trung vào những nội dung chính sau: Vì sao bệnh nhân kháng cự hoặc không chịu uống Lithi hoặc các loại thuốc theo đơn khác; Bệnh nhân có xu hướng muốn tự tử, vậy bằng cách nào để có thể làm dịu tình trạng này; Vai trò của liệu pháp tâm lý trong việc tạo ra kết quả lâu dài trong điều trị bệnh trầm cảm và hưng--trầm cảm; Những khía cạnh tích cực của bệnh này trong thời kỳ điên nhẹ, như giàu sinh lực, nhận biết nhanh, linh hoạt, có những suy nghĩ độc đáo, tâm trạng hồ hởi, nhu cầu tình dục tăng, có tầm nhìn rộng và có những khát vọng mạnh mẽ. Tôi cố gắng khuyến khích các bác sĩ điều trị nhận ra rằng đây là một căn bệnh có những lợi thế và bất lợi của nó và đối với nhiều bệnh nhân, những điều say mê mà họ từng trải nghiệm là rất dễ gây nghiện và rất khó từ bỏ.

Để giúp bác sĩ điều trị và thực tập sinh hiểu được một phần ý nghĩ của bệnh nhân khi bị điện hoặc trầm cảm, chúng tôi khuyến khích họ đọc những điều do chính bệnh nhân viết ra, hay những bài báo do những người đã từng rối loạn tâm thần viết. Tôi cũng bắt đầu chương trình giảng dạy vào dịp Giáng sinh cho những người chăm sóc bệnh nhân tại nhà và nhân viên trong bệnh viện về những bản nhạc do các nhạc sĩ đã từng mắc bệnh trầm cảm hay hưng - trầm cảm sáng tác. Những bài giảng không chính thức này đã trở thành nền tảng cho buổi hòa nhạc mà một người bạn của tôi, giáo sư nhạc của UCLA, và tôi phối hợp tổ chức sau đó, tại Hội những người yêu nhạc Los Angeles năm 1985. Để giúp dư luận hiểu rõ hơn về bệnh thần kinh, đặc biệt là bệnh hưng - trầm cảm, chúng tôi đã đề xuất với giám đốc chấp hành của Hội những người yêu nhạc tổ chức một chương trình chuyên về cuộc đời và tác phẩm của các nhà soạn nhạc mắc bệnh này, trong đó có Robert Schumann, Hector Berlioz và Hugo Wolf. Các quan chức của Hội rất phấn khởi và đã thảo luận với chúng tôi một cách nhiệt tình và mang tính hợp tác. Tuy nhiên, điều không may là chỉ vài ngày sau, Trường Đại học California lại phát động một chiến dịch quản lý tài chính lớn, theo đó các giáo viên trong trường không được nhận tiền từ các nhà tài trợ tư nhân nữa. Kết quả là tôi phải tự trả 25.000 đôla, một khoản tiền mà bạn tôi nói là quá lớn cho những tấm vé hoà nhạc. Dù sao thì khán giả cũng kéo đến chật ních Hội trường Royce khổng lồ của UCLA và buổi hòa nhạc đã rất thành công. Đó lại là sự mở đầu cho một loạt chương trình hòa nhạc mà chúng tôi tổ chức tiếp theo trên khắp cả nước, kể cả buổi hòa nhạc chúng tôi thực hiện vài năm sau ở Trung tâm biểu diễn nghệ thuật John F. Kennedy ở thủ đô Washington. Đó cũng là nền tảng cho một loạt chương trình truyền hình đầu tiên về chủ đề bệnh hưng-trầm cảm và nghệ thuật mà chúng tôi sản xuất sau đó.

Trong quá trình thành lập và điều hành bệnh viện ngoại trú này, tôi đã may mắn nhận được sự giúp đỡ của ông chủ nhiệm bộ môn của tôi. Ông ủng hộ tôi làm giám đốc Bệnh viện ngoại trú, mặc dù tôi không phải là bác sĩ điều trị và hơn nữa ông biết tôi mắc bệnh hưng trầm cảm. Thay vì lấy lý do tôi mắc bệnh để cắt giảm trách nhiệm giảng dạy và điều trị của tôi và sau khi được bảo đảm rằng tôi đang được điều trị tâm lý liệu pháp rất tốt và bác sỹ trưởng của bệnh viện ngoại trú biết rõ bệnh tình của tôi ông đã khuyến khích tôi sử dụng bệnh viện để thử nghiệm và phát triển những biện pháp chữa trị tốt hơn và góp phần làm thay đổi nhận thức của dư luận về căn bệnh này. Mặc dù ông không bao giờ nói ra, nhưng tôi đoán rằng ông biết bệnh tình của tôi ngay từ lần đầu tiên tôi bị điên nặng. Trưởng khoa của tôi biết chuyện của tôi và tôi tin rằng thông tin đó chắc chắn đã được chuyển lên cấp trên. Trong bất cứ trường hợp nào, ông chủ nhiệm của tôi cũng giải quyết vấn đề theo đúng nguyên tắc y học. Lần đầu tiên ông đề cập đến chủ đề này bằng cách tiến đến bên tôi trong một cuộc họp, quàng tay qua người tôi và nói: “Tôi hiểu cô đang có một số vấn đề về tâm lý. Tôi rất lấy làm tiếc. Hãy cố gắng uống Lithi đều đặn”. Sau đó, ông thường xuyên hỏi tôi xem tình hình ra sao và nhắc nhở tôi uống thuốc đều đặn. Ông là người thẳng thắn, tích cực giúp đỡ người khác và chưa một lần nào gợi ý tôi ngừng hay cắt giảm công việc ở bệnh viện.

Tuy nhiên, tôi rất lo ngại việc công khai bệnh tình của mình với người khác. Cơn loạn thần kinh đầu tiên của tôi xảy ra rất lâu trước khi tôi nhận được giấy phép hành nghề của Hội đồng Kiểm tra y học California. Trong khoảng thời gian từ khi tôi bắt đầu uống Lithi đến khi tôi hoàn tất bài kiểm tra viết và kiểm tra vấn đáp ở Hội đồng, tôi phát hiện ra nhiều sinh viên y khoa, thực tập sinh và bác sỹ điều trị tâm thần đã bị tước quyền tiếp tục học tập, vì mắc bệnh thần kinh. Ngày nay, tình trạng này đã giảm đi, hầu hết các trường đại học và sau đại học đã khuyến khích những sinh viên bị bệnh đi điều trị, để sau đó có thể trở lại với công việc của mình ở bệnh viện. Còn thời kỳ đó, trong những năm đầu làm giáo viên đại học ở UCLA, tôi luôn bị ám ảnh bởi mối lo sợ rằng nếu bệnh tình của tôi bị phát hiện và được báo cáo tới một bệnh viện hay hội đồng kiểm tra nào đó, tôi có thể bị yêu cầu từ bỏ công việc giảng dạy và điều trị của mình.

Tuy áp lực rất cao, nhưng nói chung là tôi yêu thích công việc của mình. Y học đem lại nhiều lối sống phong phú và thú vị, được đi lại nhiều, hầu hết đồng nghiệp đều là những người sáng suốt, thông minh và cùng quyết tâm vượt qua khó khăn để kết hợp giữa công tác điều trị thực tế với viết sách báo và giảng dạy. Những áp lực công việc đã làm nặng nề thêm những biến động tâm thần của tôi, cho dù đã dịu bớt, ngay cả khi tôi đang uống Lithi. Phải mất vài năm sau, mọi chuyện mới trở nên ổn định. Khi tôi khoẻ mạnh, đó là cơ hội rộng mở để tôi viết, suy nghĩ, khám cho bệnh nhân và giảng dạy. Còn khi ốm thì quả là khủng khiếp: Mỗi lần như vậy có thể kéo dài nhiều ngày, thậm chí nhiều tuần. Khi đó tôi treo tấm biển “MIỄN QUẤY RẦY” ra ngoài cửa, rồi ngồi nhìn chăm chăm mà vô vọng ra ngoài cửa sổ, ngủ, mưu toan tự tử hoặc ngồi nhìn con chuột bạch - vật kỷ niệm trong một cơn điên mua sắm của tôi chạy lăng xăng quanh chiếc chuông nhỏ. Trong những dịp như thế, tôi không thể hình dung ra điều gì để viết và cũng không đủ khả năng lĩnh hội được một bài báo nào mà tôi cố gắng đọc. Còn việc giám sát thực tập sinh hay giảng dạy thì quả là quá sức.

Tuy nhiên, có một sự bù đắp giống như thủy triều. Khi bị trầm cảm, tôi chẳng lĩnh hội được gì, nhưng cũng không bị mất đi những kiến thức vốn có. Khi bị điện nhẹ, tôi có thể hoàn thành một bài viết chỉ trong một ngày, ý tưởng cứ thế tràn tới và tôi có thể hoạch định các chương trình nghiên cứu mới, nắm bắt nhanh kết quả điều trị bệnh nhân và giải quyết hàng đống công việc hành chính của một giám đốc bệnh viện. Giống như mọi thứ trong cuộc đời, những điều tồi tệ luôn được bù đắp bằng những điều tốt đẹp và những điều tốt đẹp đến lượt nó lại bị những điều tồi tệ chen lấn. Đó là một cuộc đời điên khùng, nhưng mãnh liệt, một sự pha trộn của những điều tuyệt vời, khủng khiếp, tệ hại, vô cùng khó khăn, vinh quang, dễ dàng, phức tạp, vui vẻ và những cơn ác mộng không bao giờ chấm dứt.

Thật may là tôi có những người bạn của tôi, có thể là họ cũng hơi điên khùng một chút, hoặc họ có lòng khoan dung độ lượng rất cao, họ sẵn sàng tha thứ cho những thay đổi vốn đã trở thành nền tảng tâm lý của tôi. Tôi đã dành rất nhiều thời gian cho họ trong những năm làm trợ giảng. Tôi cũng đi rất nhiều, cả vì công việc lẫn đi chơi, và chơi bóng với thực tập sinh, bạn bè và đồng nghiệp. Tuy nhiên, thể thao chỉ vui vẻ khi Lithi cho phép tôi điều phối được hành động của mình. Điều này không chỉ đúng với môn bóng, mà cả với môn cưỡi ngựa nữa. Cuối cùng tôi đã phải từ bỏ môn cưỡi ngựa trong vài năm, sau khi bị ngã quá nhiều lần trong một lần lên ngựa. Nay khi nhìn lại, tôi thấy điều đó cũng không có gì quá tệ hại. Tuy nhiên, quả thật là mỗi khi phải từ bỏ môn thể thao nào đó, tôi không phải chỉ từ bỏ những vui thú mà môn thể thao ấy mang lại, mà phải từ bỏ cả một phần cuộc sống của mình như là một vận động viên. Bệnh hưng - trầm cảm đã buộc tôi phải đối mặt với nhiều khía cạnh của tuổi già - cả về thể lực lẫn tâm thần – hàng chục năm trước tuổi của mình.

Cuộc đời lao đi thật nhanh, với những xung khắc xô đập nhau mạnh mẽ để tranh giành vị thế và ảnh hưởng của nó. Khi tôi điên, nhịp sống như chậm lại, khi tôi bình thường, sự điên cuồng trong người được kiềm chế; còn khi suy sụp thì mọi vận động trong tôi gần như ngừng lại. Ngoài bác sĩ tâm thần của tôi ra, không có ai để tôi có thể giãi bày những khó khăn mà tôi đang phải đối mặt. Cũng có thể có ai đó nhưng tôi chưa bao giờ dám thử. Ngoài tôi ra, hầu như không có một phụ nữ nào khác trong khoa tâm thần người lớn. Có phụ nữ trong bộ phận tâm thần, nhưng họ tập trung hết trong khoa trẻ em. Họ hay trốn tránh, vả lại họ cũng đã có quá nhiều chuyện trong khoa của mình rồi. Mặc dù hầu hết các đồng nghiệp nam của tôi là công bằng, và nhiều người rất sẵn lòng giúp đỡ, nhưng một số người vẫn cho rằng phụ nữ cần phải được kiểm nghiệm trước khi có thể tin cậy họ.

Ông Hàu (Oyster) là một người như vậy. Ông ta được đặt cho cái tên ấy vì sự lươn lẹo và bản chất trơn tuột của ông ta. Ông Hàu là một giáo sư cao cấp. Ông ta kẻ cả, đỏm dáng và có tất cả sự phức tạp về trí tuệ và tâm lý mà người ta có thể nghĩ tới ở loài thân mềm. Ông ta đánh giá phụ nữ qua bộ ngực, chứ không phải bằng trí tuệ của họ và điều làm cho ông ta phải phát cáu là hầu hết phụ nữ có cả hai thứ đó. Ông ta cũng cho rằng thật là sai lầm khi phụ nữ lạc vào giới nghiên cứu y học và tôi là người luôn làm cho ông ta khó chịu. Chúng tôi cùng là thành viên trong Ủy ban Tuyển dụng và Bổ nhiệm nhân viên trong khoa. Tôi là phụ nữ duy nhất trong Ủy ban có 18 thành viên này. Vào những dịp ông ta tới dự cuộc họp của Ủy ban- ông Hàu nổi tiếng là người kiếm được nhiều tiền nhất trong quỹ thời gian ông ta dành cho bệnh viện ít nhất- tôi luôn tìm cách ngồi đối diện với ông Hàu để được chứng kiến những thất bại của ông ta.

Tôi luôn có cảm giác rằng ông ta nghĩ tôi là một cái gì đó hơi đột biến, bởi vì tôi không bao giờ tìm cách né tránh, cho dù tôi không được bảo vệ bằng cuộc sống hôn nhân. Về phần mình, thỉnh thoảng tôi cũng chúc mừng ông ta, vì đã cố gắng để tuyển dụng thêm phụ nữ vào trong khoa. Ông ta không khôn ngoan, không có khả năng hài hước và cũng chưa bao giờ cố gắng hóm hỉnh. Thỉnh thoảng ông ta liếc nhìn về phía tôi một cách nghi ngờ và nhếch mép cười khó chịu. Ngoại trừ việc ông ta là người có thực quyền ở trong khoa ra, ông ta chỉ là một chàng ngốc đáng yêu. Ông ta bô bô nói rõ quan điểm của mình về phụ nữ ở mọi nơi. Những lời gợi ý tình dục của ông ta thật kinh tởm, còn thái độ kể cả của ông ta mỗi khi nói chuyện với tôi hay với các nữ thực tập sinh hoặc nữ bác sĩ trong khoa thì quả là khó chịu. Xét dưới nhiều góc độ, ông ta giống như một bức tranh biếm họa của chính mình. Là nữ nhân viên dưới quyền ông ta cũng giống như phải xuất phát chậm mười giây trong cuộc đua 100 mét vậy. Thật may là việc bổ nhiệm và cất nhắc giáo viên thường xuyên ở trường đại học đã có cơ chế kiểm soát và cân bằng lẫn nhau và hệ thống này khá công bằng, ít nhất cũng là ở hai trường đại học mà tôi biết rõ nhất Trường Đại học California và Johns Hopkins. Tất nhiên là những người như ông Hàu thì chẳng bao giờ làm cho hệ thống ấy vận hành một cách trơn tru được.

Sau khi vất vả lần mò trong mê cung của nghề nghiệp, cuối cùng tôi cũng nhận được thư của Hội đồng quản trị thông báo tôi được nâng bậc, trở thành thành viên vĩnh viễn của Hiệp hội các giáo sư. Tôi ăn mừng sự kiện này trong vài tuần. Một trong những người bạn tốt nhất của tôi đã tổ chức một bữa tiệc tối rất thân mật cho khoảng ba mươi người, trong một đêm đẹp trời của California. Tối hôm đó, lan can trong vườn nhà chị phủ đầy hoa và nến. Quả là không thể đẹp hơn thế. Gia đình tôi đóng góp sâm banh và tặng tôi luôn cả bộ ly Baccarat để uống sâm banh nữa. Đó là khoảnh khắc tuyệt vời đối với tôi. Hơn ai hết, gia đình và bạn bè tôi hiểu rằng đây là bữa tiệc mừng sau nhiều năm tôi vật lộn với bệnh thần kinh nghiêm trọng và vượt qua một nấc thang nữa trên con đường học vị.

Tuy nhiên, tôi chỉ thực sự thấm thía việc được nâng bậc khi một người bạn của tôi, một thành viên trong Câu lạc bộ Bohemian chỉ toàn nam giới, tới nhà tôi cùng với một vài chai rượu vang dành riêng cho câu lạc bộ của anh. “Xin chúc mừng giáo sư”, anh ta nói và đưa cho tôi chai rượu, “Hoan nghênh bà vào câu lạc bộ chỉ toàn có nam giới.”

PHẦN III

TÌNH YÊU, THUỐC CHỮA TRỊ

Một sỹ quan và một chàng trai lịch thiệp

 

Đã có lúc tôi thực sự tin rằng mỗi người chỉ phải trải qua một mức độ đau đớn nhất định trong cuộc đời. Vì bệnh hưng - trầm cảm đã đem đến cho tôi biết bao khổ sở và bất ổn mỗi khi nó giở chứng, nên tôi nghĩ rằng cuộc đời sẽ bù đắp cho tôi theo cách khác. Tuy nhiên, khi đó tôi lại cũng tin rằng tôi vẫn có thể bay trong bầu trời đầy sao và lượn theo chiếc vành đẹp đẽ của Sao Thổ. Suy nghĩ của tôi dường như vẫn chỉ là một cái gì đó có tính ước nguyện. Còn Robert Lowell, tuy hay điên nhưng ít khi xuẩn ngốc, thì lại biết cách tận hưởng những giây phút hạnh phúc ngắn cuối đường hầm, thì đó là ánh sáng của đoàn tàu điện ngầm đang tới.

Đã có lúc - nhờ Lithi, nhờ thời gian qua đi và nhờ tình yêu của một người đàn ông Anh cao và đẹp trai - tôi đã lờ mờ hình dung ra tia sáng ở cuối đường hầm và tôi cảm nhận được rằng một cuộc sống ấm cúng và được bảo đảm đang trở lại.

Tôi biết rằng tâm hồn có thể được chữa lành một cách tuyệt vời nếu như có cơ hội và sự kiên nhẫn, dịu dàng có thể chắp nối được những mảnh vỡ tan tành của thế giới lại với nhau. Chúa có thể kết hợp những nhân tố rời rạc, một bác sỹ tâm thần hạng nhất, cùng sự dịu dàng và tình yêu của một người đàn ông lại với nhau để làm cho mọi thứ trở lại bình thường.

Tôi gặp David ngay trong năm đầu tiên làm giáo viên ở UCLA. Đó là đầu năm 1975, sáu tháng sau khi tôi bị điện năng và đầu óc tôi khi đó chỉ toàn những hình ảnh mờ ảo và mỏng manh về những gì đã xảy ra trong quá khứ. Đầu óc tôi như trượt trên lớp băng mỏng, tính khí của tôi rất dễ nổi cáu, trong khi cuộc sống thật của tôi chủ yếu chỉ diễn ra trong một dải bóng tối dài và hẹp. Tuy nhiên, những hành động công khai của tôi lại nằm trong khuôn khổ bảo thủ bình thường, nhờ đó mà xét về bề ngoài, mọi chuyện nói chung là ổn, ít nhất cũng là đối với sự nghiệp của tôi.

Hôm ấy, tôi mở cửa phòng làm việc cho các bệnh nhân nội trú, khác với mỗi khi tôi thấy khó chịu - nhưng không phải vì bệnh nhân, mà vì hôm đó có cuộc họp của nhân viên bệnh viện. Trong cuộc họp ấy, các y tá có thể trút hết những bực dọc dồn nén lên các bác sỹ điều trị. Đến lượt mình, các bác sỹ lại bực bội bào chữa rằng họ có quyền quyết định cuối cùng và họ ở cấp cao hơn. Còn trưởng khoa thì bất lực, để cho sự oán giận, ghen tị và căm thù cá nhân bao trùm bầu không khí của cuộc họp. Trong khoa ấy, việc chăm sóc bệnh nhân thường bị đẩy lui lại phía sau, để nhường phần ưu tiên cho cuộc chiến không khoan nhượng và ích kỷ giữa các nhân viên. Bao giờ tôi cũng cố trì hoãn tới phút chót mới bước vào phòng họp, tìm một chiếc ghế ở xa khu chiến tuyến và ngồi xuống để chờ những điều khó chịu sắp xảy ra.

Tôi ngạc nhiên khi bác sỹ tâm thần của khoa bước vào phòng họp cùng với một người đàn ông cao và khá đẹp trai. Anh ta nhìn tôi, nở một nụ cười tuyệt vời. Anh là giáo sư thỉnh giảng và là bác sỹ tâm thần của Quân y Hoàng gia Anh đang nghỉ phép. Chúng tôi gần như thích nhau ngay lập tức. Chiều đó, chúng tôi cùng uống cà phê trong nhà ăn tự phục vụ của bệnh viện. Tôi bỗng thấy mình cởi mở với anh tới mức, đã lâu lắm rồi, tôi không nói chuyện với ai thoải mái đến vậy. Anh nói năng nhỏ nhẹ, khá trầm lặng, suy tư và không ép quá mức tới tâm trạng vẫn chưa bình phục hẳn của tôi. Cả hai chúng tôi cùng yêu thích âm nhạc và thơ. Chúng tôi cùng có những trải nghiệm trong cuộc sống nhà binh. Do tôi đã từng học ở Xcốtlen (Scotland) và Anh, nên chúng tôi cũng có nhiều kỷ niệm về những thành phố, bệnh viện và miền quê ở Anh. Anh muốn tìm hiểu về sự khác biệt trong phương pháp điều trị tâm lý ở Mỹ và Anh, nên tôi giúp anh tìm hiểu một trong những bệnh nhân phức tạp nhất của tôi. Đó là một cô gái bị tâm thần phân liệt, luôn tin rằng mình là một phù thủy. Anh nhanh chóng phát hiện ra những vấn đề trong điều trị và liệu pháp tâm lý làm cho cô ta chậm thoát ra khỏi tâm trạng hoảng loạn của mình. Anh rất tốt bụng với cô và mặc dù về cơ bản, cô ta vẫn coi anh là bác sỹ, nhưng giống như tôi sau này - cô ta đã nhanh chóng cảm thấy rằng cô có thể hoàn toàn tin cậy ở anh. Anh thẳng thắn, nhưng chân tình và tôi thích thú được chứng kiến việc anh phân chia, rồi lại phân chia các câu hỏi để chinh phục niềm tin của cô và giúp cô thoát ra khỏi tính đa nghi của mình.

Những tháng David ở UCLA, chúng tôi hay ăn trưa với nhau, thường là ở trong vườn nhiệt đới của trường đại học. Anh nhiều lần mời tôi đi ăn tối và lần nào tôi cũng phải nói với anh rằng tôi không thể, vì tôi vẫn là một phụ nữ có chồng, lại đang sống cùng với chồng sau một thời gian chia tay. Anh trở lại Luân Đôn và mặc dù thỉnh thoảng chúng tôi vẫn viết thư cho nhau, nhưng tôi luôn ngập đầu với công việc giảng dạy, điều hành bệnh viện, nâng cao chuyên môn và những vướng mắc trong cuộc sống hôn nhân. Một trận điện tồi tệ khác lại ập tới, và như một lẽ đương nhiên, tiếp sau đó là thời kỳ hoàn toàn suy sụp kéo dài.

Tôi và chồng tôi mặc dù vẫn là những người bạn thân và thỉnh thoảng vẫn gặp nhau, nhưng cuối cùng cũng phải quyết định rằng hôn nhân của chúng tôi là không thể khôi phục được nữa. Sau khi tôi bị bỏ mặc trong lần điên đầu tiên, tôi chưa bao giờ nghĩ rằng hôn nhân của chúng tôi có bất cứ cơ may thực sự nào được cứu vãn. Tuy nhiên, cả hai chúng tôi đều đã cố thử nối lại. Chúng tôi nói chuyện với nhau rất nhiều, thảo luận về những sai lầm của chúng tôi và khả năng nối lại, trong những bữa ăn và bên những cốc rượu vang. Chúng tôi đã rất thiện chí và chăm Sóc lẫn nhau, nhưng không gì có thể nối lại hôn nhân của chúng tôi, sau tất cả những gì đã xảy ra khi tôi mắc bệnh. Trong khoảng thời gian này, tôi viết thư cho David thông báo cho anh biết rằng cuối cùng tôi đã chia tay chồng. Cuộc sống cứ thế trôi đi, với những cuộc họp ở bệnh viện, tiếp tục viết bài, khám cho bệnh nhân và giảng dạy cho các bác sỹ điều trị, thực tập sinh và sinh viên. Tôi vẫn nơm nớp lo sợ rằng người ta có thể phát hiện ra tôi đã bị bệnh rất nặng và tâm trạng của tôi vẫn còn rất mong manh, nhưng thật kỳ cục và may mắn, nhạy cảm và khả năng quan sát tốt không phải bao giờ cũng là một phẩm chất của các nhà tâm lý.

Thế rồi một hôm, hơn mười tám tháng kể từ khi David rời UCLA, tôi trở về phòng làm việc và thấy anh đang ngồi trên ghế của tôi, nghịch chiếc bút chì và cười rất tươi. Anh nói, nửa như cười: “Chắc chắn bây giờ thì em có thể đi ăn tối với anh được rồi. Anh đã chờ đợi quá lâu và phải đi một chặng đường quá dài vì nó”. Tất nhiên là tôi đồng ý và chúng tôi đã có vài ngày tuyệt vời ở Los Angeles trước khi anh trở lại nước Anh. Anh rủ tôi sang Luân Đôn ở cùng anh vài tuần. Mặc dù tôi vẫn đang trong giai đoạn hồi phục sau đợt trầm cảm kéo dài, mà suýt dẫn tới tự tử, và tôi cũng vẫn còn lưỡng lự vì sợ thần kinh của tôi không chịu đựng nổi, nhưng không hiểu bằng cách nào đó tôi vẫn biết rằng được ở bên anh chắc sẽ tốt hơn cho tôi. Và quả thật nó rất tốt cho tôi. Chúng tôi đã có những buổi tối cuối xuân đi dạo bên nhau rất lâu trong công viên St. James, ăn tối ở câu lạc bộ của anh nhìn xuống sông Thames và tổ chức những bữa ăn ngoài trời công viên Hyde gần nơi anh ở. Tình trạng suy. sụp, lo sợ và mất niềm tin trong tôi bỗng dần biến mất. Tôi lại bắt đầu thích thưởng thức âm nhạc và hội hoạ. Tôi đã cười trở lại và lại bắt đầu làm thơ. Tình cảm mãnh liệt trong những đêm dài và sáng sớm đã làm cho tôi lại tin vào, hay nhớ lại tầm quan trọng của ý niệm sống để yêu và yêu để sống.

Ban ngày David làm việc ở bệnh viện, nên tôi lại hoà mình vào Luân Đôn, nơi tôi đã từng gắn bó. Tôi lang thang đi bộ rất lâu trong công viên, đến thăm nhiều lần Tate, đi vòng quanh Victoria và Albert mà không có mục đích gì cả, rồi tới Bảo tàng Tự nhiên và Bảo tàng Khoa học. Một hôm, theo gợi ý của David, tôi đi thuyền từ cảng Westminster tới Greenwich và ngược lại. Một ngày khác, tôi đi tàu hoả tới Canterbury. Tôi đã không trở lại Canterbury trong nhiều năm và trước đây tôi chỉ thấy nó qua đôi mắt hơi điên, nhưng không thể nào quên được. Tôi đã có những ký ức huyền ảo nhưng tồn tại rất lâu về những ô cửa kính sơn sẫm màu sặc sỡ, về những âm thanh ớn lạnh và khung cảnh mờ tối của nơi xảy ra vụ giết hại Becket, cùng những vệt nắng lướt trên nền nhà thờ. Lần này tuy tôi quỳ xuống trong trạng thái không bị ngất ngây, nhưng tôi không có niềm tin khi cầu nguyện và tôi có cảm giác như một người xa lạ. Đó vẫn là cảm giác về một Canterbury tĩnh lặng và dịu dàng mà tôi đã có.

Đúng lúc đang quỳ gối cầu nguyện, tôi chợt nhớ ra rằng tôi đã quên không uống Lithi tối hôm trước. Tôi thò tay vào túi lấy thuốc, mở lọ thuốc ra và ngay lập tức tôi đánh đổ toàn bộ thuốc ra nền nhà thờ. Nền nhà thờ bẩn thỉu, xung quanh có rất nhiều người và tôi vô cùng xấu hổ khi phải cúi xuống nhặt những viên thuốc. Không chỉ xấu hổ, đó cũng là lúc tôi nhận ra rằng tôi sẽ phải đề nghị David kê cho tôi một đơn thuốc khác. Điều đó cũng có nghĩa là tôi sẽ buộc phải nói thật với David về bệnh tình của mình. Tôi không thể không cay đắng nghĩ rằng Chúa hiếm khi mở cánh cửa này ra mà không đóng cánh cửa khác lại. Tuy nhiên, tôi không thể không mua thuốc mới. Lần trước tôi không uống Lithi và ngay lập tức đã bị điện trở lại. Tôi không thể sống tiếp một năm nữa như những gì tôi vừa mới trải qua.

Đêm đó, trước khi đi ngủ, tôi nói với David về bệnh hưng - trầm cảm của mình. Tôi lo sợ nghĩ tới phản ứng của anh và tự giận mình tại sao không nói với anh sớm hơn. Anh im lặng trong một khoảng thời gian rất dài và tôi đoán rằng anh đang tính tới những tác động, cả về у học lẫn con người, của những gì tôi vừa nói. Tôi không nghi ngờ rằng anh đã yêu tôi, nhưng giống như tôi, anh hiểu rõ những bất ổn mà căn bệnh này gây ra. Anh là một sỹ quan quân đội, gia đình anh rất bảo thủ và anh khao khát có con, trong khi hưng - trầm cảm lại là căn bệnh có tính di truyền. Đó cũng là căn bệnh người ta không dám nói ra, một căn bệnh không thể dự báo trước được và không ít trường hợp dẫn tới cái chết. Ước gì tôi đã không nói với anh chuyện này, ước gì tôi là một người bình thường và ước gì tôi đang ở bất kỳ đâu đó trừ chỗ này. Tôi cảm thấy thật xuẩn ngốc khi hy vọng ai đó có thể chấp nhận những gì tôi vừa nói và tôi sẵn sàng chấp nhận một cuộc chia tay tinh tế và lịch sự. Dù sao thì chúng tôi cũng chưa kết hôn và chúng tôi cũng chưa sống với nhau một cách nghiêm túc trong một thời gian dài.

Cuối cùng, khi sự im lặng kéo dài phải đến hồi kết thúc, David ôm lấy tôi và nói bằng một giọng nhỏ nhẹ: “Anh rất thông cảm với em”. Tôi nhẹ cả người và sững sờ trước sự thật hiển nhiên trong điều anh vừa nói. Đó là sự cảm thông và cuối cùng cũng đã có người hiểu được tôi. Giữa lúc tâm hồn tôi đang dịu lại, thì một ốc đảo hài hước nhỏ bé trong đầu tôi lại lĩnh hội những điều David nói theo một nghĩa khác, và tôi coi câu nói của anh như được rút ra từ một cuốn tiểu thuyết của P.G. Wodehouse vậy. Tôi nói với anh về điều này và nhắc anh nhớ lại nhân vật Wodehouse, người đã phàn nàn rằng mặc dù trên thực tế không phải là anh ta bất bình, nhưng điều đó cũng không có nghĩa là anh ta hài lòng. Cả hai chúng tôi cùng cười rất lâu. Mặc dù trong tiếng cười ấy vẫn còn chứa đựng những âu lo, nhưng tảng băng đáng sợ giữa hai chúng tôi đã được phá vỡ.

David rất tốt bụng và sẵn sàng chấp nhận. Anh hỏi tôi hết câu hỏi này đến câu hỏi khác về những gì tôi đã trải qua, điều gì là tệ hại nhất, tôi sợ nhất cái gì và anh có thể giúp gì cho tôi mỗi khi tôi bị bệnh. Sau cuộc nói chuyện ấy, mọi chuyện đối với tôi dường như dễ dàng hơn. Lần đầu tiên tôi cảm thấy mình không đơn độc khi đối phó với những nỗi đau và sự bất ổn của căn bệnh này và tôi nhận thấy rõ ràng rằng anh thực sự muốn hiểu rõ căn bệnh của tôi để có thể chăm sóc tôi. Và anh đã bắt đầu chăm sóc tôi ngay từ đêm đó. Tôi giải thích với anh rằng do tác dụng phụ hiếm khi xảy ra của Lithị đối với cả thị lực lẫn khả năng tập trung, nên về cơ bản, tôi không thể đọc quá một, hai đoạn sách cùng. một lúc. Thế là anh đọc cho tôi nghe: anh đọc thơ, Wilkie Collins và Thomas Hardy, với một tay ôm tôi trên giường và thỉnh thoảng lại vuốt tóc tôi cứ như tôi là một đứa trẻ vậy. Từ khoảnh khắc này đến khoảnh khắc khác, với sự kiên nhẫn và tế nhị vô bờ, sự dịu dàng của anh cả niềm tin của anh vào tôi, tin vào tình trạng của tôi và tin vào nền tảng sức khoẻ của tôi - đã từng bước đẩy lùi nỗi lo sợ trong tôi về tâm trạng và bạo lực không thể dự báo được.

Chắc chắn David biết rõ rằng tôi đã mất hết hy vọng trở lại cuộc sống bình thường, nên anh đã tìm cách trấn an và từng bước tạo dựng niềm tin trong tôi một cách có hệ thống. Tối hôm sau, khi trở về nhà, anh thông báo với tôi rằng anh đã mời hai sỹ quan cấp cao của Quân đội Anh, mà cả hai đều đã từng mắc chứng hưng - trầm cảm, tới ăn tối. Những buổi tối chúng tôi ở cùng với hai sỹ quan này và phu nhân của họ là không thể nào quên được. Một trong hai người là tướng. Ông lịch lãm, dịu dàng và rất thông minh. Sự sáng suốt của ông là điều không phải bàn cãi. Ngoại trừ những dấu hiệu thiếu ngủ thỉnh thoảng hiện ra trong đôi mắt và những nét u sầu nhẹ được khéo léo che đậy khi nói chuyện, ông rất giống với mẫu người năng động, tự tin và dễ chịu mà người ta có thể bắt gặp trong các bữa tiệc lớn ở Luân Đôn hay Oxford, Viện sỹ quan kia cũng rất tuyệt vời, niềm nở, hóm hỉnh và giống như vị tướng, anh ta cũng hay nói “khiếp quá, khiếp quá” đặc giọng của tầng lớp thượng lưu. Đôi mắt của anh ta thỉnh thoảng cũng hiện lên những nét buồn. Tuy nhiên, anh là một người bạn tuyệt vời và nhiều năm sau vẫn là một người bạn gần gũi của chúng tôi.

Trong những bữa ăn tối, chúng tôi không bao giờ đề cập tới bệnh hưng - trầm cảm và bầu không khí hoàn toàn bình thường của những buổi tối ấy đã làm cho tôi tin tưởng hơn và quả thật là rất quan trọng đối với tôi. Giới thiệu tôi với hai người đàn ông “bình thường”, mà cả hai cùng ở trong thế giới giống như tôi đã biết hồi nhỏ, chỉ là một trong rất nhiều việc làm tốt đẹp mà David đã dành cho tôi. Như Robert Louis Stevenson đã từng viết: “Trong lịch sử tốt bụng của loài người, chỉ cần một người cũng có thể làm cho thế giới trở nên đẹp đẽ hơn. Nếu không phải nhờ nó, nhờ tác động của những lời nói, cái nhìn và những lá thư ân cần... thì tôi buộc phải nghĩ rằng cuộc đời chúng ta chỉ là sự nhạo báng của thế giới tâm hồn tệ hại”. Từ khi biết David, tôi không bao giờ nhìn cuộc đời từ góc độ tồi tệ nữa.

Tôi rời Luân Đôn với cảm giác lo sợ, nhưng David đã thường xuyên viết thư và gọi điện cho tôi. Cuối mùa thu năm ấy, chúng tôi lại được sống bên nhau ở Washington, và do tôi đã trở lại với chính mình, nên tôi đã sống theo đúng cách mà tôi không hề có trong nhiều năm. Những ngày tháng 11 năm ấy đã đọng lại trong trí nhớ của tôi như những vòng xoáy dịu dàng, nhưng mãnh liệt của những chuyến đi dạo rất lâu trong gió lạnh, tới thăm những ngôi nhà cổ, những nhà thờ cổ, những mảnh vườn từ thế kỷ 18 ở Annapolis được phủ một lớp tuyết mỏng và những dòng sông chảy ra Vịnh Chesapeake đã bắt đầu đóng băng. Tối đến, chúng tôi cùng ăn anh đào khô, ăn tối trên đường và nói với nhau mọi chuyện. Còn đêm đến, chúng tôi sống trong tình yêu tràn ngập và những giấc ngủ không hề bị quấy nhiễu, mà đã lâu lắm rồi tôi hằng mong ước nhưng không có được.

David trở lại Luân Đôn, tôi trở về Los Angeles, chúng tôi thường xuyên viết thư và nói chuyện với nhau, chúng tôi nhớ nhau và cùng lao vào công việc của riêng mình. Tháng 5, tôi trở lại Anh và chúng tôi đã có hai tuần cùng hưởng những ngày đầu hè ở Luân Đôn, Dorset và Devon. Một buổi sáng chủ nhật, sau lễ cầu nguyện ở nhà thờ, chúng tôi cùng leo lên đỉnh đồi để lắng nghe tiếng chuông nhà thờ. Tôi bỗng thấy David dừng lại, đứng như trời trồng và thở một cách khó nhọc. Anh nói đùa là vì đêm phải tập thể dục quá nhiều. Chúng tôi cùng cười và bỏ qua chuyện đó.

David được điều sang làm việc tại Bệnh viện của Quân đội Anh ở Hồng Công và anh vạch kế hoạch để tôi tới thăm anh ở đó. Anh thông báo cho tôi chi tiết kế hoạch mà anh đã dàn xếp cho các buổi tối của riêng chúng tôi, cho những cuộc gặp với ai và những buổi cắm trại ở những hòn đảo gần đó. Tôi nóng lòng mong tới ngày được ở cùng anh. Nhưng rồi vào một buổi tối, không lâu trước ngày tôi dự định sang với anh, khi tôi đang ngồi ở nhà viết một chương cho cuốn sách giáo khoa thì có tiếng gõ cửa. Khi đó đã khá muộn và tôi không nghĩ lại có ai gõ cửa vào giờ ấy. Tôi đột nhiên nhớ tới lời mẹ tôi nói về nỗi khiếp đảm của các bà vợ phi công mỗi khi cha tuyên uý gõ cửa. Tôi mở cửa và đó là một công văn ngoại giao. Bức thư của viên sỹ quan chỉ huy của David viết, trong khi đi làm nhiệm vụ ở Cátmandu, David đã đột ngột qua đời vì bệnh tim. Khi đó anh 44 tuổi, còn tôi 32 tuổi.

Tôi hẫng người. Tôi nhớ là đã cố ngồi xuống, quay lại với công việc, viết một chút nữa rồi gọi điện cho mẹ tôi. Tôi cũng nói chuyện với bố mẹ của David và với viên sỹ quan chỉ huy của anh. Ngay cả khi chúng tôi đang thảo luận về kế hoạch tang lễ, tôi vẫn không tin rằng anh đã chết. Tang lễ của David phải lui lại khá lâu, do quân đội yêu cầu phải khám nghiệm tử thi, trước khi thi thể của anh được đưa về Anh. Tôi đã trải qua đủ loại cảm xúc trong cơn sốc ấy. Tôi mua vé máy bay, lên giảng đường vào sáng hôm sau, triệu tập với cuộc họp với các nhân viên bệnh viện, gia hạn hộ chiếu, xếp vội quần áo vào va li và cẩn thận gom tất cả những lá thư mà David đã viết cho tôi. Khi ngồi trên máy bay, tôi máy móc xếp những lá thư của David theo thứ tự thời gian và quyết định sẽ đọc lại những lá thư này sau khi tới Luân Đôn. Ngày hôm sau, khi ngồi trong công viên Hyde để đọc lại thư, tôi đã không thể đọc nổi một nửa lá thư đầu tiên, tôi bật khóc và không kìm lại được. Cho đến tận hôm nay, tôi vẫn không đọc lại bất cứ lá thư nào của anh nữa.

Tôi tới Harrods mua mũ đen cho buổi tang lễ, rồi sau đó ăn trưa với viên sỹ quan chỉ huy của David tại câu lạc bộ của anh ta. Anh là bác sỹ trưởng về tâm thần của Quân đội Anh một con người tận tụy với công việc, tốt bụng, thẳng thắn và rất hiểu biết. Anh ta đã từng phải tiếp những phụ nữ có chồng đột ngột qua đời và hiểu nỗi lòng của họ, nhưng rõ ràng là anh ta đã sửng sốt khi biết tôi vẫn chưa bắt đầu quen với sự thật rằng David đã chết. Anh nói với tôi rất lâu về David, về những năm anh biết và làm việc cùng với David. Anh ta ca ngợi David là một bác sỹ và một con người tuyệt vời. Anh ta nói với tôi rằng “có thể là rất khó khăn, nhưng cũng tốt” nếu anh ta đọc cho tôi nghe một đoạn báo cáo khám nghiệm tử thi của David. Về bề ngoài, đây có vẻ như là nhằm thuyết phục tôi rằng bệnh nhồi máu cơ tim của David là không có cách gì chữa khỏi và sự can thiệp của y học cũng chẳng giúp ích được gì. Nhưng trên thực tế, rõ ràng là anh ta biết rằng những ngôn ngữ y học lạnh lùng sẽ gây sốc cho tôi và buộc tôi phải đối mặt với sự thật. Tuy nhiên, những chi tiết y học khủng khiếp đã không đưa tôi tiến gần hơn tới sự thật bao nhiêu. Thay vào đó, chính câu nói của viên thiếu tướng rằng “một sỹ quan trẻ đã áp tải thi thể của Đại tá Laurie trên chuyến bay của Không quân Hoàng gia Anh từ Hồng Công về sân bay Brize Norton” lại đưa tôi trở về với thực tế. David không còn là Đại tá Laurie nữa, không còn là Bác sỹ Laurie nữa, mà chỉ còn là một thi thể.

Quân đội Anh đã rất tốt với tôi. Theo cách hiểu của quân đội, hy sinh, đặc biệt là cái chết bất ngờ, về cơ bản đã được xác định trước. Vì thế, nghi thức tang lễ của quân đội tự nó muốn nói lên rằng đó là kết cục đã được dự báo, an ủi thân nhân, ca ngợi người nằm xuống và mang đầy tính tôn giáo. Bạn bè và các sỹ quan đồng đội của David rất thẳng thắn, hóm hỉnh, thực tế và đầy lòng thương cảm. Họ nói rằng họ tin tôi sẽ vượt qua tất cả, nhưng họ cũng vẫn làm tất cả những gì có thể để giúp tôi xoa dịu bớt nỗi buồn khủng khiếp này. Họ không bao giờ để tôi một mình, nhưng cũng không bao giờ lảng vảng gần đó, họ mang anh đào và rượu uytxki đến cho tôi và tư vấn pháp lý cho tôi. Họ thường xuyên nói về David, một cách công khai và hài hước, làm cho tôi không còn nhiều cơ hội để buồn phiền.

Khi cử hành tang lễ, viên thiếu tướng cứ nằng nặc đòi tôi cùng hát những bài thánh ca. Anh ta ôm lấy tôi trong suốt khoảng thời gian đặc biệt khó khăn này. Anh ta cười toáng lên khi tôi nói nhỏ vào tai anh ta - giữa lúc các sỹ quan và các quý ông đang ca ngợi David - rằng ước gì tôi cũng có thể đứng lên tuyên bố với mọi người rằng David cũng rất tuyệt vời trên giường ngủ. Bất chấp nỗi khiếp đảm của tôi trước việc một người đàn ông cao gần 1,9 mét biến thành một hộp tro nhỏ và bất chấp việc tôi muốn lùi lại phía sau cách xa ngôi mộ của anh, anh ta vẫn đẩy tôi lên phía trước để tôi tận mắt chứng kiến, để tôi nhận tro và tin rằng mọi chuyện đã kết thúc.

Tôi dành khoảng thời gian còn lại ở Anh với bạn bè và dần dần, tôi bắt đầu hiểu được rằng tương lai mà tôi trông đợi, tình yêu và sự trợ giúp mà tôi phụ thuộc vào, đã không còn nữa. Tôi nhớ lại hàng nghìn chuyện liên quan tới David, với biết bao tiếc nuối về những cơ hội bị bỏ lỡ, về những cuộc cãi vã tệ hại không cần thiết và tôi hiểu rằng không gì có thể làm thay đổi thực tế được nữa. Biết bao ước mơ đã bị mất: mọi kế hoạch của chúng tôi về một gia đình ngập tràn tiếng trẻ; và mọi thứ dường như trong tầm tay, đã tiêu tan. Rất đau khổ, nhưng thật may là nó hoàn toàn khác với sự suy sụp. Buồn, khủng khiếp, nhưng không tuyệt vọng. Cái chết của David đã không ném tôi vào bóng đêm không chịu đựng nổi và ý nghĩ tự tử không hề lướt qua trong đầu tôi. Tôi đã được an ủi rất nhiều nhờ sự bù đắp và lòng tốt vô bờ của bạn bè, gia đình và cả những người xa lạ nữa. Ví dụ, hôm tôi rời Anh để trở về Mỹ, nhân viên làm thủ tục lên máy bay của Hãng hàng không Anh đã hỏi tôi đến Anh vì công việc hay đi nghỉ. Mọi sự điềm tĩnh mà tôi cố giữ trong gần hai tuần qua đột nhiên vỡ ra. Tôi giải thích, qua hai hàng nước mắt, mục đích chuyến đi của mình và nhân viên ấy đã ngay lập tức nâng hạng ghế cho tôi và xếp tôi vào vị trí để tôi có thể riêng tư nhất. Dường như David đã báo trước cho các nhân viên phục vụ trên máy bay, vì họ rất tốt bụng, quan tâm đến tôi hơn bình thường và để cho tôi được tự do với suy nghĩ của mình. Từ ngày đó, khi có thể, tôi luôn bay với Hãng hàng không Anh. Và mỗi lần như thế, tôi lại nhớ tới những cử chỉ tốt bụng nho nhỏ.

Tôi trở về nhà, trở về với một núi công việc mà nói chung là tốt cho tôi, và rất não lòng khi trở về với cả một vài lá thư của David được chuyển tới khi tôi đi vắng nữa. Trong những ngày sau đó, tôi còn nhận được hai lá thư khác nữa của David bị chuyển chậm, và cuối cùng những lá thư như thế đương nhiên không tới nữa. Theo thời gian, cú sốc về cái chết của David cuối cùng cũng nguôi ngoai. Vài năm sau cái chết của David, tôi được người ta yêu cầu nói về chuyện này. Tôi kết thúc buổi nói chuyện bằng một bài thơ của Edna St. Vincent Millay:

Thời gian chẳng thể giúp nguôi ngoai; Thế là anh nói dối.

Ai nói nỗi đau sẽ dịu đi theo tháng ngày bận rộn!

Tôi nhớ anh trong từng tiếng mưa rơi. 

Vẫn muốn có anh khi thủy triều rút nước. 

Tuyết năm ngoái bắt đầu tan trên sườn núi, 

Và những chiếc lá cũ đã tàn rũa bên đường, 

Nhưng nỗi đắng cay vẫn còn nguyên đó 

Chồng chất trong tim em, nỗi đau vẫn nhói. 

Biết bao nơi em không dám tới, 

Chỉ vì nơi đó vẫn còn nguyên dấu tích của anh, Rồi em tới một nơi tĩnh lặng, 

Nơi anh chưa từng đến bao giờ 

Em nghĩ nó sẽ không gợi nhớ đến anh 

Nhưng em sững sờ,

Bởi nỗi nhớ anh bỗng ào ào tràn tới

Thời gian cuối cùng cũng làm dịu nỗi đau. Tuy nhiên, nó cũng bắt người ta phải trả giá, không dễ chịu chút nào. Thời gian là vậy.

Họ nói với anh rằng trời đã đổ mưa

Trong suốt vài năm sau đó, nỗi đau và sự bất ổn từ cái chết của David và từ căn bệnh của chính mình đã làm giảm rất nhiều kỳ vọng của tôi về cuộc sống. Tôi co mình lại và chủ tâm không mở cửa với thế giới bên ngoài nếu như không cần thiết. Tôi lao vào công việc. Điều hành bệnh viện, giảng dạy, nghiên cứu và viết sách không thể thay thế được tình yêu, nhưng nó cũng khá thú vị và làm cho cuộc sống vừa bị phá vỡ của tôi có một chút ý nghĩa nào đó. Sau khi đã biết tới những hậu quả tệ hại của việc uống rồi lại ngừng uống Lithi, nay tôi đã tự giác uống thuốc đều đặn và tôi phát hiện ra rằng cuộc đời là có thể dự báo được và ổn định hơn nhiều so với trước kia tôi vẫn nghĩ. Tâm trạng của tôi vẫn còn căng thẳng và tính khí của tôi vẫn rất dễ bị kích động, nhưng nay tôi đã có thể vạch ra những kế hoạch ổn định hơn nhiều và những cơn suy sụp nay đã thưa hơn và ít nghiêm trọng hơn.

Dù thế, tâm hồn tôi vẫn chưa lành. Trong suốt tám năm kể từ khi trở thành giáo viên đại học, bất chấp những tháng tôi bị điện và suy sụp kéo dài, việc tôi mưu toan tự tử và cái chết của David. tôi chưa bao giờ phải nghỉ việc quá lâu, hay phải rời khỏi Los Angeles để chữa trị, hay che giấu nỗi đau khủng khiếp của mình. Vì thế, tận dụng một trong những đặc ân cao của giáo sư, tôi quyết định đi nghỉ phép năm kết hợp với nghiên cứu ở Anh. Giống như ở St. Andrews nhiều năm trước đây, chuyến đi ấy đem lại cho tôi khoảng thời gian nghỉ ngơi tuyệt vời và dễ chịu. Tình yêu, khoảng thời gian dài cho chính mình và cuộc sống tuyệt vời ở Luân Đôn và Oxford đã tạo cơ hội cho cả tâm hồn và trí tuệ tôi dần hàn gắn lại hầu hết những mảnh vỡ trước đây.

Lý do học thuật để tôi tới Anh là nghiên cứu về hiện tượng rối loạn tâm thần ở các nghệ sỹ và nhà văn nổi tiếng của Anh và để viết một cuốn sách giáo khoa về bệnh hưng - trầm cảm mà tôi đang viết cùng với một đồng nghiệp. Thời gian của tôi được chia cho công việc ở Trường Y Bệnh viện St. George ở Luân Đôn và Trường Đại học Oxford. Đó là hai nơi khác hẳn nhau, mỗi nơi tuyệt vời theo một cách. St. George là một bệnh viện kết hợp với giảng dạy lớn, nằm giữa một trong những vùng nghèo nhất của ngoại ô Luân Đôn. Đó là nơi nhộn nhịp và đáng yêu, rất phù hợp với một bệnh viện kết hợp với giảng dạy. Nó có lịch sử tồn tại 250 năm và đó là nơi Edward Jenner, bác sĩ phẫu thuật lỗi lạc John Hunter, cùng nhiều bác sỹ và nhà khoa học nổi tiếng khác trong lịch sử y học đã từng làm việc. Bệnh viện này là nơi yên nghỉ cuối cùng của con bò Blossom, con bò mà Jenner đã từng sử dụng để nghiên cứu thí nghiệm vắcxin đậu mùa. Bộ da ghẻ lở mà vĩ đại của con bò ấy vẫn được treo trong tủ kính ở thư viện của trường y. Lần đầu tiên nhìn thấy nó từ xa và khi không đeo kính, tôi nghĩ đó là một bức tranh kỳ quặc, nhưng hấp dẫn nhờ chính vẻ kỳ cục của nó. Tôi vui sướng khi biết đó chính là bộ da bò, nhưng không phải của con bò bình thường, mà là một con bò nổi tiếng trong giới y học. Có một cái gì đó thật tuyệt vời mỗi khi làm việc gần Blossom và tôi đã có nhiều giờ ở gần đó, làm việc, suy nghĩ về công việc và thỉnh thoảng nhìn lên bộ da nhiều màu sắc và quyến rũ của nó.

Oxford lại hoàn toàn khác. Tôi là hội viên nghiên cứu cao cấp của Trường đại học Merton, một trong ba trường đại học đầu tiên của Oxford được thành lập từ thế kỷ 13. Nhà thờ của trường Merton cũng được xây dựng cùng thời gian này và một số ô cửa kính sơn rất đẹp của nhà thờ có niên đại từ ngày đó. Thư viện của trường, được xây dựng một thế kỷ sau đó, là một trong những thư viện Trung cổ đẹp nhất của Anh. Đây cũng là thư viện đầu tiên xếp sách đứng trên giá, thay vì để nằm trong những chiếc hòm. Bộ sưu tập những cuốn sách in đầu tiên nghe nói phải chật vật lắm mới đưa được vào thư viện, bởi vì trường này tin rằng sách in chỉ là một loại mốt nhất thời và không thể thay thế được cho những bản viết tay. Một số niềm tin khác thường kiểu ấy - bất chấp những thực tế của thời hiện đại hay tương lai đang đến gần - vẫn hiện hữu trong trường, trong sự sáng tạo, đa dạng, bực mình hay dễ chịu, tuỳ theo tâm trạng và hoàn cảnh khác nhau.

Tôi sống trong một căn hộ nhiều phòng tuyệt đẹp của Merton, nhìn xuống sân chơi. Tôi đọc (mặc dù vẫn còn khó khăn) và viết trong bầu không khí hoàn toàn tĩnh lặng, chỉ bị phá vỡ khi nhân viên phục vụ của trường mang cà phê, vào buổi sáng, và trà, vào buổi chiều, đến cho tôi. Bữa trưa bao giờ tôi cũng ăn cùng các đồng nghiệp cao cấp, đó là điều rất thú vị, nhất là khi có đủ mặt các giáo sư và giảng viên cao cấp thuộc đủ các khoa trong trường. Ở đó có đủ các nhà sử học, toán học, triết học và văn học. Mỗi khi có dịp ngồi cạnh ông Alister Hardy, một nhà sinh vật biển, một con người tuyệt vời và rất có khiếu kể chuyện, tôi lại được nghe ông nói hàng giờ về chương trình khoa học khám phá Nam cực trước đây của ông, và thảo luận về công trình nghiên cứu hiện nay của ông về bản chất của đức tin tôn giáo. Chúng tôi cũng rất quan tâm tới William James và bản chất của trạng thái mê li (ecstasy). Ông liên tục nhảy từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác, từ văn học tới sinh học và thần học, mà chẳng khó khăn gì.

Merton không chỉ là trường cổ nhất và giầu nhất trong hệ thống của Trường Đại học Oxford, mà nó còn tự hào là nơi có đồ ăn ngon nhất và có hầm rượu vang tốt nhất nữa. Vì thế, tôi thường tới dự những bữa tiệc tối của Trường Oxford. Đó là những buổi tối giống như những buổi tối từng có rất lâu trong quá khứ: người ta nhấm nháp một chút rượu anh đào và nói chuyện với các giảng viên của trường, trước khi bữa tối bắt đầu, mọi người lần lượt tiến vào phòng ăn cổ kính và đẹp đẽ; các sinh viên nữ trong bộ áo dài đen kiễng chân chào khi các giảng viên bước vào. Cả giảng viên lẫn sinh viên cùng cúi đầu cầu nguyện bằng tiếng Latinh, rồi tất cả cùng đợi ông hiệu trưởng ngồi xuống. Nhưng chỉ ngay sau đó là những tiếng ầm ĩ của sinh viên tranh nhau ghế, cười nói và hò hét từ bàn nọ sang bàn kia.

Ở bàn trên, các cuộc thảo luận và sự kích động được kiềm chế hơn. Bao giờ đó cũng là những cuộc trao đổi kiểu Oxford cổ, thường là thông minh, vui vẻ, nhưng thỉnh thoảng cũng khó chịu. Những món ăn tuyệt vời và những loại rượu vang hảo hạng được liệt kê trên bảng thực đơn trang trí cầu kỳ và trang nhã. Chúng tôi rời phòng ăn lớn, bước vào phòng ăn nhỏ hơn, riêng tư hơn, để cùng hiệu trưởng và các đồng nghiệp uống rượu brandi và rượu vang đỏ, ăn hoa quả và mứt gừng. Tôi nghĩ người ta khó có thể làm nổi bất cứ việc gì sau những bữa tiệc tối như vậy, nhưng hầu hết các giảng viên của trường Oxford mà tôi gặp đều viết ít nhất bốn cuốn sách khác nhau về một chủ đề nào đó. Vì thế, có lẽ họ đã may mắn có được, hoặc đã rèn luyện được, những lá gan và bộ óc khác người. Còn về phần mình, rượu brandi và rượu vang đỏ đã làm tôi chính choáng. Sau khi lên chuyến tàu cuối cùng về Luân Đôn, tôi chỉ còn có thể ngồi nhìn đăm đăm vào màn đêm qua cửa sổ, thả mình hàng giờ vào những thế kỷ khác và hạnh phúc chìm đi giữa những thế giới và kỷ nguyên khác nhau.

Mặc dù tôi tới Oxford vài lần mỗi tuần, nhưng cuộc sống của tôi tập trung chủ yếu ở Luân Đôn. Tôi dành nhiều thời gian thả bộ trong những công viên và thăm viện bảo tàng, còn trong những ngày nghỉ cuối tuần tôi thường cùng bạn bè tới Đông Sussex, đi men theo những quả đồi nhìn xuống eo biển Măngsợ. Tôi lại tập cưỡi ngựa. Những cảm nhận tuyệt vời về cuộc sống và sự sống dường như đã trở lại với tôi mỗi khi tôi cưỡi ngựa xuyên qua màn sương sớm ở công viên Hyde vào những buổi sáng cuối thu se lạnh, hay khi phi nước đại xuyên qua những cánh rừng sồi và vượt qua các trang trại ở vùng nông thôn Somerset. Tôi đã quên mất cảm giác thả mình trong gió, mưa và cảnh đẹp trước đây, nhưng tôi vẫn cảm nhận được cuộc sống đang trở lại với cơ thể và tâm hồn, mà từ lâu đã chết hay ngủ đông trong tôi.

Một năm ở Anh đã giúp tôi nhận ra rằng trước đây tôi chỉ vật lộn và chống chọi với cuộc sống và tìm cách né tránh những nỗi đau, chứ không can dự tích cực vào chúng để tìm lối thoát cho cuộc sống. Cơ hội giúp tôi tránh xa những gì gợi nhớ về bệnh tật và cái chết, tránh xa cuộc sống cuồng nhiệt và không phải lo lắng tới trách nhiệm giảng dạy và điều hành bệnh viện lần này khác hẳn với những năm tôi học đại học ở St. Andrews. Nó mang đến cho tôi sự thanh bình vốn đã lảng tránh tôi và tạo cho tôi khung cảnh để chữa lành vết thương và suy ngẫm, nhưng quan trọng nhất là nó giúp tôi lành bệnh. Nước Anh không có sức lôi cuốn kỳ diệu như St. Andrews - tôi nghĩ là không có gì kỳ diệu cho tôi nhưng nó lại giúp tôi trở lại với chính mình và đem lại cho tôi những hy vọng về cuộc sống. Nó cũng đem lại cho tôi niềm tin về tình yêu.

Cuối cùng tôi đã quen với sự thật rằng David đã chết. Tới thăm ngôi mộ của anh ở Dorset vào một ngày chủ nhật lạnh lẽo, tôi sững sờ trước vẻ đáng yêu của khu vườn nhà thờ, nơi anh được chôn cất. Tôi không nhớ nhiều lắm về khu vườn này trong ngày tang lễ, nhất là sự thanh bình và vẻ đẹp của nó. Tôi nghĩ rằng sự tĩnh lặng trong ngày tang lễ chỉ là sự cảm thông, chứ không phải là sự yên bình mà người ta muốn có. Tôi đặt một bó hoa violet lên mộ anh và ngồi xuống, lần theo từng chữ khắc tên anh trên tấm bia đá granít và nhớ lại những ngày chúng tôi sống bên nhau ở Anh, Washington và Los Angeles. Mọi chuyện dường như đã qua đi từ lâu lắm rồi, nhưng tôi như vẫn nhìn thấy anh cao, đẹp trai, khoanh tay đứng cười trên đỉnh đồi, trong một chuyến chúng tôi đi dạo ở vùng nông thôn Anh. Tôi vẫn thấy như anh đang ở bên tôi, cùng tôi quỳ xuống, âu yếm hôn nhau trên chuyến tàu điện ở St. Paul. Tôi vẫn nhận thấy một cách rất rõ ràng cánh tay anh ôm chặt lấy tôi, bảo vệ tôi, làm cho tôi cảm thấy an toàn và thoải mái trong một thế giới đầy rẫy những điều phiền muộn. Hơn bất cứ điều gì khác, tôi ước gì anh nhìn thấy tôi khoẻ mạnh và đã đền đáp được phần nào lòng tốt và niềm tin mà anh đã dành cho tôi. Tuy nhiên, khi ngồi đó bên cạnh mộ anh, tôi nghĩ nhiều đến những gì mà David đã bỏ lỡ do qua đời quá sớm. Sau hơn một giờ đồng hồ chìm trong suy tư, tôi chợt nhận ra rằng lần đầu tiên tôi nghĩ tới những gì David bị bỏ lỡ, hơn là những gì mà cả hai chúng tôi có thể bị lỡ.

David đã yêu và chấp nhận tôi một cách khác thường. Sự tốt bụng và kiên định của anh đã níu kéo và cứu sống cuộc đời tôi, nhưng anh đã ra đi. Cuộc đời - nhờ có anh và bất chấp cái chết của anh - vẫn diễn ra. Và nay, bốn năm sau cái chết của anh, tôi đã tìm thấy một tình yêu hoàn toàn khác và một niềm tin mới vào cuộc sống. Tình yêu và niềm tin ấy đến với tôi qua một người đàn ông Anh lịch thiệp, hơi buồn và rất đẹp trai, người mà tôi đã gặp hồi đầu năm đó. Cả hai chúng tôi đều biết rằng do hoàn cảnh cá nhân và nghề nghiệp, mối quan hệ giữa chúng tôi sẽ chấm dứt vào cuối năm đó, nhưng - bất chấp và có thể vì chính điều đó - mối quan hệ này cuối cùng đã thành công trong việc khôi phục lại tình yêu, tiếng cười và ước vọng cho một cuộc đời khép kín và một trái tim băng giá.

Chúng tôi gặp nhau lần đầu tiên trong một bữa tiệc tối ở Luân Đôn, trong chuyến thăm Anh lần trước của tôi. Thật kỳ lạ và không nghi ngờ gì nữa, chúng tôi đã yêu nhau ngay từ cái nhìn đầu tiên. Như mãi sau này chúng tôi thừa nhận, cả hai chúng tôi cùng không để ý đến bất cứ ai . khác trên bàn tiệc hôm đó và cả hai cùng có cảm giác rất kỳ lạ. Vài tháng sau, khi tôi trở lại Luân Đôn trong chương trình nghỉ kết hợp với nghiên cứu của mình, anh đã gọi điện mời tôi đi ăn tối. Khi đó, tôi đang thuê một căn nhà nhỏ ở Nam Kensington nên chúng tôi đã tới một nhà hàng ăn gần đó. Cả hai chúng tôi lại cùng có cảm giác giống như lần đầu gặp mặt. Tôi như bị thôi miên trước sự thấu hiểu của anh về tôi, trong khi cơ thể tôi như bị ngập chìm trước vẻ cường tráng của anh. Rất lâu trước khi bữa ăn kết thúc, cả hai chúng tôi cũng hiểu rằng chúng tôi đã vượt qua ngưỡng có thể quay trở lại.

Trời đổ mưa khi chúng tôi rời nhà hàng. Anh quàng tay qua người tôi khi chúng tôi cùng chạy vội về căn hộ của tôi. Về tới nơi, anh vẫn giữ tôi rất lâu trong khoảng cách rất gần. Tôi cảm thấy và ngửi thấy mùi nước mưa trên áo khoác của anh, cảm thấy cánh tay anh quàng qua người tôi và nhớ lại những cảm giác tuyệt vời mà mưa, tình yêu và cuộc sống có thể mang lại. Đã khá lâu rồi, tôi không hề có một người đàn ông nào. Anh biết điều ấy và tỏ ra rất tốt bụng, tế nhị và say đắm tôi. Chúng tôi luôn liếc nhìn nhau và vì cả hai đang cùng có tâm trạng và cảm xúc mạnh, nên chúng tôi rất dễ an ủi nhau, nhưng cũng biết lảng tránh nhau khi cần thiết. Chúng tôi nói đủ thứ chuyện. Anh có khả năng quan sát tuyệt vời, thông minh, nhiệt tình và thỉnh thoảng lại đượm buồn. Anh nhanh chóng trở thành người thấu hiểu tôi hơn bất kỳ ai khác. Anh hiểu sự phức tạp của cảm giác và tâm trạng, mà chẳng khó khăn gì - những trải nghiệm của chính anh đã giúp anh hiểu và tôn trọng những điều vô lý, sự kích động, những nghịch lý, sự thay đổi và mâu thuẫn trong tôi. Chúng tôi cùng yêu thơ, nhạc, yêu truyền thống và yêu cả những điều không chính đáng nữa. Chúng tôi cùng nhìn thấy mặt tối của những gì sáng nhất và cũng thấy được mặt sáng của những gì ảm đạm và tăm tối nhất.

Chúng tôi đã tạo ra một thế giới riêng của những cuộc thảo luận, dục vọng và tình yêu, giữa sâm banh, hoa hồng, tuyết và mưa và sống trong ốc đảo của cuộc sống hồi sinh cho cả hai. Tôi không ngần ngại nói với anh mọi chuyện về mình và giống như David, anh thấu hiểu bệnh hưng - trầm cảm của tôi. Phản ứng đầu tiên của anh, sau khi tôi kể hết với anh, là anh đưa hai tay ôm lấy khuôn mặt tôi, hôn lên hai má tôi và nói: “Anh đã yêu em bằng cả trái tim mình”. Anh im lặng một lát rồi nói thêm: “Điều đó không hoàn toàn làm anh ngạc nhiên. Tuy nhiên, nó giải thích cho anh hiểu những mong manh trong cảm xúc của em. Anh rất mừng vì em đã nói với anh chuyện này”. Anh đã nói thật lòng mình. Đó không phải là những lời nói chỉ để che lấp cảm giác khó xử. Tất cả những gì anh làm và anh nói sau cuộc nói chuyện ấy đã chứng minh rằng anh thật lòng. Anh hiểu những mong manh của tôi, quan tâm tới nó và tính tới nó trong những kế hoạch của mình. Tuy nhiên, anh cũng biết và yêu những sức mạnh trong tôi. Anh luôn nhớ cả hai điểm đó để vừa tránh gây tổn thương tới căn bệnh của tôi, vừa trân trọng những điểm mạnh của tôi, mà anh cho là đã đưa niềm say mê vào cuộc sống, tình yêu và công việc.

 

Tôi kể cho anh nghe những vấn đề mà tôi gặp phải khi uống Lithi, nhưng tôi cũng nói với anh rằng cuộc đời tôi đã phụ thuộc vào Lithi. Tôi cũng nói với anh rằng tôi đã thảo luận với bác sỹ tâm thần của mình về khả năng giảm bớt liều dùng Lithi, với hy vọng tránh bớt những tác dụng phụ của thuốc. Tôi mong mỏi điều này, nhưng lại cũng lo sợ rằng bệnh điên của tôi có thể tái phát. Anh nói rằng có thể tôi sẽ không có thời kỳ nào an toàn và được chăm sóc tốt hơn lúc này để làm việc đó và anh hứa sẽ giúp tôi vượt qua giai đoạn này. Sau khi thảo luận với bác sỹ tâm thần của tôi ở Los Angeles và ở Luân Đôn, tôi bắt đầu cắt giảm, từng tí một, liều lượng Lithi. Kết quả thật tuyệt vời. Nó giống như tôi được tháo băng mắt, sau nhiều năm bị mù vậy. Vài ngày sau khi giảm liều lượng Lithi, tôi đi bộ trong công viên Hyde, dọc theo con kênh uốn khúc, tôi chợt nhận thấy bước chân của mình hoạt bát hơn và tôi nhìn thấy, nghe thấy nhiều điều mà trước đây như bị lọc qua lớp sương mù dày đặc vậy. Tiếng kêu của những con vịt nghe dứt khoát hơn, rõ hơn và mạnh hơn. Những tiếng động ở bên đường nghe rành rẽ hơn nhiều. Tôi cảm thấy mình năng động hơn và nhiều sinh lực hơn. Đáng kể nhất là tôi lại có thể đọc mà chẳng khó khăn gì. Tóm lại là sự thay đổi rất đáng kể.

Tối hôm đó, trong lúc ngồi chờ người đàn ông Anh buồn rầu, nhưng mạnh mẽ của tôi xuất hiện--tôi vừa thêu đăng ten, vừa ngắm tuyết rơi và nghe nhạc của Chopin và Elgar - tôi bỗng thấy tiếng nhạc rất rõ ràng và sầu thảm, tôi cũng thấy việc ngắm tuyết rơi và chờ đợi anh vừa đẹp, vừa buồn biết bao. Tôi nhận ra nhiều vẻ đẹp hơn, nhưng cũng thấy nhiều nét buồn hơn. Khi anh tới - lịch thiệp, vừa từ một bữa tiệc tối chính thức nào đó trở về, với chiếc cà vạt đen và khăn quàng buổi tối bằng lụa trắng gấp lại và quàng lệch quanh cổ, còn tay thì cầm một chai rượu sâm banh - tôi liền mở bản Sonata cung Xi giáng D.960 viết cho đàn piano của Schubert, được xuất bản sau khi ông qua đời. Đó là bản tình ca đẹp, âm vang mãi trong đầu, tôi ngập tràn cảm xúc và bật khóc. Tôi khóc vì trước đây đã bỏ qua những nét sầu thảm và mãnh liệt của bản nhạc mà tôi không biết và khóc vì vui sướng đã lại cảm nhận được nó. Cho tới tận bây giờ, mỗi lần nghe khúc nhạc này, tôi lại như chìm đi trong cảm giác buồn sâu lắng, đẹp đẽ tối hôm đó, trong tình yêu mà tôi có quyền được biết.

Một lần, sau vài ngày chúng tôi hoàn toàn không liên hệ gì với thế giới bên ngoài, anh mua về cho tôi một tuyển tập thơ về tình yêu. Anh đánh dấu một bài thơ rất ngắn, nhưng lại bắt được cái hồn, không chỉ của những ngày tuyệt vời, tràn đầy cảm xúc mạnh mẽ ấy, mà suốt cả năm đó:

Cảm ơn em vì dịp nghỉ cuối tuần say đắm.

 Họ nói với anh rằng trời đã đổ mưa.

TÌNH YÊU DÕI NHÌN BỆNH ĐIÊN

Tôi lo sợ phải rời nước Anh. Tâm thần của tôi đã ổn định trong một khoảng thời gian rất dài, trái tim tôi đã mang một sức sống mới và đầu óc tôi đã tỉnh táo, sau khi được tận hưởng cảm giác mới về Oxford và St. George nhờ dùng ít thuốc hơn. Tôi ngày càng khó hình dung ra việc phải từ bỏ nhịp sống đều đặn mà tôi đã tự tạo ra cho mình trong những ngày ở Luân Đôn. Tôi càng khó hình dung hơn việc phải mất đi những cảm xúc mạnh mẽ và sự thấu hiểu lẫn nhau mà tôi đã có trong những đêm ở Luân Đôn. Nước Anh là nơi đã chôn vùi hầu hết những nghi ngại thường trực trước kia của tôi về “chuyện gì sẽ xảy ra nếu.”, “vì sao” và “điều gì có thể đã xảy ra”. Đó cũng là nơi chôn vùi, theo một cách hoàn toàn khác, cuộc chiến chống Lithi của tôi, một cuộc chiến tuy chẳng có gì đáng kể, nhưng tôi lại đã từng thất bại khi cưỡng lại những suy nghĩ của chính mình. Tôi đã phải trả giá đắt cho điều đó bằng khoảng thời gian đã mất, và nay khi đã cảm nhận lại được chính mình, tôi không muốn mất thêm bất kỳ một khoảng thời gian nào nữa, vì cuộc đời này không đáng để bị mất đi.

Tuy nhiên, điều không thể tránh khỏi là một năm vẫn qua đi, Tuyết và các loại rượu mạnh làm ấm lòng người trong mùa đông nước Anh đã phải nhường chỗ cho những cơn mưa nhẹ và các loại rượu vang trắng đầu hè. Hoa hồng và ngựa đã bắt đầu xuất hiện trong công viên Hyde; hoa táo trong mờ và lộng lẫy đã nở rực trên cành trong công viên St. James; và ánh nắng mùa hè đã bắt đầu rực rỡ chỉ ít ngày trước hôm tôi phải ra đi. Thật khó khăn khi phải nhớ lại cuộc sống của tôi ở Los Angeles, nhất là việc phải trở về với những ngày bận rộn, điều hành bệnh viện của một trường đại học lớn với những bệnh nhân ốm yếu, lại phải dạy học và khám cho một hàng dài bệnh nhân ngồi chờ. Tôi bắt đầu nghi ngờ không biết mình có còn nhớ chi tiết các bước tiến hành nghiên cứu và kiểm tra tâm thần hay không, chứ đừng nói gì đến việc dạy người khác phải làm như thế nào. Tôi ngần ngại rơi nước Anh, lại càng ngần ngại trở về với thành phố nơi tôi đã không chỉ quen với sự nghiệp học thuật đầy vất vả, mà cả với những cơn suy sụp, kiệt sức, lạnh lẽo và tàn nhẫn sau mỗi trận điên, và cả với trò giả dối làm ra vẻ mình khoẻ mạnh trong khi tôi đang ốm và phải cố tìm cách tỏ ra hài lòng, trong khi tâm trạng của tôi thật khủng khiếp.

Tuy nhiên, linh tính ấy của tôi hoàn toàn sai. Một năm qua không chỉ là kỳ nghỉ giữa những tháng năm bận rộn, mà thực sự là khoảng thời gian giúp tôi hồi phục. Tôi lại thấy thích thú với công tác giảng dạy, lại tìm thấy niềm vui như hồi đầu khi giám sát công tác điều trị của các bác sỹ và thực tập sinh và việc khám cho bệnh nhân đã tạo cho tôi cơ hội đưa một số bài học mà tôi đã rút ra được từ kinh nghiệm của chính mình vào thực tiễn. Sự suy sụp về tinh thần đã gây ra những tổn thất lâu dài và khủng khiếp, nhưng thật kỳ lạ, chỉ đến khi tôi thấy mình khoẻ mạnh, năng động và phấn khởi trở lại, tôi mới thực sự cảm nhận được những thiệt hại ghê gớm ấy.

Công việc đã diễn ra khá trôi chảy. Tôi dành phần lớn thời gian để viết sách giáo khoa về bệnh hưng - trầm cảm, mà tôi là đồng tác giả. Tôi vui sướng trước việc này tôi đã có thể dễ dàng đọc, phân tích và nhớ những bài giảng y học, mà cho tới rất gần đây tôi vẫn còn phải vất vả lắm mới lĩnh hội được. Tôi hài lòng nhận thấy phần tôi viết trong cuốn sách giáo khoa là sự tập hợp của khoa học, thực tế điều trị trong bệnh viện và kinh nghiệm của cá nhân mình. Tôi e ngại rằng những kinh nghiệm này có thể ảnh hưởng quá mức tới những điều tôi viết - do nội dung hay do cách nhấn mạnh - nhưng đồng tác giả của cuốn sách đã hiểu rõ bệnh tình của tôi và nhiều bác sỹ và nhà khoa học khác cũng đã xem xét góp ý cho những điều chúng tôi viết. Dù vậy thỉnh thoảng tôi cũng tự thấy mình đã tô đậm một số khía cạnh mà tôi đã từng trải qua, để nhấn mạnh một số hiện tượng hay cách điều trị cụ thể trong bệnh viện. Nhiều chương tôi viết về tự tử, tuân thủ việc uống thuốc, tuổi thơ và thời thanh niên, liệu pháp tâm lý, hiện tượng trong bệnh viện, sự sáng tạo, tính cách cá nhân và sự giao tiếp, sự rối loạn suy nghĩ, nhận thức và sự hiểu biết - đã chứa đựng trong đó niềm tin mạnh mẽ của tôi rằng đây là những lĩnh vực thường bị xem nhẹ. Các chương khác - như về nghiên cứu bệnh học, lạm dụng rượu và ma túy, và đánh giá mức độ điên và trầm cảm - lại chủ yếu nhằm xem xét lại những tài liệu hiện hành về bệnh tâm thần.

Trong chương viết về hiện tượng trong bệnh viện - các đặc trưng cơ bản của bệnh điện và hưng cảm, trầm cảm và rối loạn, và tâm tính xoay chuyển đã làm nổi bật các hiện tượng trong bệnh viện--tôi đã không chỉ dựa vào các công trình nghiên cứu của các bác sỹ nổi tiếng, như Giáo sư Emil Kraepelin và nhiều nhà nghiên cứu khác đã từng có các công trình nghiên cứu sâu rộng về đề tài này, mà còn dựa vào cả những bài viết của chính các bệnh nhân hưng-trầm cảm. Rất nhiều bài viết này là của các nhà văn và nghệ sỹ, những người đã mô tả một cách chính xác và sống động về bệnh điện, trầm cảm và tâm trạng rối loạn của họ. Hầu hết phần còn lại là lời kể của các bệnh nhân của tôi hoặc những đoạn trích từ các tài liệu về bệnh tâm thần. Trong một vài trường hợp, tôi sử dụng cả những trích đoạn mà tôi đã viết về những trải nghiệm của chính mình để phục vụ cho công tác giảng dạy những năm trước đó. Vì thế, trong các chương về điều trị trong bệnh viện, xen giữa chu kỳ lặp lại của triệu chứng và những hiện tượng ở bệnh nhân, cùng những trích đoạn rút ra từ các tài liệu kinh điển của Châu Âu và Anh, là những đoạn thơ, tiểu thuyết và tự truyện do chính những người mắc chứng hưng - trầm cảm viết ra.

Rất nhiều lần, xuất phát từ kinh nghiệm của chính mình và thực tiễn ở bệnh viện, tôi đã nhấn rất mạnh tới nguy cơ chết người của bệnh hưng - trầm cảm, nỗi sợ chết người ở bệnh rối loạn thần kinh và tầm quan trọng của việc thuyết phục những bệnh nhân không chịu uống Lithi hoặc các loại thuốc theo đơn khác để kiểm soát tâm trạng của mình. Việc tách khỏi những cảm giác và quá khứ của chính mình để có thể viết sách một cách có tri thức và học thuật hơn đã buộc tôi phải hồi tưởng lại mọi chuyện và sắp xếp những rắc rối mà mình đã trải qua theo một trình tự có chủ đích hơn. Những công trình nghiên cứu trong lĩnh vực này thường không chỉ thú vị, mà còn mang lại niềm hy vọng thực tế về một phương pháp điều trị mới. Mặc dù thỉnh thoảng người ta vẫn rất khó chịu khi thấy những cảm xúc và hành vi phức tạp của bệnh tâm thần được diễn giải một cách ngớ ngẩn trong triệu chứng chẩn đoán, nhưng nói chung người ta cũng thường bắt gặp những phương pháp và phát hiện mới trong lĩnh vực điều trị đang phát triển nhanh này.

Thật kỳ lạ cuối cùng tôi lại yêu thích cách đánh giá và phân tích qua việc sử dụng nhiều tư liệu và bảng biểu. Quả là hơi buồn ngủ khi phải đưa hết con số này đến con số khác, hết tỷ lệ phần trăm này đến tỷ lệ phần trăm khác vào bảng tổng hợp tóm tắt; rồi phê phán những phương pháp đã được sử dụng trong các công trình nghiên cứu trước; để qua đó rút ra những nhận xét từ hàng lô cuốn sách và tài liệu đã nghiên cứu. Giống như khi tôi hoảng sợ hoặc khó xử hồi còn nhỏ, tôi phát hiện ra rằng việc đặt ra nhiều câu hỏi, tìm ra lời lý giải thích hợp nhất, rồi lại đặt thêm câu hỏi, là phương pháp tốt nhất để thoát khỏi những băn khoăn và không bị bó hẹp trong một khuôn khổ kiến thức nhất định.

Việc cắt giảm lượng Lithi đã không chỉ giúp tôi suy nghĩ rõ ràng hơn, mà nó còn làm cho những cảm giác sống động và mạnh mẽ trở lại với cuộc đời tôi. Đây là những nhân tố đã từng hình thành cốt cách tính khí bình thường của tôi và sự thiếu vắng chúng đã tạo ra khoảng cách khủng khiếp trong cách tôi phản ứng với thế giới bên ngoài. Sự cứng nhắc trong tâm trạng và tính khí của tôi, hậu quả của việc sử dụng Lithi liều cao, đã làm cho khả năng phản ứng với ức chế của tôi kém hơn so với khi dùng Lithi liều thấp. Giống như những bộ luật của California được soạn thảo để hạn chế thiệt hại của những trận động đất, việc sử dụng Lithi liều thấp đã cho phép trí tuệ và tâm thần của tôi được linh hoạt hơn. Dần dần, tôi bắt đầu nhìn ra xung quanh và phát hiện ra rằng đó chính là sự cân bằng và có thể dự báo được mà hầu hết mọi người đều có, như một điều hiển nhiên trong suốt cuộc đời họ.

Khi còn là sinh viên đại học tôi có trợ giáo cho một học sinh mù về môn thống kê. Nhờ con chỉ dẫn đường, mỗi tuần anh ta đến phòng làm việc nho nhỏ của tôi ở tầng hầm của toà nhà bệnh viện tâm thần một lần. Quá trình làm việc với anh ta đã tác động đến tôi rất nhiều. Tôi thấy anh ta rất vất vả mới có thể làm được những việc mà đối với tôi là rất hiển nhiên. Tôi cũng thấy mối quan hệ vô cùng chặt chẽ giữa anh ta với con chó giống coli, mà cứ mỗi lần đưa anh ta đến văn phòng của tôi là nó lại khoanh tròn nằm ngủ. Khi đã quen nhau, tôi hỏi anh ta thấy mù thế nào; là một sinh viên trẻ, bị mù trong trường Đại học California, thì tình hình ra sao; và cuộc sống của anh ta thế nào khi phải phụ thuộc vào người khác để học tập và tồn tại. Vài tháng sau khi tôi nghĩ rằng mình đã hiểu một chút gì đó, dù nhỏ, về cuộc đời anh ta, thì anh ta đề nghị tôi tới trợ giảng cho anh ta ở phòng đọc dành cho người mù trong thư viện của trường đại học, thay vì anh ta phải tới phòng làm việc của tôi.

Lần mò mãi tôi mới tìm ra phòng đọc ấy và bước vào. Tôi sững người và hoảng sợ khi thấy căn phòng gần như tối đen. Căn phòng lặng như tờ, không một ngọn đèn, trong khi năm sáu học sinh đang chúi đầu vào cuốn sách của họ hoặc đang chăm chú nghe bài giảng của các giáo sư mà họ ghi âm lại. Cảnh tượng ấy làm tỏi ớn lạnh xương sống. Nghe tiếng tôi tới, anh học sinh của tôi liền đứng dậy, bước tới chỗ công tắc điện và bật đèn cho tôi. Đó chính là một trong những khoảng khắc rõ ràng nhất để tôi nhận ra rằng chúng ta đã chẳng hiểu gì hết và không hề có một sự cảm thông thực sự nào với thế giới của người khác. Khi tôi ngày càng bước vào thế giới của cuộc sống ổn định và có thể dự báo được hơn, thì tôi cũng bắt đầu nhận thấy rằng tôi biết rất ít về nó, cũng như không hề có một ý niệm thực tế nào về cuộc sống trong thế giới ấy. Xét dưới nhiều khía cạnh, tôi là người lạ trong thế giới bình thường.

Đó là một suy nghĩ tỉnh táo ở khoảng giao thời. Tính khí của tôi vẫn thường thay đổi và chao đảo, đủ để làm cho tôi thỉnh thoảng có cảm giác đê mê, vượt ra ngoài suy nghĩ bình thường. Bệnh điên trắng này tạo ra cảm xúc mãnh liệt, sự hồ hởi cao độ, tạo ra niềm tin tuyệt đối và làm cho ý tưởng dễ dàng tuôn trào. Đó chính là lý do làm cho tôi khó chấp nhận việc uống Lithi trong một thời gian dài đến thế. Tuy nhiên, khi tình trạng suy sụp đến chắc chắn xảy ra sau đó, tôi lại nhận ra rằng tôi đang mắc một căn bệnh tồi tệ, mà có thể phá hủy mọi niềm vui, hy vọng và nghị lực. Tôi bắt đầu thèm muốn sự ổn định mà hầu hết các đồng nghiệp của tôi đều có. Tôi cũng bắt đầu biết cách tranh thủ thời gian trước khi đầu óc tôi trở nên bồng bềnh như đi trên mặt nước vậy. Quả thật là hầu hết khối lượng công việc của tôi được hoàn thành trong những ngày và những tuần hứng khởi, nhưng những dự án và ý tưởng mới nảy sinh trong giai đoạn này lại phải được hoàn thành trong thời kỳ trầm cảm sau đó. Tôi luôn phải đuổi theo cái đuôi của bộ óc của chính mình, thoát ra rồi lại rơi vào những tâm trạng và trải nghiệm mới. Tuy nhiên, những cảm giác mới này bắt đầu thiếu cả hình thức lẫn bản chất mới và nó chỉ còn là sự tích tụ đơn thuần những gì tôi đã từng biết, và không giúp tôi đi sâu tìm hiểu thêm những gì tôi đã từng trải nghiệm.

Tâm trạng cực điểm của tôi tuy khác xa so với trước kia, nhưng rõ ràng là sự không ổn định ở mức thấp, theo từng cơn, đã trở thành một phần của cuộc đời tôi. Sau nhiều năm, cuối cùng tôi cũng nhận ra rằng một sự ổn định nhất định về trí tuệ không chỉ là đáng mong muốn mà còn rất cần thiết nữa. Tuy nhiên, ở đâu đó trong trái tim mình, tôi vẫn tin rằng một tình yêu mãnh liệt và bền vững chỉ có thể có được trong cảm xúc mãnh liệt và hơi lộn xộn một chút. Có lẽ điều này đã làm cho tôi nghĩ rằng tôi phải sống cùng một người đàn ông có tính khí về cơ bản là giống mình. Tôi đã mất quá nhiều thời gian mới hiểu ra rằng sự lộn xộn và mãnh liệt không thay thế được cho tình yêu bền vững và nó cũng không cải thiện được cuộc sống thực tế. Những người bình thường không phải bao giờ cũng buồn tẻ. Trái lại, sự không ổn định và đê mê, tuy thường tạo ra cảm giác lãng mạn và cám dỗ hơn, nhưng về bản chất lại không có lợi cho việc cảm nhận và đánh giá ổn định về người khác (cho dù chúng không xung khắc nhau). Con người ta luôn có cảm giác trực quan về tình bạn và gia đình. Cảm giác đó sẽ ít mạch lạc hơn khi rơi vào trạng thái lãng mạn, vì nó phản ánh, phóng đại và chịu ảnh hưởng của tâm trạng và tính khí không ổn định của chính mình. Tôi sung sướng và cũng đau đớn không kém, khi nhận ra sự bền vững và phát triển của tình yêu, từ người chồng của tôi, người đã sống cùng tôi trong gần một thập kỷ.

Tôi gặp Richard Wyatt lần đầu tiên trong một bữa tiệc Giáng sinh ở Washington và chắc chắn là anh không giống một chút nào với mẫu người mà tôi hình dung. Tôi đã nghe nói về anh một nhà nghiên cứu nổi tiếng về bệnh tâm thần phân liệt, là Trưởng khoa Chức năng thần kinh của Viện Tâm thần quốc gia và là tác giả của hơn bảy trăm bài viết và cách khoa học nhưng tôi hoàn toàn không nghĩ rằng con người đẹp trai, khiêm tốn và lịch lãm một cách trầm lặng, đứng nói chuyện với tôi bên cây thông Giáng sinh cao lớn ấy, lại chính là anh. Anh không chỉ hấp dẫn, mà còn rất dễ nói chuyện. Những tháng sau đó, chúng tôi gặp nhau khá thường xuyên. Không đầy một năm sau khi chúng tôi gặp nhau, tôi trở lại Luân Đôn nghỉ sáu tháng theo tiêu chuẩn của UCLA. Đó là sáu tháng tuyệt vời. Sau đó tôi trở lại Los Angeles một thời gian để hoàn thành những công việc tồn đọng sau kỳ nghỉ phép và chuẩn bị kế hoạch chuyển về sống ở Washington. Mặc dù mọi chuyện giữa chúng tôi mới chỉ trải qua một thời gian ngắn, nhưng đó là mối quan hệ thú vị. Tôi thích được ở bên anh và phát hiện ra rằng anh không chỉ rất lịch lãm, mà còn giầu trí tưởng tượng, ham hiểu biết, cởi mở và rất dễ gần. Ngay từ khi đó, tức là mới chỉ ở giai đoạn rất sơ khai của mối quan hệ giữa chúng tôi, tôi đã thấy rằng tôi cần có anh trong cuộc đời. Tôi từ chức giáo sư thường xuyên ở trường y, tiếc nuối khi phải chia tay với Trường đại học California mà tôi yêu dấu và lo ngại tới tác động tài chính của việc từ bỏ nguồn thu nhập ổn định này. Sau đó là một chuỗi dài những bữa tiệc mà đồng nghiệp, bạn bè và sinh viên tổ chức chia tay tôi. Tuy nhiên, tựu trung lại, tôi rời Los Angeles mà không hối tiếc nhiều lắm. Đối với tôi, Los Angeles chưa bao giờ là “Thành phố của những thiên thần” và tôi vô cùng sung sướng khi được từ giã, trước hết là hàng trăm mét phía dưới - và sau đó là hàng nghìn dặm phía sau tôi - thành phố đầy ắp những ký ức suýt chết, sự trong trắng bị tan vỡ tâm hồn và trí tuệ thường xuyên bị phá vỡ. Cuộc sống ở California vẫn tốt và thậm chí rất tuyệt vời nữa, nhưng tôi đã không thể nhận ra được những điều tốt đẹp ấy vào thời điểm tôi trở lại Washington sinh sống. Vùng Đất hứa, với biết bao hy vọng, nhưng luôn lảng tránh và đầy phức tạp ấy đối với tôi vẫn chỉ là hứa hẹn.

Richard và tôi chuyển đến sống trong một ngôi nhà ở Georgetown và điều mà chúng tôi cùng cảm thấy đã nhanh chóng được bộc lộ. Đó là chúng tôi khác hẳn nhau: anh là người trầm tĩnh, trong khi tôi mạnh mẽ; tôi lúc nào cũng cuống lên với công việc, còn anh thì điềm tĩnh xử lý mọi chuyện; anh bình tĩnh, trong khi tôi rất dễ nổi nóng; và trong khi mọi chuyện của thế giới đến với anh một cách nhẹ nhàng, thậm chí như không, thì nó lại ào đến với tôi vừa thú vị, vừa đau khổ. Anh là một người ôn hoà trong hầu hết các trường hợp và gần như trong mọi lúc, trong khi tôi thường xem nhẹ mọi chuyện, hấp tấp trong cảm nhận và cũng thường phải vội vàng chìa tay ra với hy vọng hàn gắn những vết thương mà chúng tôi vừa gây ra cho nhau. Những buổi hoà nhạc và ca nhạc thính phòng mà tôi yêu thích lại là một sự tra tấn đối với anh. Tương tự như vậy, anh luôn khổ sở với những buổi nói chuyện dài và những dịp nghỉ dài quá ba ngày. Chúng tôi hoàn toàn không hợp nhau. Trong khi tôi thường xuyên hưng phấn hoặc rơi vào trạng thái suy sụp hoàn toàn, thì Richard, người luôn giữ được sự cân đối trong cảm xúc, lại cảm thấy khó có thể xử lý tâm trạng thường xuyên thay đổi của tôi - và tệ hại hơn nữa là anh không coi đó là vấn đề nghiêm trọng. Anh không biết phải làm gì với tôi. Nếu tôi hỏi anh đang nghĩ gì, thì đó chưa bao giờ là cái chết, là điều kiện sống, các mối quan hệ hay bản thân chúng tôi, mà thay vào đó là một vấn đề nào đó của khoa học và thường là về bệnh nhân. Anh theo đuổi khoa học và công tác điều trị với một lòng nhiệt tình giống hệt như sự lãng mạn mà tôi theo đuổi trong phần còn lại của cuộc đời mình.

Rõ ràng là anh không muốn nhìn một cách có ý nghĩa vào mắt tôi trong những bữa ăn tối kéo dài với rượu vang ngon và cũng không muốn thảo luận về văn học hay âm nhạc bên những tách cà phê và rượu poóctô trước giờ đi ngủ. Thực tế là anh không thể để lãng phí thời gian quá nhiều. Anh rất tập trung khi suy nghĩ, không uống nhiều rượu, không bao giờ đụng đến cà phê và không quan tâm lắm tới những rắc rối trong các mối quan hệ hay những hàm ý của nghệ thuật. Anh không chịu được thơ và rất ngạc nhiên trước việc tôi dành quá nhiều thời gian để đi lang thang, mà thường là không có mục đích, tới vườn thú, tới các phòng tranh, đi chơi cùng con chó của tôi - một con chó duyên dáng, rất độc lập, hơi nhút nhát, thuộc dòng chó săn nhỏ, mang tên Bí ngô- hay gặp gỡ bạn bè để cùng ăn sáng và ăn trưa. Dù vậy, trong nhiều năm chung sống với nhau, tôi chưa một lần nào nghi ngờ tình yêu mà Richard dành cho tôi, cũng như tình yêu của tôi đối với anh. Giống như cuộc sống, tình yêu kỳ lạ và phức tạp hơn nhiều so với những gì người ta được dạy dỗ khi lớn lên. Mối quan tâm chung của chúng tôi về tri thức - y học, khoa học và tâm lý - là rất mạnh, trong khi sự khác biệt giữa chúng tôi, cả về bản chất lẫn phong cách, lại tạo ra cho chúng tôi sự độc lập rất cao, điều vô cùng cần thiết cho cuộc sống, và chính nó cuối cùng đã gắn kết chúng tôi lại với nhau trong nhiều năm. Cuộc sống của tôi với Richard đã trở thành một bến đỗ an toàn, một bến cảng vô cùng thú vị, đầy tình yêu và sự ấm cúng và luôn mở cửa với đại dương. Tuy nhiên, giống như mọi bến cảng luôn tìm cách duy trì sự hấp dẫn và an toàn khác, nó vẫn chỉ là một điểm đến trong hành trình đi biển.

Khi lần đầu tiên tôi nói với Richard về bệnh hưng-trầm cảm của tôi, không lâu sau khi chúng tôi gặp nhau, anh đã thực sự sửng sốt. Khi đó, chúng tôi đang ngồi bên nhau trong phòng ăn lớn của khách sạn Del Coronado ở San Diego. Anh từ từ đặt chiếc bánh mì kẹp thịt đang ăn xuống, nhìn thẳng vào mắt tôi, không chớp, và nói cộc lốc: “Điều đó giải thích nhiều chuyện”. Anh là người rất tốt bụng. Giống như những gì David Laurie đã làm, anh hỏi tôi rất nhiều về căn bệnh mà tôi đang mắc và tác động của nó tới cuộc sống của tôi. Có lẽ vì cả hai người đều là bác sỹ điều trị nên anh cũng hỏi tôi hết câu hỏi này đến câu hỏi khác, mang nặng tính y học: như triệu chứng mỗi khi tôi bị điên là gì, tôi đã từng bị suy sụp tới mức nào, đã bao giờ tôi định tự tử chưa, tôi đã từng uống những loại thuốc nào trong quá khứ và hiện nay tôi đang uống thuốc gì, và tôi có bị các tác dụng phụ không. Giống như thường ngày, anh không quá xúc động. Cho dù điều đó có làm anh quan tâm đến đâu chăng nữa, anh vẫn tốt bụng và đủ thông minh để giữ kín nó ở trong lòng.

Tuy nhiên, tôi biết rõ rằng sự cảm thông kiểu này không phải bao giờ cũng biến thành sự thấu hiểu trong cuộc sống hàng ngày. Về cơ bản tôi rất nghi ngờ khả năng có ai đó không mắc căn bệnh này lại thực sự thấu hiểu được nó. Và cuối cùng có lẽ sẽ là vô lý nếu hy vọng người khác phải chấp nhận căn bệnh này ở một mức độ nào đó, điều mà người bệnh luôn hằng khao khát. Căn bệnh này không thể trông cậy vào sự cảm thông dễ dãi. Một khi tâm trạng hưng phấn biến thành giận dữ, bạo lực hay rối loạn tâm thần, thì giống như mọi người khác, Richard cũng khó có thể coi đó là một căn bệnh, mà thay vào đó anh có thể nhìn nhận nó như là một sự bướng bỉnh, giận giữ, vô lý hay đơn giản chỉ là một sự khó chịu. Những gì tôi phải trải qua, vượt ra ngoài khả năng kiểm soát của mình, thì dường như anh cho rằng đó là hành vi có tính toán và cố tình gây hoảng sợ. Vào những thời khắc đó, tôi không thể nói cho anh hiểu sự tuyệt vọng và nỗi đau của mình. Sau đó, việc hàn gắn lại quan hệ, sau những hành động phá phách và những lời nói khủng khiếp, còn khó khăn hơn nhiều. Bệnh điên khủng khiếp này, cùng với sự kích động dữ tợn và man rợ của nó, rõ ràng là rất khó để Richard có thể hiểu được và cũng rất khó để tôi có thể giải thích.

Không tình yêu nào có thể chữa được bệnh điên hay giải tỏa được tâm trạng tồi tệ của người điên. Tình yêu có thể hỗ trợ, nhưng chỉ có thuốc mới làm dịu cơn điên. Mặt khác, trong hầu hết các trường hợp, bệnh liên lại thường giết chết tình yêu do không tin nhau, bi quan, bất bình, do những hành vi bất thường và đặc biệt là do tính khí hoang dại của người bệnh. Thời kỳ trầm cảm, buồn rầu hơn, ngủ nhiều hơn, chậm chạp hơn và ít bạo lực hơn diễn ra sau đó lại thường dễ được người khác cảm thông hơn. Thời kỳ u sầu tĩnh lặng vừa không đe dọa ai, vừa không vượt quá giới hạn có thể chấp nhận được, trong khi sự tức giận, bạo lực và gây phiền phức lại vừa đe dọa người khác, vừa vượt ra ngoài giới hạn thông thường. Tuy nhiên những trải nghiệm và tình yêu, theo thời gian, đã dạy cho cả hai chúng tôi biết cách đối phó với bệnh hưng - trầm cảm. Thỉnh thoảng, tôi vẫn cười và nói với anh rằng sự điềm tĩnh của anh có giá trị ngang với 300 miligram Lithi mỗi ngày đối với tôi và điều.đó dường như đúng.

Đôi khi giữa cơn điên loạn phá phách khủng khiếp, tôi cảm thấy sự điềm tĩnh của Richard ở bên và tôi nhớ tới nhận xét tuyệt vời của Byron về cầu vồng bên thác nước. Nó giống “Như hy vọng bên giường người chết”, cho dù “Tất cả như bị xé tan; Trong thác nước điên cuồng”, cầu vồng vẫn thản nhiên hiển hiện:

Tựa như giữa cảnh hoang tàn,

Tình yêu bình thản dõi nhìn bệnh điên.

Tuy nhiên, cho dù tình yêu không chữa trị được bệnh điện, nó vẫn là một liều thuốc cực mạnh. Giống như John Donne đã từng viết, tuy nó không được chiết xuất tinh khiết như mọi người từng nghĩ hay mong ước nhưng tình yêu vẫn tồn tại và phát triển.

 

PHẦN IV

TÂM HỒN KHÔNG TĨNH LẶNG

Nói về điên

Không lâu trước khi tôi rời Los Angeles đi Washington, tôi nhận được một lá thư lăng mạ và khó chịu nhất mà người ta đã từng viết cho tôi. Đó không phải là lá thư của đồng nghiệp hay bệnh nhân, mà của một phụ nữ, người này sau khi xem thông báo về một buổi nói chuyện của tôi, đã cảm thấy bị xúc phạm vì tôi đã dùng từ “điên” trong tiêu đề bài giảng của mình. Bà ta viết rằng tôi vô cảm, đần độn và rõ ràng là không hiểu biết một chút gì về nỗi thống khổ mà người ta phải chịu đựng khi mắc một căn bệnh tệ hại như bệnh hưng-trầm cảm. Bà viết rằng tôi cũng chỉ là một bác sỹ nữa đang leo lên nấc thang học vị bằng cách giẫm lên xác những người mắc bệnh tâm thần. Tôi bị sốc trước những lời lẽ dữ tợn của bức thư, rất bực mình, nhưng cuối cùng lại suy nghĩ rất lâu và rất nghiêm túc về từ điên.

Ngôn từ được sử dụng để miêu tả và nói về bệnh thần kinh hàm chứa rất nhiều thứ khác nhau - sự sinh động, sáo rỗng, độ chính xác về y học và triệu chứng bệnh tất cả được pha trộn với nhau, làm cho nó trở nên rối rắm, gây hiểu nhầm và dần dần bị mất đi ý nghĩa truyền thống của ngôn từ ấy. Vị trí của những từ như “điên”, - “dở người”, “khùng”, “gàn” và “bệnh tâm thần” nay không còn rõ ràng trong xã hội đang ngày càng nhạy cảm với cảm xúc và quyền lợi của những người mắc bệnh tâm thần nữa. Vậy có nên để những từ và cụm từ có ý nghĩa và thường là dí dỏm như “Đón tàu nhanh đến Thành phố Sóc”, “Chỉ thiếu vài quả táo cho buổi cắm trại”, “Ngắn tường”, “Quanh chỗ cong” hay “Mất bong bóng” (từ lóng của lính tàu ngầm Anh chỉ bệnh điên) thay cho những ngôn từ nhất thời được coi là “đúng” hay “có thể chấp nhận được”?

Một trong những người bạn của tôi, phải vào bệnh viện tâm thần vì một trận điên nặng, đã buộc phải tham gia một chương trình trị liệu theo nhóm trước khi xuất viện. Chương trình này nhằm nâng cao ý thức, khuyến khích những người sắp trở thành cựu bệnh nhân không sử dụng hoặc không cho phép sử dụng trước mặt họ những từ như “sốc”, “bánh trái cây”, “điên rồ”, “chập mạch”, “gàn” hay “cuồng”. Người ta cho rằng việc sử dụng những từ này có thể “kéo dài tình trạng thiếu tự trọng và tự bôi xấu mình”.

Người bạn của tôi cho rằng chương trình này là kẻ cả và lố bịch. Nhưng có đúng thế không? Một mặt, đó là lời khuyên dáng hoan nghênh và mang tính chuyên môn cao, cho dù nó hơi nghiêm khắc quá. Nỗi đau khi nghe những từ này, trong một khung cảnh hay với một giọng điệu không thích hợp, là rất đáng kể và nó cũng có thể kéo dài ký ức về sự vô tình và định kiến. Không còn nghi ngờ gì nữa, việc cho phép sử dụng vô tội vạ những ngôn từ như vậy sẽ không chỉ gây ra nỗi đau cho người khác, mà còn trực tiếp hay gián tiếp tạo ra sự phân biệt đối xử trong công việc, bảo hiểm và xã hội nói chung.

Mặt khác, nếu cho rằng việc từ bỏ một cách cứng nhắc những từ và cụm từ đã tồn tại qua nhiều thế kỷ sẽ tác động mạnh tới thái độ của công chúng, thì cũng chưa có gì là chắc chắn. Đó là sự ảo tưởng về một câu trả lời đơn giản cho một vấn đề vô cùng phức tạp và phớt lờ vai trò vô cùng to lớn của sự hóm hỉnh và mỉa mai trong việc góp phần làm thay đổi xã hội và tính vị kỷ của con người. Rõ ràng là cần phải có những ngôn từ tự do, phong phú, hóm hỉnh và trực tiếp nói về tình trạng tâm thần và cách hành xử không bình thường. Tương tự như vậy, rõ ràng là cũng rất cần có sự thay đổi quan điểm của xã hội về bệnh tâm thần. Vấn đề là trong khung cảnh nào và nhấn mạnh đến mức nào. Ví dụ khoa học đòi hỏi phải sử dụng những ngôn từ rất chính xác. Trong khi đó, sự e ngại và hiểu nhầm của công chúng, nhu cầu của khoa học, sự ngớ ngẩn của việc đại chúng hoá môn tâm lý học và mục tiêu bảo vệ sức khoẻ thần kinh lại luôn được pha trộn với nhau trong một sự rối rắm đầy xung khắc.

Một trong những ví dụ rõ nhất là việc sử dụng nhầm lẫn từ “rối loạn lưỡng cực”. thuật ngữ được xác định trong Sách hướng dẫn chẩn đoán và thống kê (DSM-IV), một cuốn sách có uy tín về chẩn đoán do Hiệp hội Tâm thần Mỹ xuất bản thay cho từ “bệnh hưng - trầm cảm” truyền thống. Mặc dù tôi luôn nghĩ rằng mình mắc chứng “hưng trầm cảm”, nhưng chẩn đoán DSM-IV chính thức của tôi lại viết rằng tôi “bị rối loạn lưỡng cực I; định kỳ tái phát, có những đặc tính tâm thần nặng; hồi phục hoàn toàn giữa các kỳ bị bệnh” (Một trong nhiều tiêu chí chẩn đoán của DSM-IV mà tôi đã “mắc” và yêu thích, là “tham gia quá hăng hái vào những hoạt động ưa thích”). Là một bác sỹ điều trị và một nhà nghiên cứu, tôi hoàn toàn tin tưởng rằng để bảo đảm tính chính xác và độ tin cậy, các công trình nghiên cứu khoa học và điều trị cần phải sử dụng những ngôn từ chính xác và phải dựa trên những tiêu chí chẩn đoán rõ ràng, vốn là nền tảng của DSM-IV. Không một bệnh nhân nào hay gia đình họ được chữa bệnh chu đáo chỉ bằng những ngôn từ thanh nhã và diễn cảm, nếu như đó là những ngôn từ không chính xác và mang nặng ý kiến chủ quan. Tuy nhiên, với tư cách một con người và một bệnh nhân, tôi thấy từ “lưỡng cực” là khá lạ lẫm và khó chịu. Tôi cho rằng từ này là không rõ nghĩa và phản ánh không chính xác thực trạng căn bệnh của tôi. Trong khi đó, thuật ngữ “bệnh hưng - trầm cảm” dường như lại thâu tóm được cả bản chất và mức độ nghiêm trọng của căn bệnh mà tôi đang mắc phải và không che đậy thực trạng của căn bệnh này.

Hầu hết các bác sỹ điều trị và nhiều bệnh nhân cảm thấy rằng từ “rối loạn lưỡng cực” có vẻ ít bêu xấu bệnh nhân hơn là cụm từ “bệnh hưng-trầm cảm”. Có thể đúng, nhưng cũng có thể không đúng. Tất nhiên những bệnh nhân mắc phải chứng bệnh này cần được quyền lựa chọn thuật ngữ nào mà họ cảm thấy dễ chịu nhất. Tuy nhiên, có hai câu hỏi được đặt ra ở đây: Liệu thuật ngữ “lưỡng cực” có chính xác về mặt y học không và liệu việc thay đổi tên gọi có làm tăng sự thừa nhận của xã hội đối với căn bệnh này hay không? Trả lời cho vấn đề thứ nhất, liên quan tới sự chính xác: Thuật ngữ “lưỡng cực” là chính xác khi chỉ một người vừa mắc bệnh điên (hay dạng nhẹ của bệnh điện) vừa mắc chứng trầm cảm, để phân biệt với những người chỉ mắc bệnh trầm cảm. Tuy nhiên, việc phân loại bệnh rối loạn tâm thần thành lưỡng cực và đơn cực, với hàm ý phân biệt giữa bệnh trầm cảm và hưng trầm cảm - xét cả về mặt điều trị lẫn nguyên nhân bệnh học - thì lại không phải lúc nào cũng rõ ràng và không được hậu thuẫn về mặt khoa học. Tương tự như vậy, nó làm cho người ta hiểu rằng trầm cảm tách hẳn ra ở một cực riêng và điện tồn tại độc lập ở một cực khác. Cách phân cực hại tình trạng bệnh lý này đi ngược lại với tất cả những gì chúng ta đã biết về bản chất dao động của bệnh hưng - trầm cảm; nó bỏ qua một câu hỏi vẫn được đặt ra là phải chăng bệnh điên, xét đến cùng, chỉ là một hình thức cực điểm của bệnh trầm cảm; và nó cũng làm lu mờ tầm quan trọng của hiện tượng pha trộn giữa điên - và - trầm cảm, điều thường xảy ra và có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong điều trị, đồng thời cũng là cốt lõi của nhiều vấn đề lý luận quan trọng liên quan tới căn bệnh này.

Tuy nhiên, một câu hỏi khác cũng được đặt ra là phải chăng cách phân biệt lại bệnh thần kinh chỉ đơn thuần được bắt nguồn từ sự thay đổi của ngôn ngữ, hay do đòi hỏi của dư luận; hay xuất phát từ các biện pháp điều trị thành công, như sử dụng Lithi, thuốc chống co giật, thuốc chống suy nhược và thuốc chống loạn thần kinh; hay được bắt nguồn không chỉ từ các biện pháp điều trị thành công, mà trong chừng mực nào đó còn phản ánh cả quan điểm của dư luận và báo chí (ví dụ như tác động của Prozac tới quan điểm và sự hiểu biết của công chúng về bệnh trầm cảm chẳng hạn); hay xuất phát từ việc phát hiện ra những nguyên nhân về gien hay sinh học của bệnh thần kinh; hay bắt nguồn từ những tiến bộ của kỹ thuật chụp ảnh não, như PET hay MIR, giúp chúng ta xác định được vị trí và sự tồn tại cụ thể của bệnh này bằng hình ảnh; hay xuất phát từ những tiến bộ của kỹ thuật thử máu mà cuối cùng đã làm tăng độ tin cậy về mặt y học đối với việc chẩn đoán và điều trị những căn bệnh tâm lý; hay bắt nguồn từ các bộ luật, ví dụ như Luật đối xử với người tàn tật; và từ kết quả của các chương trình cải cách y tế. Thái độ của công chúng đối với các bệnh thần kinh đang thay đổi, cho dù lãnh đạm, và những thay đổi đó bắt nguồn từ sự kết hợp của các nhân tố - điều trị thành công, tư vấn và luật pháp.

Các tổ chức tư vấn bảo vệ sức khoẻ thần kinh chủ yếu bao gồm các bệnh nhân, các thành viên trong gia đình họ và các chuyên gia về sức khoẻ thần kinh. Họ có tác động một cách hiệu quả tới việc hướng dẫn dư luận, báo chí, các chính quyền bang và chính phủ trung ương. Mặc dù hình thức hoạt động và mục tiêu khác nhau, nhưng các tổ chức này đã hỗ trợ trực tiếp cho hàng chục nghìn bệnh nhân và gia đình họ; nâng cao cấp độ chăm sóc y tế trong cộng đồng, thông qua việc đòi các nhà tâm lý và tâm thần học phải kiên trì điều trị và tôn trọng bệnh nhân, nếu không sẽ bị tẩy chay; và vận động các nghị sỹ quốc hội (mà nhiều người trong số họ đã từng mắc bệnh rối loạn tâm thần hoặc có các thành viên trong gia đình họ mắc bệnh tâm thần) tăng ngân sách cho các chương trình nghiên cứu, đòi quyền bình đẳng cho những người mắc bệnh tâm thần và thông qua các đạo luật cấm phân biệt đối xử về việc làm và bảo hiểm đối với những người mắc bệnh tâm thần. Các tổ chức này cùng với các nhà khoa học và các bác sỹ điều trị - đã làm cho cuộc sống của tất cả những người mắc bệnh tâm thần chúng ta trở nên dễ chịu hơn, cho dù chúng ta tự gọi mình là điện, hay viết thư phản đối những người gọi căn bệnh này là điên. Nhờ có họ mà nay chúng ta đã có thể thảo luận một cách thoải mái về những điểm hay của ngôn từ liên quan đến tình trạng của chính chúng ta và của con người.

Đường xoắn rắc rối

Ngồi trên chiếc ghế, mà có thể dễ dàng chuồn ra cửa sau của phòng họp, Jim Watson vặn vẹo chân tay, nhìn chằm chú, soi mói, rồi lại liếc nhìn đi nơi khác và ngáp dài. Những ngón tay của ông đan kết vào nhau đặt trên đầu liên tục gõ nhịp. Sự chú ý của ông thường xuyên thay đổi, từ những dữ liệu đang được trình bày trên hội trường, đến tờ Thời báo New York trên tay, hay thả mình theo những suy nghĩ viển vông của chính mình. Jim không biết giả vờ chú ý, nếu như ông thấy chán, nhưng cũng khó có thể biết Jim có thực sự quan tâm tới vấn đề khoa học đang được trình bày - gien và sinh học phân tử của bệnh hưng - trầm cảm - hay đang nghĩ tới các vấn đề chính trị, những chuyện tầm phào, tình yêu, các nhà tài trợ tiềm tàng cho Phòng thí nghiệm Cold Spring Harbor, tới kiến trúc, quần vợt, hay bất cứ thứ gì mà ông đang quan tâm vào thời điểm ấy. Jim là một người mạnh mẽ và rất thẳng thắn. Đối với tôi, ông là một người tuyệt vời và hấp dẫn. Jim là một người rất độc lập và trong thế giới đang ngày càng nhạt nhẽo này ông thực sự là một chú ngựa vằn trong đàn ngựa. Người ta có thể lập luận rằng một khi đã giành giải thưởng Nobel nhờ những đóng góp vào việc phát hiện ra cấu trúc của cuộc sống, thì tính độc lập và độc đáo của ông cũng là dễ hiểu, nhưng rõ ràng là chính những phẩm chất - mạnh mẽ, cạnh tranh, giàu trí tưởng tượng và không chấp nhận thần tượng--đã thúc đẩy ông theo đuổi việc nghiên cứu cấu trúc của DNA.

Jim là con người đầy sinh lực. Những bước đi của ông, cả về tri thức lẫn thực tế, là không dễ gì theo kịp, và việc cố gắng theo ông, trong các cuộc thảo luận bên bàn ăn, hay khi đi bách bộ trong sân của Phòng thí nghiệm Cold Spring Harbor đều rất khó khăn. Vợ ông vẫn nói rằng bà có thể biết Jim ở nhà hay không chỉ đơn thuần bằng mức độ năng lượng mà bà cảm nhận được trong không khí. Bất kể ông là một con người như thế nào, thì trước hết và trên hết, ông là một nhà lãnh đạo khoa học. Cho tới rất gần đây ông vẫn là giám đốc của một trong những phòng thí nghiệm sinh học phân tử hàng đầu thế giới, Phòng thí nghiệm Cold Spring Harbor và là giám đốc đầu tiên của Trung tâm quốc gia về nghiên cứu gien người. Vài năm qua, ông chuyển sang quan tâm nghiên cứu vai trò của gien trong bệnh hưng - trầm cảm.

Do sự hiểu biết của khoa học về bệnh hưng-trầm cảm phụ thuộc rất nhiều vào sinh học phân tử, nên tôi đã dành ngày càng nhiều thời gian cho lĩnh vực này. Đó là một thế giới kỳ lạ, phát triển xung quanh sự kết hợp không bình thường của các loại thực vật và động vật - ngô, ruồi giấm, men bia, chuột, người và cá - và chứa đựng những điều kỳ lạ, tiến hoá rất nhanh và thỉnh thoảng lại làm nảy sinh những thuật ngữ mới, nghe như ngôn ngữ thơ ca vậy, như “sinh sản vô tính”, “biến đổi gien”, “ba đường xoắn ốc”, “DNA cởi trói”, “chất thử kamikaze”, “nhiễm sắc thể lang thang”, “kẻ săn tìm gien” và “bản đồ gien”. Rõ ràng đây là lĩnh vực nghiên cứu nền tảng cơ bản nhất của kiến thức và tìm hiểu sự tương thích về mặt sinh học giữa vi lượng và hạt cơ bản.

Hội nghị mà Watson nhìn chăm chú, vặn vẹo chân tay và ngáp dài là hội nghị chuyên đề về cơ sở gian của bệnh hưng-trầm cảm. Hội nghị tập trung các nhà tâm lý học, các nhà nghiên cứu gian và các nhà sinh học phân tử, những người đang tham gia một cách tích cực, bằng cách này hay cách khác, vào việc nghiên cứu vai trò của gien trong bệnh hưng-trầm cảm. Hội nghị là dịp để các nhà nghiên cứu chia sẻ thông tin với nhau về phương pháp nghiên cứu, về những phát hiện của họ và về huyết thống gian của các dòng họ có người mắc bệnh. Phả hệ từ đời này đến đời khác được chiếu lên màn ảnh; có những dòng họ chỉ có rất ít thành viên mắc bệnh, trong khi có những dòng họ có rất nhiều hình vuông và hình tròn bị bôi đen hoàn toàn, ám chỉ những người đàn ông, hay đàn bà trong họ tộc đó bị mắc bệnh hưng-trầm cảm. Những hình tròn hay hình vuông bội đen một nửa chỉ những người mắc bệnh trầm cảm và những chữ “s”, dấu nhân hay dấu gạch chéo chỉ những người đã từng có ý định tự tử. Mỗi hình đen hoặc đen một nửa chỉ một người đã từng có những giai đoạn điện năng. Những gia tộc có nhiều hình vuông hay hình tròn đen hoàn toàn lại chính là những dòng họ cho nhiều thông tin hữu ích về gien hơn. Nhìn quanh hội trường, tôi có cảm giác rằng trong các nhà khoa học này, và đâu đó trong các dòng họ này, người ta sẽ tìm ra vị trí của gien hay những gien gây bệnh hưng - trầm cảm. Đó sẽ là điều tuyệt vời, bởi vì một khi những gian này được xác định, thì sau đó sẽ là khả năng chẩn đoán sớm và chính xác hơn nhiều và cuối cùng là các biện pháp điều trị cụ thể hơn, an toàn hơn và ít gây tác dụng phụ hơn nhiều.

Phần chiếu phim đèn chiếu kết thúc, màn ảnh được kéo lên và tôi nhìn ra ngoài, phía sau Jim Watson. Xa xa những cây táo làm cho tôi nhớ lại chuyến đi xuôi dòng Mississippi nhiều năm về trước. Mogens Schou, nhà tâm lý Đan Mạch, người đi đầu trong nỗ lực quảng bá Lithi như một biện pháp điều trị bệnh hưng - trầm cảm, đã cùng tôi quyết định bỏ một ngày họp của hội nghị hàng năm của Hiệp hội Tâm thần Mỹ để tranh thủ tham quan, nhân dịp tới New Orleans. Chúng tôi cho rằng cách tốt nhất là bơi thuyền xuôi dòng sông Mississippi. Đó là một ngày tuyệt vời và sau khi thảo luận với nhau về nhiều đề tài khác nhau, Mogens quay sang hỏi thẳng tôi: “Tại sao cô lại thực sự quan tâm tới việc nghiên cứu bệnh rối loạn tâm thần?”. Chắc khi đó tôi đã sững người và lúng túng, như tôi cảm thấy thế, nên ông đã thay đổi chiến thuật và nói: “Tại sao tôi lại không nói cho cô biết lý do tôi nghiên cứu bệnh rối loạn tâm thần nhỉ?”. Thế là ông kể cho tôi nghe về bệnh trầm cảm và bệnh hưng-trầm cảm trong gia đình ông, về những tổn thất mà nó gây ra và chính vì điều đó mà nhiều năm trước ông đã miệt mài tìm kiếm các loại thuốc và phương pháp mới điều trị bệnh tâm thần. Khi bài báo của John Cade về sử dụng Lithi để điều trị bệnh điện năng xuất hiện lần đầu tiên trên một tạp chí y học tin cậy của Ôxtrâylia năm 1949, Mogens đã chộp lấy ý tưởng đó và ngay lập tức bắt tay vào quá trình thử nghiệm nghiêm túc về mặt y học để khẳng định hiệu quả và độ an toàn của loại thuốc này. Ông kể một cách khá thoải mái về lịch sử mắc bệnh thần kinh trong gia đình mình và nhấn mạnh rằng đó chính là động cơ cá nhân mạnh mẽ thúc đẩy tất cả các công trình nghiên cứu của ông. Ông ám chỉ một cách rõ ràng rằng ông nghi mối liên hệ của tôi với bệnh hưng - trầm cảm cũng là vì động cơ cá nhân tương tự.

Tôi có cảm giác như bị mắc bẫy, nhưng cũng thấy nhẹ người. Tôi quyết định thành thật kể cho ông nghe về bản thân và gia đình. Sau đó, cả hai chúng tôi cùng vẽ phả hệ lên giấy ăn. Tôi ngạc nhiên khi thấy trong phả hệ của mình có quá nhiều hình vuông và hình tròn được bôi đen, hoặc được bôi đen cùng với một dấu hỏi ở dưới (ví dụ tôi biết em trai của ông nội tôi đã phải sống gần như toàn bộ quãng đời trưởng thành của mình trong nhà thương điên, nhưng không biết chính xác ông được chẩn đoán mắc bệnh gì). Bệnh hưng - trầm cảm đã thường xuyên lặp lại trong ba thế hệ mà tôi biết trong gia đình bố tôi. Những dấu hoa thị, ám chỉ người đã từng có ý định tự tử, dầy đặc như bầu trời sao. Trong khi đó, phả hệ bên mẹ tôi lại sạch bong. Có lẽ là không tiện lắm khi so sánh sự khác biệt về bản chất con người giữa bố và mẹ tôi, nhưng đây là một ví dụ rất cụ thể về sự khác biệt giữa họ, và được thể hiện rất rõ ràng bằng sự tương phản giữa màu trắng và đen. Mogens, sau khi phác họa xong phả hệ của mình, liếc nhìn số thành viên bị mắc bệnh trong gia đình tôi, đã cười lớn và thừa nhận bị thua trong “trận chiến của những chiếc hộp đen”. Ông để ý thấy rằng vòng tròn ám chỉ tôi được bôi đen toàn bộ và có một dấu hoa thị cạnh đó - thật tuyệt vời khi có thể biểu thị mưu toan tự tử của một người chỉ bằng một dấu hiệu đơn giản! Sau đó, chúng tôi nói chuyện với nhau rất lâu về bệnh tình của tôi, về Lithi và những tác dụng phụ của nó và về ý định tự tử của tôi.

Buổi nói chuyện với Mogens vô cùng hữu ích, . một phần vì ông đã rất khuyến khích tôi đưa những trải nghiệm của chính mình vào các công trình nghiên cứu, vào các bài viết và giảng dạy, và một phần vì tôi được nói chuyện với một giáo sự cao cấp, người không chỉ thấu hiểu những gì tôi đã trải qua, mà còn là người đã từng sử dụng những kinh nghiệm của chính mình để tạo ra sự khác biệt to lớn cho cuộc sống của hàng trăm nghìn người, trong đó có chính bản thân tôi. Bất kể cuộc chiến của tôi với Lithi ra sao, điều vô cùng rõ ràng đối với tôi là nếu không có nó, tôi có thể đã chết từ lâu, hoặc đang bị nhốt trong khoa tâm thần của bệnh viện bang. Tôi là một trong nhiều người mà cả cuộc đời mình chịu ơn những hình vuông và hình tròn màu đen trong cây phả hệ của Schou.

Do hưng - trầm cảm là một căn bệnh do gien gây ra, nên không có gì đáng ngạc nhiên khi nó tạo ra những trạng thái tâm lý vô cùng phức tạp và thường là khó tính. Một trong những cực điểm của căn bệnh là nó làm cho người ta có cảm giác vô cùng xấu hổ và tội lỗi. Nhiều năm trước đây khi sống ở Los Angeles, tôi đã tới văn phòng của một bác sĩ khám bệnh, theo lời khuyên của một đồng nghiệp. Sau khi khám cho tôi và phát hiện ra rằng tôi đã sử dụng Lithi trong nhiều năm, ông liền hỏi một loạt câu hỏi về lịch sử bệnh thần kinh của tôi. Ông cũng hỏi tôi có ý định có con không. Cho tới thời điểm ấy, nói chung là tôi luôn được các bác sỹ điều trị bằng cả trí thông minh lẫn sự cảm thông, nên không có lý do gì để tôi không nói thẳng lịch sử bệnh điện và trầm cảm kéo dài của mình. Tuy nhiên, tôi cũng nói rõ rằng tôi là người “có phản ứng tốt với Lithi” và tôi rất muốn có con. Ngay lập tức, ông ta hỏi lại tôi rằng tôi sẽ xử lý thế nào về việc uống Lithi trong thời kỳ mang thai. Tôi nói với ông ta rằng tôi thấy rất rõ việc không uống Lithi sẽ nguy hiểm tới căn bệnh của tôi hơn nhiều so với những tác dụng mà nó có thể gây ra cho sự phát triển của bào thai, nên tôi sẽ tiếp tục uống Lithi. Tuy nhiên, khi tôi chưa nói hết câu, ông ta đã xen vào và hỏi tôi có biết hưng - trầm cảm là một căn bệnh do gien gây ra hay không. Máu như bốc lên đầu và tôi cảm thấy cần phải nói cho ông ta biết rằng tôi đã dành gần như toàn bộ cuộc đời sự nghiệp của mình vào nghiên cứu chứng hưng - trầm cảm và theo bất cứ tiêu chuẩn nào tôi cũng không phải là kẻ ngu xuẩn. Tôi nói: “Tất nhiên là tôi biết”. Đúng lúc đó, bằng một giọng lạnh băng và hống hách mà tôi chưa từng nghe thấy cho tới tận ngày nay, ông ta tuyên bố: “Cô không nên có con. Cô đã bị mắc chứng hưng - trầm cảm”.

Tôi cảm thấy buồn nôn, rất chướng tai và vô cùng xấu hổ. Với quyết tâm kháng cự lại việc bị đẩy vào tình huống buộc con người ta phải có những phản ứng vô lý, tôi hỏi phải chăng mối quan tâm của ông ta về việc tôi có con hay không xuất phát từ ý nghĩ rằng với căn bệnh của mình, tôi không thích hợp để làm mẹ, hay chỉ đơn giản vì ông ta nghĩ rằng tốt nhất là không nên sản sinh thêm một người mắc bệnh hưng - trầm cảm nữa cho thế giới. Không hiểu ông ta cố tình phát lờ, hay không nhận thấy sự châm chọc của tôi, ông ta đáp: “Cả hai”. Tôi liền yêu cầu ông ta ra khỏi phòng, mặc nốt quần áo vào, gõ cửa phòng làm việc của ông ta, của ông ta một câu, rồi bỏ đi. Tôi sang bên kia đường, tới chiếc xe của tôi, ngồi xuống, người run lên và nức nở, cho tới khi mệt lả. Tàn nhẫn có nhiều hình thức và những gì ông ta đã làm với tôi không chỉ là tàn nhẫn, mà còn không có tính chuyên môn và dốt nát nữa. Nó đã gây ra những tổn hại lâu dài, giống như một vết cắt nhanh và rất sâu vào trái tim tôi vậy.

Thật kỳ lạ, tôi không có con, nhưng không phải vì tôi mắc chứng hưng - trầm cảm. Ngay cả trong những lúc suy sụp nhất, tôi cũng chưa bao giờ thấy hối tiếc vì mình đã sinh ra trong cuộc đời. Quả thực là tôi đã từng muốn chết, nhưng điều đó hoàn toàn khác với sự hối tiếc vì mình đã được sinh ra. Nhìn một cách tổng thể, tôi rất sung sướng vì mình đã được sinh ra, biết ơn cuộc sống và tôi không thể nghĩ tới việc sẽ chuyển giao cuộc sống này lại cho một ai đó. Cân nhắc mọi chuyện, tôi thấy mình đã có một cuộc đời tuyệt diệu - cho dù không ổn định và đôi khi khủng khiếp. Tất nhiên, tôi cũng đã từng có những mối quan tâm rất nghiêm túc: Tại sao người ta lại không thể có con? Tại sao một người, ví dụ như tôi, lại không thể chăm sóc con mình một cách chu đáo? Chuyện gì sẽ xảy ra với chúng, nếu như tôi rơi vào trầm cảm nặng? Điều đáng sợ hơn nhiều là chuyện gì sẽ xảy ra với chúng khi tôi bị điên, khi tôi mất khả năng suy xét và tôi trở thành một con người bạo lực không kiểm soát được? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu tôi phải chứng kiến những đứa con của mình vật lộn với chứng trầm cảm, suy sụp, tuyệt vọng, hoặc điên, nếu chúng bị nhiễm bệnh? Liệu tôi có săm soi, coi những triệu chứng hay sai lầm trong phản ứng thông thường của chúng như là dấu hiệu của bệnh tật? Tất cả những chuyện này đã được tôi nghĩ tới hàng nghìn lần, nhưng chưa bao giờ tôi nghi ngờ việc mình nên có con. Bất chấp thái độ máu lạnh của viên bác sỹ mà tôi đã tới khám bệnh, người đã bảo tôi không nên có con, tôi sẽ vẫn rất sung sướng nếu có đầy một nhà con, như tôi và David đã từng dự liệu. Tuy nhiên, mọi chuyện đã không xảy ra theo hướng đó: David đã chết, trong khi Richard - người đàn ông duy nhất tôi muốn có con cùng, sau khi David qua đời - thì lại đã có tới ba đứa con trong lần hôn nhân trước.

Không có con là điều đáng tiếc lớn nhất trong đời tôi. Tuy nhiên, rất may là tôi có hai cháu trai và một cháu gái - đứa nào cũng tuyệt vời và khá thành công trong cuộc sống - và khỏi cần phải nói, tôi đã có mối quan hệ rất tốt với chúng. Làm cô là một điều tuyệt vời, nhất là khi các cháu là những người biết suy nghĩ, độc lập, chín chắn, hài hước, thông minh và giàu trí tưởng tượng. Khó có thể tìm ra được điều gì đó không tuyệt vời trong quan hệ với chúng. Những đứa cháu trai, giống như bố chúng, quan tâm tới nghiên cứu toán học và kinh tế. Chúng là các chàng trai trẻ trầm lặng, hóm hỉnh, có suy nghĩ độc lập, nhã nhặn và đẹp trai. Còn cô cháu gái của tôi thì còn rất trẻ, nay mới có mười một tuổi, nhưng đã giành giải thưởng quốc gia về văn và rất quyết tâm trở thành một nhà văn. Người ta thường thấy cháu cuộn tròn trên ghế, viết nguệch ngoạc một cái gì đó, hỏi mọi người về từ ngữ và con người, chăm sóc đủ loại vật nuôi trong nhà, hay nhanh nhảu lên tiếng trước để bảo vệ chính kiến của mình trong các cuộc trò chuyện của gia đình. Cháu là một người sôi nổi, nhạy cảm, độc đáo và luôn có khả năng bảo vệ ý kiến của mình trước một tập thể gia đình toàn những người ăn nói lưu loát, gồm hai anh, bố mẹ và những người lớn khác. Tôi không thể hình dung ra khoảng trống khủng khiếp tới mức nào trong cuộc đời mình nếu như tôi không có ba đứa cháu này.

Mặc dù tôi luôn ủng hộ những nỗ lực tìm ra gien gây bệnh hưng - trầm cảm, nhưng điều mà tôi quan tâm là việc tìm ra những gian này sẽ có tác dụng như thế nào. Rõ ràng là việc chẩn đoán tốt hơn, sớm hơn và cụ thể hơn, nhờ các công trình nghiên cứu gien, sẽ dẫn tới những phương pháp điều trị ít gây phiền toái hơn, nhờ đó mà nó mang lại những lợi ích vô cùng to lớn cho các bệnh nhân hưng - trầm cảm, cho gia đình họ và cho xã hội nói chung. Những lợi ích này sẽ đến, vấn đề chỉ còn là thời gian. Tuy nhiên, điều gì sẽ xảy ra trong các cuộc kiểm tra chẩn đoán bào thai? Liệu những người sắp làm bố, làm mẹ có sẵn sàng từ bỏ bào thai mang theo gien của bệnh hưng-trầm cảm, ngay cả khi căn bệnh này có thể chữa trị được? (Điều thú vị là trong một cuộc điều tra gần đây của Trường Đại học Johns Hopkins, trong đó người ta đã hỏi các ông bố, bà mẹ mắc chứng hưng - trầm cảm và vợ hoặc chồng của họ, về việc họ có từ bỏ bào thai bị nhiễm bệnh không, thì kết quả cho thấy chỉ có rất ít người nói sẵn sàng từ bỏ). Liệu chúng ta có sẵn sàng làm cho thế giới này trở nên nhạt nhẽo hơn, đồng nhất hơn, bằng cách loại bỏ những gien gây bệnh hưng - trầm cảm - một vấn đề khoa học rõ ràng là vô cùng phức tạp? Điều gì sẽ xảy ra với những người chấp nhận nguy cơ hưng trầm cảm, để cùng những người khác trong xã hội không ngừng thúc đẩy sự phát triển của nghệ thuật, doanh nghiệp, chính trị và khoa học? Liệu những người mắc bệnh hưng - trầm cảm có trở thành “những loài có nguy cơ tuyệt chủng”, giống như cú đốm hay báo xám?

Đây là vấn đề đạo lý rất khó giải quyết, nhất là khi bệnh hưng - trầm cảm có thể tạo ra những lợi thế nhất định cho cá nhân người bệnh và cho xã hội. Căn bệnh này, ở cả dạng nặng và nhẹ, rõ ràng là đã chứng tỏ những lợi thế của nó, không chỉ thông qua quan hệ với tâm trạng và trí tưởng tượng nghệ sỹ, mà còn thông qua những tác động tới rất nhiều nhà khoa học, doanh nghiệp, tôn giáo, quân sự và chính trị nổi tiếng. Nó cũng có những tác động khó thấy hơn - như tới cá tính, lối suy nghĩ và sự năng động - bởi vì đây là căn bệnh thường có những biểu hiện rất khác nhau về tâm trạng, thái độ và nhận thức. Tình hình còn phức tạp hơn, do ngoài gien ra, các nhân tố về sinh hoá và môi trường (như phơi nắng quá lâu hoặc ánh sáng thay đổi quá nhiều, mất ngủ dài, sinh con, sử dụng ma tuý hay uống rượu) cũng đóng góp một phần, cả vào việc gây bệnh, lẫn tác động tới tâm trạng của những người thành đạt. Các vấn đề khoa học và đạo lý này là có thật và rất may là nó đang được Dự án Gien của chính quyền liên bang, các nhóm khoa học và các nhà đạo đức xem xét một cách tích cực. Tuy nhiên, đây là vấn đề vô cùng phức tạp và nó sẽ còn là như vậy trong nhiều năm tới.

Khoa học tuyệt vời ở chỗ nó luôn đặt ra những vấn đề mới, sau khi đã giải quyết được các vấn đề cũ. Khoa học phát triển rất nhanh, thường là tuyệt vời, và cùng với sự phát triển đó, nó tạo ra biết bao kỳ vọng.

Ngồi trên chiếc ghế cứng, bất tiện - vốn là một đặc trưng của các hội nghị y học - tôi như lãng quên thế giới. Đầu óc tôi như hơi bị thôi miên bởi tiếng lách cách chuyển hình ảnh của phim đèn chiếu. Mắt tôi vẫn mở, nhưng đầu óc tôi như đung đưa nhẹ nhàng trên cánh võng, ở tít tận góc xa của bộ não. Trong khi phòng họp vừa tối vừa ngột ngạt, thì ở bên ngoài lại rất đẹp và tuyết đang rơi. Tôi cùng một nhóm đồng nghiệp đang ở vùng núi Colorado và cho dù mỗi người theo đuổi một suy nghĩ riêng, tất cả chúng tôi đều trượt tuyết; tuy nhiên, cùng lúc đó, hơn một trăm bác sỹ vẫn đang ngồi trong phòng họp và tiếng lách cách của phim đèn chiếu vẫn vang lên đều đặn. Tôi lại nghĩ, có lẽ là hàng trăm lần, rằng điện không nhất thiết phải ngu xuẩn và nếu vậy thì tôi ở trong này làm quái gì, mà không ra ngoài kia trượt tuyết? Đột nhiên tai tôi vểnh lên. Một giọng nói tẻ nhạt đang lầm bầm “cập nhật thông tin về những kết cấu không bình thường ở não trong bệnh lưỡng cực”. Bộ não có kết cấu không bình thường của tôi đột nhiên rất tập trung và một luồng ớn lạnh chạy dọc sống lưng. Giọng lầm bầm ấy tiếp tục: “Ở các bệnh nhân lưỡng cực mà chúng tôi nghiên cứu, số lượng các điểm có cường độ tín hiệu cao (những khu vực tập trung nhiều nước hơn) tăng lên đáng kể. Điều này cho thấy có thể có những tế bào không bình thường. Đây chính là cái mà một số nhà thần kinh học gọi là “những vật thể sáng chưa xác định” hay UBO”. Cả hội trường cười vang.

Tôi, người không muốn mất thêm bất cứ một tế bào não nào nữa - chỉ có Chúa mới biết bao nhiều chất xám của tôi đã vượt Suối Vàng trong lần tôi suýt chết vì dùng Lithi quá liều - cũng cười, nhưng không nhiệt tình lắm. Diễn giả vẫn tiếp tục: “Ý nghĩa y học của những UBO này hiện vẫn chưa rõ, nhưng chúng tôi biết rằng chúng có liên quan tới một số hiện tượng khác, như bệnh Alzheimer, đa xơ cứng và suy giảm trí tuệ”. Tôi đã đúng, lẽ ra tôi nên ra ngoài trượt tuyết. Tuy nhiên, cưỡng lại những phán xét của mình, đầu tôi vẫn hướng về phía màn ảnh phim đèn chiếu. Đó là những hình ảnh có sức hút khá mạnh và tôi bị cuốn theo những hình ảnh chi tiết đến không ngờ về cấu trúc của bộ não, nhờ kỹ thuật chụp cộng hưởng từ (MRI) mới nhất. Đó là kỹ thuật chụp não cho hình ảnh vừa đẹp vừa rõ nét, đặc biệt là những bức ảnh MRI có độ nét cao và những bức ảnh chụp cắt lớp (PET) nhiều màu rất đẹp. Ví dụ với PET, khi phiền muộn, bộ não có hình ảnh tĩnh, màu xanh sẫm và lạnh, màu tía sẫm hay màu xanh lá cây, trong khi cũng bộ não đó khi hưng phấn lại sáng lên như cây thông đêm Giáng sinh vậy, với những đốm sáng đỏ, vàng và màu cam rất rõ. Chưa bao giờ sắc màu và cấu trúc của bộ não lại thể hiện một cách đầy đủ tâm trạng hướng nội và lạnh lẽo chết người của hiện tượng trầm cảm, và tâm trạng hứng khởi, rung động và sự can dự tích cực của bệnh điên đến thế.

Tôi thực sự phấn khích trước nền khoa học thần kinh hiện đại, nó vừa lãng mạn trong khám phá, vừa làm nảy sinh những hướng nghiên cứu mới. Đó là ngành khoa học thanh lịch, với các nhà nghiên cứu còn rất trẻ, nhưng tốc độ phát hiện vấn đề của nó lại rất tuyệt vời. Giống như các nhà sinh học phân tử, những người chẩn đoán não bằng hình ảnh hiểu rõ mặt trận khác thường mà họ đang vượt qua và nó đang làm cho những người có đầu óc trống rỗng và trái tim đá trở nên lạc lõng trước tập thể những người mạnh dạn và đầy hưng phấn.

Mặc dù rất thích thú với ngành khoa học này, tôi vẫn băn khoăn tự hỏi không hiểu sự hưng phấn cao trong não là nguyên nhân hay tác động của bệnh, và vấn đề này có rõ ràng thêm theo thời gian hay không; sự hưng phấn đó nằm vị trí nào trong bộ não và liệu nó có liên quan gì tới khó khăn định hướng và nhận dạng mà tội và nhiều người mắc bệnh hưng trầm cảm thường gặp phải hay không; và liệu não của những đứa trẻ có nguy cơ mắc bệnh hưng - trầm cảm, do bố, mẹ hoặc cả hai mắc bệnh này, những dấu hiệu trên có thể hiện trước khi chúng phát bệnh hay không. Khía cạnh bác sỹ điều trị trong tâm trí tôi bắt đầu nghiền ngẫm về những lợi thế của ngành chẩn đoán bằng hình ảnh và những phát hiện bằng hình ảnh để thuyết phục những bệnh nhân còn nghi hoặc của tôi rằng (a) họ có một bộ não, (b) trạng thái tâm lý của họ có liên quan tới não, và (c) nếu không uống thuốc đúng theo đơn nó có thể gây ra những tổn hại về não. Những suy ngẫm này đã kéo tôi ra khỏi cuộc họp trong giây lát, khi nó thay đổi từ góc độ của một bệnh nhân hưng-trầm cảm tới vai trò của một nhà chuyên môn đang nghiên cứu và điều trị căn bệnh này. Nhưng rồi cuối cùng những mối quan tâm và băn khoăn của cá nhân tôi đã trở lại.

Khi trở lại Trường Đại học Johns Hopkins, nơi tôi đang dạy học, tôi đã rất tích cực tham khảo ý kiến của các đồng nghiệp đang nghiên cứu về thần kinh học và các đồng sự đang nghiên cứu về MRI. Tôi lao tới thư viện để đọc tất cả những gì liên quan. Cuối cùng, nó chỉ khẳng định cái đã được người ta xác định, đó là căn bệnh này nằm ở não, và đây chỉ là cách khác để nhìn thấy điều ấy mà thôi. Tiêu đề của những bài viết này đã hé mở nội dung của nó, như “Khối lượng hạch cơ bản và chất trắng kích thích cao ở những bệnh nhân mắc bệnh lưỡng cực”, “Cấu trúc não không bình thường ở bệnh nhân rối loạn lưỡng cực: Não thất to và tín hiệu kích thích tập trung cao”, “Phát hiện sự không bình thường ở vỏ não của bệnh nhân rối loạn lưỡng cực bằng phương pháp chụp cộng hưởng từ”, vận vân và vân vân. Tôi ngồi xuống và đọc tất cả. Một công trình nghiên cứu đã phát hiện ra rằng “trong 32 bệnh nhân hưng-trầm cảm được chẩn đoán bằng hình ảnh, 11 người (34,4%) có hình ảnh kích thích cao, trong khi chỉ có 1 người (3,2%) trong nhóm người bình thường để so sánh, có hình ảnh không bình thường như vậy”.

Tôi phớt lờ cái gọi là “nhóm người bình thường để so sánh” này và đọc tiếp. Tôi phát hiện ra rằng giống như điều vẫn thường xảy ra trong các lĩnh vực y học mới, nó đã làm nảy sinh nhiều câu hỏi hơn là những gì nó trả lời được và cũng chưa biết những phát hiện này sẽ có ý nghĩa gì: chúng có thể bắt nguồn từ những sai sót trong tính toán, có thể là kết quả của quá trình điều trị hay kiêng cữ, chúng cũng có thể xuất phát từ một lý do nào đó hoàn toàn không liên quan gì tới bệnh hưng - trầm cảm và cũng có thể vì nhiều lý do khác. Tuy nhiên, điều rất kỳ quặc là UB0 dường như có một ý nghĩa nào đó.

Và sau khi đọc hàng loạt bài nghiên cứu này, tôi cảm thấy tự tin hơn và ít hoảng sợ hơn. Sự phát triển nhanh chóng của khoa học quả là đã tạo ra niềm hy vọng và nếu những thay đổi trong cấu trúc não quả thực có ý nghĩa, thì tôi rất sung sướng, vì nó đang được các nhà nghiên cứu hàng đầu mổ xẻ chúng. Nếu không có khoa học, chúng ta sẽ không có được những niềm hy vọng ấy. Hoàn toàn không có hy vọng.

Và cho dù thế nào chăng nữa, nó cũng đã tạo ra ý nghĩa mới cho khái niệm mất trí.

Đặc ân điều trị

Việc nói cho người khác biết rằng mình đang mắc chứng hưng - trầm cảm là chẳng dễ dàng gì; còn nếu nó dễ dàng thì quả thật là tôi chưa phát hiện ra. Mặc dù hầu hết những người mà tôi thông báo về bệnh tình của mình là những người hiểu biết - và một số rất đồng cảm - tôi vẫn bị ám ảnh trước những phản ứng tàn nhẫn, hạ cố hoặc thiếu sự cảm thông. Vì thế, ý nghĩ thông báo bệnh tình của mình ở một diễn đàn công khai vẫn là điều không thể tưởng tượng được đối với tôi. Sự ngần ngại này phần lớn là vì lý do chuyên môn, nhưng trong chừng mực nào đó còn vì phản ứng tàn nhẫn có chủ ý và những phản ứng khác từ các đồng nghiệp mà tôi bí mật kể cho nghe. Đó chính là điều làm cho tôi cay đắng nghĩ tới như là “Nhân tố Tim chuột”.

Tim Chuột (Mouseheart) là một đồng nghiệp cũ của tôi ở Los Angeles, người mà tôi đã từng nghĩ là bạn. Anh ta là một nhà phân tích tâm lý và tôi thường có thói quen đi uống cà phê sáng với anh ta. Thỉnh thoảng chúng tôi cũng vui vẻ đi ăn trưa cùng nhau và nói chuyện về công việc và cuộc sống của chúng tôi. Sau một thời gian tôi bắt đầu có cảm giác không thoải mái, điều tôi vẫn thường gặp khi quan hệ bạn bè đạt tới một mức độ nhất định, nhưng tôi chưa nói gì cho họ biết về bệnh tình của mình. Lý do bởi đó không chỉ là một căn bệnh, mà còn là nhân tố ảnh hưởng đến toàn bộ cuộc sống của tôi: tâm trạng, tính khí, công việc và phản ứng của tôi trước mọi chuyện xảy ra hàng ngày. Nếu không nói về bệnh hưng - trầm cảm của tôi, dù chỉ thảo luận về nó một lần, thì tình bạn giữa chúng tôi chắc chắn sẽ chỉ dừng lại ở mức hời hợt bề ngoài. Sau một hơi thở sâu, tôi quyết định nói cho anh ta biết.

Khi đó chúng tôi đang ở một nhà hàng sát bờ biển ở Malibu. Đó cũng là lúc tôi vừa trải qua một chu kỳ ngắn vừa điên, vừa suy sụp và định tự tử. Tôi dán mắt vào đống đá xa xa bên đại dương chờ phản ứng của anh ta. Quả là một sự chờ đợi kéo dài và lạnh lẽo. Cuối cùng tôi nhìn thấy nước mắt chảy trên mặt anh ta. Tôi nghĩ đó là phản ứng thái quá, nhất là khi tôi chỉ để lộ trạng thái điên ở mức nhẹ nhất và sự trầm cảm chỉ như một sự lãnh đạm. Dù vậy, tôi cũng vẫn cảm động trước việc anh ta dường như thấu hiểu những gian truân mà tôi phải trải qua. Tim Chuột lau nước mắt và nói, đơn giản là anh không tin điều đó và anh “vô cùng thất vọng”. Anh ta đã từng nghĩ rằng tôi là một người tuyệt vời và rất mạnh mẽ: Thế thì tại sao tôi lại có ý định tự tử được? Khi đó tôi nghĩ gì? Và đó là hành động hèn nhát và ích kỷ.

Tôi hoảng sợ nhận ra rằng anh ta đang nói rất nghiêm túc. Tôi như người chết đứng. Nỗi đau của anh khi biết tôi bị hưng - trầm cảm dường như còn tệ hại hơn căn bệnh thực sự trong người tôi. Trong ít phút, tôi thấy mình giống như Typhoid Mary vậy. Sau đó tôi cảm thấy mình bị phản bội, vô cùng xấu hổ và hoàn toàn bị bóc trần. Sự âu lo của anh quả là không có giới hạn. Anh hỏi, bằng một giọng nhỏ hẳn lại và với một mối quan tâm thực sự: Có thật tôi bị tâm thần không? Nếu thế, tôi có thực sự nghĩ rằng trong hoàn cảnh như vậy tôi vẫn có thể vượt qua được những sức ép của công tác nghiên cứu hay không? Tôi nói với anh, qua hai hàm răng nghiến chặt, rằng trên thực tế tôi đã vượt qua sức ép đó trong nhiều năm. Tôi cũng chỉ cho anh thấy sự thật rằng tôi trẻ hơn anh rất nhiều, nhưng tôi đã công bố nhiều công trình nghiên cứu hơn anh ta. Quả thật là tôi không nhớ nhiều lắm về khoảng thời gian còn lại của bữa ăn trưa ấy, ngoại trừ đó là một cực hình. Với một giọng mỉa mai, như để bỏ qua cho anh ta, tôi nói rằng anh không cần phải lo lắng, vì hưng - trầm cảm không phải là bệnh truyền nhiễm. Anh ta ngọ ngoạy trên ghế và nhìn đi nơi khác.

Sáng hôm sau, một bó hoa hồng đỏ được gửi tới bệnh viện của tôi, kèm theo một lời xin lỗi. Đó là một cử chỉ đẹp, tôi nghĩ, nhưng nó không làm dịu được vết thương do phản ứng của anh ta gây ra. Tôi hiểu sự bộc trực của anh hàm ý rằng anh là người bình thường, còn tôi thì không - và tệ hại nhất là câu nói chết người của anh ta: “Vô cùng thất vọng”.

Có rất nhiều lý do để tôi ngần ngại công khai bệnh hưng - trầm cảm của mình; có một số lý do cá nhân, nhưng phần lớn là vì lý do nghề nghiệp. Phần lớn các vấn đề cá nhân có thể được giải quyết nhờ quy định bảo vệ bí mật gia đình - nhất là khi căn bệnh này được coi là do gien di truyền - và nhờ thói quen coi các vấn đề cá nhân là chuyện riêng tư. Tôi rất lo ngại, có thể là hơi quá mức, về việc mọi người sẽ đánh giá về tôi và công việc của tôi ra sao một khi biết tôi mắc chứng hưng - trầm cảm. Chỉ có một ranh giới rất nhỏ giữa ngu đần và “không thích hợp”- ôi một từ tệ hại - và cũng chỉ có một khoảng cách mong manh giữa sự mạnh mẽ và thậm chí có thể hơi bạo lực một chút, với cái được coi là “không ổn định”. Và cho dù vì bất cứ lý do cá nhân phù phiếm nào, tôi vẫn lo sợ rằng ý định tự tử và sự trầm cảm của tôi sẽ bị một số người coi là yếu đuối hay “loạn thần kinh chức năng”. Trong chừng mực nào đó tôi sợ bị coi là yếu đuối và loạn thần kinh chức năng hơn là thỉnh thoảng bị rối loạn tâm thần. Cuối cùng, tôi rất sợ rằng sau khi nói ra hay viết ra những khía cạnh rất riêng tư trong cuộc sống của mình, một ngày nào đó gặp lại họ tôi sẽ bị họ tẩy chay. Là một người hay nói và nói năng rất tự do, tôi lo ngại rằng những trải nghiệm của mình sẽ trở nên xa vời, không thể với tới được và tụt lại quá xa ở phía sau. Tôi cũng lo ngại rằng những trải nghiệm đó sẽ trở thành của một ai đó, chứ không phải của chính mình.

Tuy nhiên, xét về bản chất, mối lo ngại lớn nhất của tôi là vì lý do nghề nghiệp. Ban đầu, chủ yếu tôi sợ Ủy ban Kiểm tra Y tế California có thể không cấp giấy phép hành nghề cho tôi, nếu họ biết rằng tôi mắc chứng hưng - trầm cảm. Theo thời gian, tôi ngày càng ít lo ngại về các biện pháp hành chính như vậy - chủ yếu vì tôi đã quen với hệ thống bảo đảm an toàn y tế rất tinh vi và dù sao thì tôi cũng đã thảo luận với những đồng nghiệp thân cận nhất của mình và với bác sỹ tâm thần của tôi về những tình huống khẩn cấp có thể xảy ra và cách xử lý tốt nhất trong những trường hợp đó. Tuy nhiên, tôi ngày càng lo ngại rằng công việc giảng dạy và nghiên cứu của tôi có thể bị tổn hại. Ở UCLA, tôi đã giảng dạy và giám sát một số lượng lớn bác sỹ tâm thần và thực tập sinh bệnh thần kinh trong bệnh viện tôi làm giám đốc. Ở Johns Hopkins, tôi cũng giảng dạy cho các bác sỹ và sinh viên y khoa ở khoa nội trú và ở bệnh viện điều trị bệnh nhân ngoại trú bị rối loạn tâm thần. Tôi e rằng các bác sỹ và thực tập sinh này, do nhận thức khác nhau của họ về tôi, có thể sẽ không nói cho tôi biết họ đang thực sự nghĩ gì hoặc không hỏi tôi những câu hỏi mà lẽ ra họ có thể và cần hỏi.

Nhiều mối lo ngại này đã được tôi đưa vào các công trình nghiên cứu hay bài viết của tôi. Tôi đã viết rất nhiều về chứng hưng - trầm cảm trên các tạp chí y học và khoa học. Liệu các công trình của tôi có bị các bạn đồng nghiệp nhìn lệch lạc đi do bệnh tình của tôi hay không? Đó là điều ám ảnh, cho dù trong khoa học, điều quan trọng là công trình của một ai đó cuối cùng có được người ta nhắc tới hay không. Định kiến cũng sẽ dịu đi theo thời gian. Tuy nhiên, tôi lo ngại phản ứng của các đồng nghiệp, một khi tôi công khai bệnh tình của mình: ví dụ khi tham dự một hội nghị khoa học và tôi đặt một câu hỏi hay tranh luận với một diễn giả nào đó, thì liệu câu hỏi của tôi có được người ta coi là của một người đã từng nghiên cứu và điều trị bệnh rối loạn tâm thần trong nhiều năm, hay sẽ bị coi là quan điểm, chủ quan của một người muốn đạt được mục tiêu cá nhân nào đó. Điều tồi tệ ở đây là nó làm mất đi tính khách quan của học vấn. Tuy nhiên, công việc của tôi đã thăng hoa rất nhiều nhờ xúc cảm mạnh mẽ và những kinh nghiệm của bản thân tôi. Nó đã tác động rất lớn tới công tác giảng dạy, tư vấn, điều trị và các chủ đề tôi chọn nghiên cứu: bệnh hưng - trầm cảm nói chung, và các khía cạnh tự tử, rối loạn tâm thần và tâm lý cụ thể của bệnh này, các biện pháp điều trị, hậu quả của việc không uống Lithi đúng chỉ dẫn, những biểu hiện tích cực của bệnh điện và chứng tâm tính xoay chuyển và tầm quan trọng của liệu pháp tâm lý.

Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là với tư cách một bác sỹ điều trị, tôi phải cân nhắc trước vấn đề mà Tim Chuột đã khéo léo đưa ra trong cuộc nói chuyện của chúng tôi ở Malibu: Tôi có thực sự nghĩ rằng những người mắc bệnh tâm thần vẫn có thể được phép điều trị bệnh nhân hay không?

Khi rời Trường Đại học California mùa đông 1986 để trở lại Washington, tôi rất mong được tiếp tục dạy học và muốn được nhận một học vị nào đó tại một trường đại học y. Richard, người đã từng tới trường y của Đại học Johns Hopkins, nghĩ rằng tôi sẽ yêu thích một công việc ở đây. Theo gợi ý của anh, tôi làm đơn xin vào giảng dạy tại Khoa Tâm thần và tôi bắt đầu dạy học ở Hopkins chỉ vài tháng sau khi trở lại miền Đông. Richard đã đúng, tôi yêu Hopkins ngay lập tức. Và đúng như anh dự đoán, một trong nhiều điều thú vị khi làm giáo viên ở Hopkins là trách nhiệm giảng dạy ở đây rất cao. Sự chăm sóc y tế tuyệt vời ở đây cũng là một nhân tố nữa, vấn đề chỉ còn là thời gian để những đặc ân điều trị trong bệnh viện phát huy tác dụng.

Với cảm giác thường trực là phải xem xét kỹ các mẫu giấy kê khai chính thức của bệnh viện, tôi bắt đầu soi xét đống giấy tờ trước mặt. Tôi ấn tượng với dòng chữ in BỆNH VIỆN JOHNS HOPKINS chạy suốt trên đầu tờ giấy. Nhìn xuống dưới, đúng như tôi dự đoán, là đơn xin đặc ân điều trị của bệnh viện. Với tư tưởng hy vọng vào những điều tốt đẹp nhất, nhưng cũng sẵn sàng cho những điều tồi tệ nhất, tôi quyết định trả lời các câu hỏi “có hay không” trong bảng kê khai trước. Tôi nhanh chóng trả lời “không” cho một loạt câu hỏi về những sai sót nghề nghiệp, những bất minh trong bảo hiểm và bị kỷ luật về chuyên môn: Tôi có bị dính líu tới các vụ kiện tụng vì sai sót hoặc trách nhiệm pháp lý nghề nghiệp nào trước đây không? Tôi có bị hạn chế hay giới hạn nào về bảo hiểm sai sót nghề nghiệp không? Có bao giờ giấy phép hành nghề của tôi bị hạn chế, đình chỉ, bị đặt điều kiện, bị treo, bị nhắc nhở chính thức hoặc không chính thức, không được gia hạn hay bị thu hồi hay không? Đã bao giờ tôi bị một tổ chức y tế nào kỷ luật hay chưa? Tôi có đang bị một hình thức kỷ luật treo nào không?

Những câu hỏi này, ơn Chúa, thật dễ trả lời. Trong thời buổi hơi một chút là người ta lôi nhau ra toà này, thật may là cho tới lúc này, tôi đã cố gắng để không bị kiện vì những sai sót của mình. Tuy nhiên, phần kê khai tiếp theo về “Thông tin cá nhân” đã làm cho tim tôi đập nhanh hơn. Và đúng như tôi dự đoán, ngay sau đó tôi bắt gặp những câu hỏi mà không thể chỉ trả lời đơn thuần bằng cách đánh dấu vào ô “có” hay “không”:

Hiện nay bạn có đang mắc hay đang được điều trị bất cứ một căn bệnh hay dị tật nào, kể cả nghiện ma tuý hay rượu, mà có thể ảnh hưởng không tốt tới việc thực thi trách nhiệm và nghĩa vụ của bạn ở bệnh viện này không?

Những dòng phía dưới là lời cam kết chết người:

Tôi hiểu một cách đầy đủ rằng bất cứ lời khai man hay bỏ sót nào trong bản kê khai này cũng có thể dẫn tới việc tôi bị từ chối tiếp nhận hoặc ngay lập tức bị đuổi khỏi đội ngũ nhân viên bệnh viện.

Tôi đọc đi đọc lại mãi câu hỏi “Hiện nay bạn có đang mắc...”, suy nghĩ khá lâu và cuối cùng tôi quyết định viết ngay sau đó: “Căn cứ vào cuộc thảo luận với Chủ nhiệm Khoa Tâm thần...”. Viết đến đây tôi thấy nôn nao trong người, liền nhấc điện thoại gọi cho chủ nhiệm khoa của tôi ở Hopkins và đề nghị ông sắp xếp đi ăn trưa cùng tôi.

Khoảng một tuần sau đó chúng tôi gặp nhau nhà hàng của bệnh viện. Ông là một người hay nói và vui vẻ. Chúng tôi dành mấy phút để nói chuyện vui vẻ với nhau về các hoạt động trong khoa, về công tác giảng dạy, các chương trình tài trợ nghiên cứu và những thủ pháp điều trị tâm thần. Với đôi tay giữ chặt lấy đùi và cuống họng như tắc lại, tôi nói với ông về bản khai xin đặc ấn điều trị, về bệnh hưng - trầm cảm của tôi và những biện pháp điều trị mà tôi đang áp dụng. Đồng nghiệp thân nhất của tôi ở Hopkins đã biết về bệnh tình của tôi. Bao giờ tôi cũng nói với các bác sỹ thân cận nhất về bệnh tình của mình. Ví dụ ở UCLA, tôi đã nói rất chi tiết về bệnh tình của mình với những bác sỹ đã cùng tôi thành lập Bệnh viện Rối loạn Cảm xúc UCLA và sau đó với viên bác sỹ, người đã làm bác sỹ trưởng trong gần suốt thời gian tôi làm giám đốc bệnh viện này. Ông chủ tịch UCLA cũng biết tôi đang được điều trị bệnh hưng - trầm cảm. Khi đó cũng như bây giờ, tôi cảm thấy mình cần có sự bảo đảm an toàn, để phòng khi tôi có thể đưa ra những quyết định điều trị không thích hợp, do bị điên hay suy sụp nghiêm trọng. Nếu tôi không nói cho họ biết, không chỉ việc chăm sóc điều trị cho bệnh nhân có thể bị tổn hại, mà các đồng nghiệp của tôi còn có thể bị đẩy vào tình thế không thể bảo vệ được và có nguy cơ phải ra toà nữa.

Tôi đã nói rõ với từng bác sỹ mà tôi làm việc cùng rằng tôi đang được một bác sỹ tâm thần tuyệt vời điều trị, tôi vẫn uống thuốc đều đặn và không có bất cứ vấn đề gì về ma tuý hay rượu. Tôi cũng nói với họ rằng họ được tự do hỏi bác sỹ tâm thần của tôi bất cứ câu hỏi nào mà họ cảm thấy cần về bệnh tình và khả năng hành nghề của tôi (mặt khác tôi cũng đề nghị bác sỹ tâm thần thông tin cho tôi và cho bất cứ ai mà ông nghĩ là cần thiết, nếu ông thấy băn khoăn về các quyết định điều trị của tôi). Các đồng nghiệp của tôi đồng ý rằng nếu họ có bất cứ nghi ngờ gì về quyết định điều trị bệnh nhân của tôi họ sẽ nói thẳng với tôi, ngay lập tức tách tôi khỏi trách nhiệm điều trị và cảnh báo cho bác sỹ tâm thần của tôi biết. Tôi nghĩ tất cả họ đều đã gọi điện cho bác sỹ của tôi, vào lúc này hay lúc khác, để hỏi về bệnh tình và việc điều trị của tôi. Thật may là chưa có ai phải liên lạc với ông vì lo ngại tới khả năng hành nghề bác sỹ của tôi. Tôi cũng chưa bao giờ phải từ bỏ đặc ân điều trị của mình, cho dù chính tôi đã từng phải hủy bỏ hoặc đổi lịch khám cho bệnh nhân, khi tôi cảm thấy rằng điều đó là có lợi nhất cho họ.

Tôi vừa thận trọng, vừa may mắn. Bệnh tình của tôi hay của bất cứ bác sỹ nào cũng luôn có nguy cơ ảnh hưởng tới các quyết định điều trị bệnh nhân. Những câu hỏi trong bảng kê khai xin đặc ân của bệnh viện không bao giờ là không công bằng hay không thích hợp cả. Tôi không thích trả lời những câu hỏi đó, nhưng chúng hoàn toàn thích đáng. Những đặc ân điều trị đúng là đặc ân, chứ không phải quyền hành. Nguy hiểm thực tế chính là ở chỗ các bác sỹ điều trị (hay các nhà chính trị, phi công, doanh nghiệp, hay những người phải chịu trách nhiệm về phúc lợi và cuộc sống của nhiều người khác) - chỉ vì sợ nhục nhã, sợ mất những đặc ân của mình, sợ bị đuổi khỏi trường y, các trường đại học hay nơi cư trú của mình - mà ngần ngại không tới bác sỹ tâm thần điều trị. Một khi không được chữa trị hay không được giám sát, nhiều người sẽ mắc bệnh nặng và vì thế gây nguy hiểm không chỉ cho cuộc sống của chính họ, mà còn cho nhiều người khác nữa. Các bác sỹ tự điều trị tâm thần cho mình thường dẫn tới chỗ bị nghiện ma tuý hay nghiện rượu. Không ít trường hợp bác sỹ bị trầm cảm đã tự kê đơn thuốc chống suy nhược cho mình và hậu quả là vô cùng tệ hại.

Các bệnh viện và tổ chức chuyên ngành cần thừa nhận mức độ nguy hiểm mà các bác sỹ, y tá và nhà tâm lý không được điều trị có thể gây ra cho bệnh nhân. Tuy nhiên, các tổ chức này cũng cần khuyến khích các biện pháp điều trị hiệu quả và có tình, đồng thời hoạch định các cơ chế giám sát an toàn, thông minh và không gia trưởng. Rối loạn tâm thần, nếu không được điều trị, sẽ không chỉ gây nguy hiểm cho bệnh nhân, mà còn cho chính bác sỹ nữa. Hàng năm vẫn có rất nhiều bác sỹ - trong đó có nhiều bác sỹ giỏi - đã tự tử. Kết quả một cuộc điều tra gần đây cho thấy, số bác sỹ mà nước Mỹ bị mất chỉ riêng do tự tử mỗi năm, đã tương đương với số bác sỹ tốt nghiệp của một trường đại học y cỡ trung bình. Hầu hết các bác sỹ tự tử là do trầm cảm hay hưng - trầm cảm, mà cả hai căn bệnh này đều có thể chữa trị được. Điều bất hạnh là các bác sỹ không chỉ có tỷ lệ bị rối loạn tâm thần cao hơn dân số nói chung, mà còn được tiếp cận với nhiều biện pháp tự tử có hiệu quả hơn.

Các bác sỹ trước hết cần phải chữa lành bệnh cho chính mình, và họ cũng cần được tiếp cận các biện pháp điều trị tốt để chữa lành căn bệnh của họ. Hệ thống hành chính và y tế cần khuyến khích các bác sỹ chữa bệnh và đưa ra các quy định giám sát hợp lý, đồng thời không dung túng cho những bác sỹ không điều trị chu đáo hoặc gây tổn hại đến việc chăm sóc bệnh nhân. Như ông chủ nhiệm khoa của tôi vẫn thích nói, các bác sỹ có trách nhiệm điều trị bệnh nhân và bệnh nhân không có nghĩa vụ phải trả giá - cả theo nghĩa bóng lẫn nghĩa đen - cho các vấn đề và bệnh tình của bác sỹ. Tôi hoàn toàn đồng ý với quan điểm này của ông. Dù vậy, không phải là tôi không sợ hãi khi chờ đợi phản ứng của ông khi tôi nói với ông rằng tôi đang được điều trị bệnh hưng - trầm cảm và tôi cần phải thảo luận với ông về những đặc ân trong bệnh viện của tôi. Tôi nhìn gương mặt ông để đoán xem ông đang nghĩ gì. Đột nhiên, ông vươn người qua bàn, đặt tay lên bàn tay tôi và mỉm cười: “Kay à, tôi biết là cô mắc chứng hưng - trầm cảm”. Ông ngừng một lát rồi cười: “Nếu chúng ta loại tất cả những người mắc chứng hưng - trầm cảm ra khỏi đội ngũ giáo viên của các trường y, thì không chỉ đội ngũ giáo viên bị giảm đi rất nhiều, mà nó còn buồn tẻ biết bao”.

Cuộc sống tâm hồn

Như Byron đã nói, tất cả chúng ta được tổ chức một cách khác nhau. Mỗi người chúng ta vận động trong khuôn khổ tâm trạng của mình và chúng ta cũng chỉ sử dụng hết một phần khả năng của nó mà thôi. Ba mươi năm sống cùng bệnh hưng - trầm cảm đã làm cho tôi ngày càng nhận rõ cả những hạn chế lẫn khả năng của nó. Điềm báo tối tăm và chết người mà tôi cảm thấy khi còn là đứa trẻ ngước nhìn lên bầu trời trong xanh bao la, bị bao phủ bởi khói và lửa, vẫn luôn còn đó và thậm chí nó còn len lỏi vào những vẻ đẹp và sự sinh động của cuộc sống nữa. Tối tăm là một phần không thể thiếu trong cuộc đời tôi. Tôi dễ dàng nhớ lại những tháng ngày tàn nhẫn, tối tăm và kiệt quệ, cùng những nỗ lực đến ghê gớm để có thể giảng dạy, đọc, viết, khám cho bệnh nhân và duy trì các mối quan hệ. Nằm ở tầng sâu hơn, nhưng luôn sẵn sàng phối hợp với các dấu hiệu ban đầu của trầm cảm, là những hình ảnh bạo lực, điên khùng, cùng những hành vi đáng xấu hổ và man rợ tới mức không thể nào quên, và tệ hại hơn nữa là những tác động tàn nhẫn của chúng tới những nhân tố khác.

Tuy nhiên, cho dù tâm trạng và những ký ức này có khủng khiếp tới mức nào, thì nó cũng luôn được bù đắp bằng sự hưng phấn và sinh khí của các nhân tố khác. Mỗi khi cơn hưng phấn điện nhẹ dịu dàng lan tỏa khắp người tôi, thì tâm trạng của tôi lại tràn ngập cảm giác mạnh mẽ và nồng nàn - giống như con người ta cũng có thể bị chìm trong cảm giác nhức nhối của thế giới hồi ức vậy. Cảm giác mạnh mẽ của trạng thái điên khi đan xen với những trải nghiệm trong cuộc đời lại tạo ra mong ước được thấy lại những hồi ức cũ. Chính vì thế mà tâm trạng của tôi ngày nay là một sự pha trộn vừa ngọt ngào, vừa cay đắng giữa sự tồn tại khá dễ chịu và ổn định hiện nay với quá khứ phiền toái, nhưng mạnh mẽ.

Quá khứ thỉnh thoảng vẫn hiện về và sự cám dỗ muốn trở lại cảm giác hưng phấn trước kia vẫn còn đó, cho dù tần suất đã giảm dần. Tôi ngoái nhìn lại phía sau và vẫn cảm thấy sự hiện diện của một cô gái trẻ, mạnh mẽ và tiếp sau đó là một phụ nữ trẻ hung bạo, gây nhiều phiền toái, nhưng cả hai đều mang trong mình những giấc mơ cao đẹp, làm việc không mệt mỏi và chứa chan khát vọng lãng mạn. Làm sao người ta có thể nắm bắt lại cảm giác mạnh mẽ hay tái hiện sự hưng phấn đến cao độ của bệnh điên, với những điệu nhảy suốt đêm cho tới tận sáng hôm sau, bay vào bầu trời đầy sao và nhảy múa dọc theo vòng tròn đẹp đẽ của Sao Thổ? Làm sao người ta có thể kéo lại những ngày hè dài tràn ngập tình yêu thương, nhớ lại mùi tử đinh hương, cảm giác đê mê và rượu gin đổ tràn lối đi trong vườn, cùng những trận cười vang không ngớt cho tới tận khi mặt trời lên, hay xe cảnh sát ập tới?

Sự pha trộn của những ước muốn trước đây luôn tồn tại trong tôi. Đây dường như là điều không thể tránh khỏi trong bất cứ cuộc đời nào. Tuy nhiên, đối với tôi đó còn là sự quyện xoắn của nỗi nhớ quá khứ đến nao lòng, do đã từng được trải qua cảm giác vô cùng mạnh mẽ. Điều này làm cho việc từ bỏ quá khứ trở nên khó khăn hơn. Và đôi lúc, tôi vẫn tiếc nuối những cảm giác đã mất. Tôi nhớ cảm xúc mãnh liệt đã qua và tự thấy mình thỉnh thoảng vẫn vô tình vươn tay ra như muốn níu kéo nó lại, giống như tôi vẫn thỉnh thoảng đưa tay ra phía sau để đón mái tóc dài và dầy, nhưng đã mất từ lâu. Tuy nhiên, giống như dấu tích của tâm trạng, cảm giác ấy chỉ tồn tại như một bóng ma. Tôi không có nhu cầu bức bối phải tái hiện cảm xúc mạnh mẽ trước đây, mà hậu quả của nó là quá khủng khiếp, quá nguy hiểm và quá tệ hại.

Dù vậy, sức cám dỗ của tâm trạng tự do và hưng phấn vẫn rất mạnh, và điều thú vị là trong cuộc tranh cãi từ ngàn xưa giữa lý lẽ và cảm giác, phần thắng thường vẫn nghiêng về cảm giác. Trạng thái điện nhẹ thường tạo ra nhiều hy vọng và - trong một khoảng thời gian rất ngắn nó giống như mang lại mùa xuân giữa những ngày đông, hay tạo ra sức sống cho một thời kỳ mới. Tuy nhiên, thực tế và sự hủy hoại của việc bệnh tái phát vẫn đè bẹp ý muốn níu kéo lại những hồi ức, tiếc nuối và những giây phút tràn ngập cảm giác mạnh mẽ và dịu dàng trước đây. Nếu muốn níu kéo lại những cảm giác đó, tôi có thể dễ dàng thực hiện được bằng cách thay đổi chế độ uống thuốc, nhưng tôi đều nhanh chóng kiềm chế, vì tôi biết rõ sự thật lạnh lùng rằng cảm giác mạnh mẽ và dịu dàng ấy sẽ nhanh chóng biến thành sự điên khùng và sau đó là tình trạng điên loạn tới mức không thể kiểm soát nổi. Tôi rất sợ trở lại tình trạng trầm cảm một cách bệnh hoạn hay điên loạn một cách độc ác - mà cả hai đều có thể làm tan vỡ mọi khía cạnh của cuộc sống, mọi mối quan hệ và công việc vốn đang rất có ý nghĩa đối với tôi. Chính vì thế mà tôi chưa bao giờ nghiêm túc nghĩ tới việc thay đổi chế độ uống thuốc của mình.

Mặc dù về cơ bản tôi vẫn lạc quan rằng tôi sẽ khoẻ mạnh, nhưng tôi cũng biết rằng tương lai căn bệnh của mình là chưa có gì chắc chắn. Vì thế, tôi luôn chú ý theo dõi những bài nói về phương pháp điều trị mới đối với bệnh hưng - trầm cảm, nhiều hơn mức mà mối quan tâm nghề nghiệp của tôi đòi hỏi. Khi đi thăm một bệnh viện nào đó, tôi thường tới thăm khoa tâm thần, thăm những phòng tách riêng bệnh nhân, phòng điều trị bằng liệu pháp sốc điện (ECT), đi lang thang trong sân bệnh viện và đoán xem tôi sẽ ở đâu nếu phải nhập viện. Một phần tâm trí tôi vẫn nhắc nhở rằng tôi cần phải chuẩn bị cho điều tồi tệ nhất và một phần khác của tâm trí lại tin rằng nếu chuẩn bị đầy đủ cho nó, điều tồi tệ nhất sẽ không xảy ra.

Nhiều năm chung sống với những chu kỳ cao trào của bệnh hưng - trầm cảm đã làm cho tôi thêm bình tĩnh, chuẩn bị tốt hơn và có khả năng xử lý tốt hơn những cơn thay đổi tâm trạng và sinh lực, do tôi chọn phương pháp uống Lithi liều thấp. Tôi hoàn toàn đồng ý với niềm tin tôn giáo của Eliot rằng mọi chuyện đều có lý do của nó và thời gian giúp người ta xây dựng nên mọi vật, nhưng thời gian cũng giúp gió phá vỡ ô cửa sổ đã lung lay”. Vì thế mà ngày nay, tôi đã có thể xử lý dễ dàng hơn những dao động của sinh lực, ý tưởng và sự phấn khích, vốn vẫn xảy ra với tôi. Đầu óc tôi thỉnh thoảng vẫn tràn ngập ánh sáng, tiếng cười, âm thanh và triển vọng. Tiếng cười, sự hồ hởi và thanh thản vẫn dâng lên trong tôi, tràn ra ngoài và lan rộng. Những thời khắc huy hoàng và loé sáng này thường tồn tại trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, để rồi cuộc sống lại tiếp tục đi lên. Tâm trạng hứng khởi và tràn đầy hy vọng của tôi, giống như đang lướt trên nóc của vòng đu quay, luôn nhanh chóng rời trở lại trạng thái tối tăm và mệt mỏi. Thời gian sẽ trôi đi, tâm trạng này sẽ trôi qua và cuối cùng tôi lại là tôi. Nhưng vào một thời điểm nào đó trong tương lại, những khoảnh khắc phấn chấn lòng người này sẽ trở lại trong tâm hồn tôi.

Những khoảnh khắc duyên dáng và độc ác ấy cứ đến rồi lại đi. Chúng đã trở thành một phần máu thịt của cuộc đời tôi, tới mức mà những sắc màu và âm thanh hoang dại của nó nay đã ít lạ lẫm hơn và cũng ít mạnh mẽ hơn.

Tương tự như vậy, sự tăm tối và tồi tệ, mà chắc chắn sẽ xảy ra sau đó, cũng ít tối tăm và ít đáng sợ hơn. Melville đã từng nói: “Dưới những ngôi sao ấy là thế giới của ác quỷ đang bay lượn”. Tuy nhiên, cùng với thời gian, khi đã gặp nhiều ma quỷ, người ta sẽ ít sợ những con quỷ có thể gặp trong tương lai hơn. Mặc dù những cơn điên vào mùa hè thỉnh thoảng vẫn xuất hiện trong tôi, nhưng những điều tệ hại nhất của nó đã không còn nữa, và hầu hết vẻ đẹp và hào quang trước đó cũng nhanh chóng trôi qua. Do sự đúc kết của thời gian, do sự từng trải của kinh nghiệm và do tác dụng của thuốc, nay chúng chỉ còn là những cơn điên ngắn vào mỗi tháng bảy, cho dù thỉnh thoảng chúng vẫn tạo ra tâm trạng đen tối và sự đam mê nồng nàn. Nhưng rồi chúng cũng qua đi. Những người đã trải qua cảm giác đó sẽ nhạy cảm hơn về cái chết và cuộc sống. Giống như sau khi nghe quá quen tai và quá tin vào tiếng chuông báo tử của John Donne, “những người phải chết” sẽ hướng mạnh hơn tới cuộc sống, mà nếu bình thường sẽ không có được.

Tất cả chúng ta đều xây dựng những con đê biển ở trong lòng để ngăn những điều phiền toái của cuộc sống và ngăn cả những sức mạnh ghê gớm trong chính tâm hồn mình. Cho dù bằng cách nào - tình yêu, công việc, gia đình, đức tin, bạn bè, sự khước từ, rượu, ma tuý hay bằng thuốc - chúng ta vẫn phải xây dựng con để ấy từ từ, từng hòn đá một, trong suốt cuộc đời mình. Một trong những khó khăn lớn nhất là làm thế nào để xây dựng một con để đủ cao và mạnh để tạo ra một bến đỗ thực sự và một thánh địa an toàn tránh mọi điều phiền toái và đau đớn, nhưng nó cũng phải đủ thấp và có thể thấm được để dòng nước tươi mát có thể đẩy lui dòng nước lợ. Đối với những ai có tính khí và tâm trạng giống như tôi, thuốc là thành phần không thể thiếu trong bức tường thành này. Nếu không có thuốc, chắc là tôi sẽ thường xuyên bị những con sóng tinh thần xô đẩy và có thể tôi đã bị chết hoặc điện nặng.

Tuy nhiên đối với tôi, tình yêu cũng là một | thành phần tuyệt vời trong bức tường thành ấy. Tình yêu giúp tôi ngăn chặn những điều khủng khiếp và tệ hại, nhưng cũng đồng thời cho phép cuộc sống, cái đẹp và sinh khí thấm vào trong tôi. Khi lần đầu tiên nghĩ tới việc viết cuốn sách này, tôi đã hiểu rằng đó phải là cuốn sách viết về tâm hồn và bệnh tâm thần trong cuộc sống Tuy nhiên, khi bắt tay vào viết, thì nó lại là cuốn sách viết cả về tình yêu. Tình yêu duy trì, tái tạo và bảo vệ cuộc sống. Mỗi khi tâm hồn và trái tim tôi dường như đã chết, thì tình yêu trở lại để tái tạo hy vọng và phục hồi cuộc sống của tôi. Tình yêu đã làm cho nỗi buồn trong tâm hồn nhẹ bớt và vẻ đẹp trong tâm hồn hiển hiện. Tình yêu không chỉ là tấm áo choàng, mà còn là ngọn đèn, soi rọi cho những ngày ẩm thấp và tối tăm.

Từ lâu tôi đã từ bỏ quan niệm cho rằng cuộc đời không có sóng gió, hay thế giới không có những mùa khô giết chết mọi vật. Cuộc sống quá phức tạp và thường xuyên thay đổi tới mức nó không thể là bất cứ thứ gì, trừ chính nó. Về bản chất, tôi là một người quá dễ thay đổi. Tuy nhiên, tôi cũng rất sợ sự can thiệp quá mạnh và không tự nhiên, nhằm kiểm soát quá nhiều những sức mạnh mà về bản chất là không thể kiểm soát nổi. Bao giờ cũng có những nhân tố thúc đẩy, gây rối và chúng sẽ còn đó cho tới khi, như cách nói của Lowell, đồng hồ được tháo ra khỏi cổ tay. Và cuối cùng, chính những giây phút riêng tư, bồn chồn, trống trải, tràn ngập niềm tin hay hăng hái đến điên khùng ấy lại tạo ra cuộc sống, làm thay đổi bản chất và hướng đi của cuộc đời sự nghiệp và tạo ra ý nghĩa và sắc màu cho tình yêu và tình bạn của mỗi con người.

LỜI KẾT

Tôi vẫn thường tự hỏi mình, nếu được chọn lựa, tôi có chọn bệnh hưng trầm cảm hay không. Nếu Lithi không có sẵn hay không có tác dụng đối với tôi, thì câu trả lời đơn giản là “không” và đó cũng là câu trả lời pha lẫn sự hoảng sợ. Tuy nhiên, Lithi đã có tác dụng đối với tôi và vì thế tôi nghĩ rằng mình có đủ khả năng đối mặt với câu hỏi này. Điều kỳ lạ là tôi nghĩ tôi có thể sẽ chọn bệnh này. Đây là vấn đề rất phức tạp. Tình trạng trầm cảm là vô cùng tệ hại, mà không một lời nào, một âm thanh nào hay một hình ảnh nào có thể miêu tả được. Tôi cũng không nói nhiều về tình trạng này nữa. Nó làm mất đi các mối quan hệ, do nghi ngờ, do không tin tưởng và thiếu tự trọng. Nó làm mất khả năng hưởng thụ cuộc sống. Nó làm cho người ta không thể đi lại, nói năng và suy nghĩ một cách bình thường. Nó mang tới sự kiệt quệ, những đêm dài khủng khiếp và những ngày dài hoảng sợ. Chẳng có gì tốt đẹp để nói về nó cả, ngoại trừ nó giúp bạn hiểu thế nào là già, thế nào là ốm yếu, thế nào là chết, thế nào là chậm hiểu, thế nào là vô duyên, mất lịch sự và thiếu hợp tác, thế nào là xấu xa, mất niềm tin vào cuộc sống, mất hứng thú trong quan hệ tình dục, không hiểu được những nét tinh tế của âm nhạc và mất khả năng làm cho chính bạn và những người khác có thể cười.

Một số người nói rằng họ biết thế nào là trầm cảm, bởi vì họ đã từng trải qua cuộc sống li hôn, mất việc hoặc mất quan hệ với một ai đó. Tuy nhiên, trải nghiệm này mang theo nó cảm giác thực. Còn trầm cảm thì vô vị, trống rỗng và không thể chịu đựng được. Nó làm cho người ta mệt mỏi. Khi bị trầm cảm, bạn không thể chịu đựng được sự có mặt của những người xung quanh. Họ có thể nghĩ rằng họ nên và thậm chí cố gắng ở lại bên bạn. Tuy nhiên, bạn biết và họ cũng biết rằng bạn là người chán ngắt tới mức không thể chịu đựng được. Bạn cáu kỉnh và hoang tưởng, không còn một chút hài hước nào và mất hết sinh khí, bạn chỉ trích hết thảy và đòi hỏi quá nhiều và không một lời an ủi nào có thể làm cho bạn hài lòng. Bạn hoảng sợ và ngày càng hoảng sợ. Bạn “chẳng phải là bạn một chút nào, nhưng sẽ sớm trở lại là bạn”. Tuy nhiên, bạn biết rằng bạn sẽ không thể.

Thế thì tại sao tôi lại muốn căn bệnh này?

Bởi vì, tôi thực sự tin rằng nhờ có nó mà tôi biết nhiều điều hơn và sâu sắc hơn; tôi có nhiều kinh nghiệm hơn và có cảm giác mạnh mẽ hơn; yêu nhiều hơn và cũng được yêu nhiều hơn; cười nhiều hơn vì đã từng phải khóc nhiều hơn; hiểu rõ hơn giá trị của mùa xuân vì đã từng trải qua những mùa đông; thấy cái chết đến sát bên mình và vì thế hiểu rõ hơn giá trị của cái chết - và cuộc sống, nhìn thấy những điều tốt đẹp nhất, cũng như những gì tệ hại nhất ở con người và dần dần nhận rõ giá trị của sự chăm sóc, lòng trung thành và sự giúp đỡ. Tôi thấy được bề rộng, chiều sâu, sự phóng khoáng của tâm hồn và trái tim tôi, thấy được sự mong manh của chúng và cũng thấy được lý do vì sao chúng không thể hiểu nổi. Khi trầm cảm, tôi đã từng phải bò qua phòng và đã từng phải bò như thế hết tháng này qua tháng khác. Tuy nhiên, khi bình thường hay khi bị điên, tôi lại chạy nhanh hơn, suy nghĩ nhanh hơn và yêu nhanh hơn hầu hết những người mà tôi biết. Tôi nghĩ rằng hầu hết những chuyện này là có liên quan tới căn bệnh của tôi - đó là sức sống mạnh mẽ truyền vào mọi việc và tầm nhìn rộng mà nó tạo ra trong tôi. Tôi nghĩ rằng căn bệnh đã giúp tôi kiểm nghiệm giới hạn của tâm hồn mình (một việc dù muốn cũng khó thực hiện được) và kiểm nghiệm giới hạn của sự dạy dỗ, của gia đình, của nền giáo dục và của bè bạn.

Vô vàn lần hưng cảm nhẹ và chính bệnh điện đã tạo ra trong tôi khả năng nhạy cảm, hiểu biết và suy nghĩ khác. Ngay cả khi bị tâm thần nặng rơi vào ảo giác, u mê hay điên loạn - tôi vẫn phát hiện ra những góc mới trong tâm hồn và trái tim mình. Một vài góc rất lạ thường và đẹp đẽ, tới mức nó làm cho tôi phải nghẹt thở và tôi có cảm giác rằng tôi có thể chết ngay lúc bấy giờ để giữ mãi những hình ảnh ấy. Có một vài góc rất kỳ cục và tệ hại, tới mức tôi không bao giờ muốn biết rằng chúng đang tồn tại ở đó hay muốn thấy lại chúng. Tuy nhiên, bao giờ cũng có những góc mới . và khi tư duy trở lại bình thường, nhà thuốc và tình yêu - tôi không thể hình dung được vì sao cuộc đời lại buồn tẻ đến thế, bởi vì tôi biết những góc đó là vô hạn và tầm nhìn của nó cũng là vô hạn.

 

HẾT






menu
menu