Thời thơ ấu định hình hành vi của chúng ta ra sao

Chúng ta phải khắc ghi trong đầu rằng bố mẹ chúng ta cũng bị ảnh hưởng từ bố mẹ của bố mẹ – giống như chúng ta, bố mẹ cũng là nạn nhân của chính quá trình bố mẹ được nuôi dạy.
Bài này trích từ cuốn sách "Khám phá đứa trẻ bên trong bạn” của tác giả, nhà tâm lý học lâm sàng người Đức Stefanie Stahl
Nhắc đến “ngôi nhà thời thơ ấu”, bạn nghĩ đến một chỗ trú an toàn, một mái ấm tràn ngập tiếng cười và tình yêu của bố mẹ đã luôn che chở, nuôi bạn khôn lớn, đúng không? Xét theo chiều hướng lý tưởng thì đúng là như vậy. Nhưng với người có tuổi thơ không mấy tốt đẹp, thậm chí là tiêu cực đến nỗi sang chấn tâm lý, liệu họ có ngôi nhà thời thơ ấu tồn tại trong vô thức? Điều đáng buồn là không! Từ đó dẫn đến việc họ phải đi tìm mái ấm mơ hồ từ người khác dành cho mình, bởi họ không có niềm tin ở bản thân.
Tâm lý học gọi những ảnh hưởng thời thơ ấu dù tiêu cực hay tích cực mà chúng ta trải qua là “đứa trẻ nội tâm”. Nói cách khác, đứa trẻ nội tâm là một phần không nhỏ của vô thức, đó là nỗi sợ, mối bận tâm và nghịch cảnh của mỗi người từ khi còn nhỏ đến giờ. Nếu bạn thiếu hiểu hết về đứa trẻ bên trong, điều đó sẽ ảnh hưởng rất nhiều khi bạn trưởng thành, ngăn trở sự phát triển cá nhân lẫn các mối quan hệ xung quanh. Nếu bạn muốn bắt đầu tin tưởng bản thân, hãy chấp nhận phiên bản không hoàn hảo của chính mình để cảm nhận được ngôi nhà bình yên nơi bạn thuộc về.
Trong cuốn sách “Khám phá đứa trẻ bên trong bạn”, tác giả Stefanie Stahl sẽ giúp bạn kết nối với đứa trẻ bên trong để tìm được mái ấm cho riêng mình, cách đạt được hạnh phúc, điều tiết cảm xúc và tin tưởng bản thân, xây dựng các mối quan hệ lành mạnh hơn. Và hãy nhớ rằng, chỉ khi nào gặp gỡ, kết bạn được với đứa trẻ nội tâm, bạn mới dần tìm ra được khát vọng thầm kín, những vết sẹo khắc sâu trong chính con người mình. Đồng thời đó cũng là chiếc khiên bảo vệ bạn khỏi những mối quan hệ độc hại không mong muốn.
Thời thơ ấu định hình hành vi của chúng ta ra sao
Khi đứa trẻ nhận được quá ít sự công nhận hay thấu hiểu về nhu cầu cơ bản, chúng sẽ mất rất nhiều thời gian để cố gắng giành lấy sự công nhận và thấu hiểu này. Đứa trẻ gần như sẽ làm bất kỳ việc gì để bố mẹ hài lòng. Nếu bố mẹ khiếm khuyết khả năng yêu thương và/ hoặc gặp nhiều khó khăn trong việc cảm thông với con cái, đứa trẻ sẽ gánh vác trách nhiệm cho thành công của mối quan hệ.
Nếu bố mẹ cực kỳ nghiêm khắc và kỳ vọng con cái luôn ngoan ngoãn biết điều, đứa trẻ sẽ cố gắng đáp ứng những tiêu chuẩn này, hoặc vì muốn bố mẹ hài lòng, hoặc đơn giản chỉ để tránh bị phạt. Để cân chỉnh tốt hơn, đứa trẻ phải kìm hãm những cảm xúc, mong muốn mâu thuẫn với các tiêu chuẩn đó. Chẳng hạn, đứa trẻ sẽ không học được cách đối phó thích hợp với cơn giận. Giận dữ phục vụ cho một mục đích cụ thể trong cuộc sống, nó cho phép chúng ta khẳng định bản thân và những ranh giới của chính mình. Khi bố mẹ thường xuyên dập tắt nỗ lực tự khẳng định bản thân của đứa trẻ, chúng sẽ học được rằng áp chế cơn giận của chính mình mang lại nhiều ý nghĩa hơn. Đứa trẻ sẽ không bao giờ học được cách quản lý loại cảm xúc này, cũng như chẳng bao giờ học được cách khẳng định bản thân thích hợp. Chúng sẽ phát triển các hệ thống tín niệm nội tại như: “Mình không được phép bênh vực bản thân”, “Mình không được phép tức giận”, “Mình cần phải hòa hợp”, “Mình không được phép có ý chí tự do riêng”.
Sau này lớn lên – điển hình là trong giai đoạn thanh thiếu niên – đứa trẻ có thể sẽ bắt đầu nổi loạn chống lại kỳ vọng của bố mẹ và bị áp lực phải gò ép bản thân. Tuy nhiên, đứa trẻ vẫn cứ mắc kẹt trong đống tàn tích của cách thức được nuôi dạy, do bị hạn chế bởi lập trường trái ngược mà bản thân đã tuân thủ suốt bao nhiêu năm. Cứ theo đà này, đứa trẻ sẽ nhanh chóng nghĩ người khác vượt trội, cao cấp hơn mình và hồi đáp bằng cách tự điều chỉnh bản thân hoặc nổi loạn chống lại họ. Chỉ đến khi bắt đầu hiểu về đứa trẻ bóng tối bên trong – việc này cho phép đứa trẻ phá bỏ những ảnh hưởng đã bén rễ sâu và hệ thống niềm tin thâm căn cố đế, chúng mới bắt đầu cảm thấy bản thân và những người xung quanh bình đẳng, ngang hàng.
1, Xin mẹ hãy hiểu con! Năng lực cảm thông của các bậc làm bố mẹ
Những ông bố bà mẹ ít đồng cảm với con cái sẽ rất chật vật để thực sự nắm bắt cảm xúc, nhu cầu của con. Điều này sẽ khiến đứa trẻ nghĩ “Những gì mình đang cảm thấy và suy nghĩ là sai,” trong khi cảm xúc của đứa trẻ lúc đó thực sự đúng đắn. Các bậc phụ huynh khó đồng cảm với con cái rất ít khả năng tiếp cận được với cảm xúc chân thật của đứa trẻ, bởi sợi dây liên kết những cảm xúc đó là điều kiện tiên quyết của sự đồng cảm. Chẳng hạn, nếu đứa trẻ buồn vì bạn bè không muốn chơi cùng, người mẹ phải nắm bắt được cảm xúc buồn bã đó của con, nếu không sẽ chẳng thể đồng cảm. Nếu người mẹ quen giải quyết nỗi buồn riêng bằng cách lờ đi hoặc gạt nó sang một bên, cô ta sẽ làm y như thế với nỗi buồn của con. Vì không biết phải làm sao, rất có thể cô ta sẽ đưa ra lời nhận xét phũ phàng, bảo con đừng sướt mướt thế, đám bạn của con chỉ là lũ ngốc. Đứa trẻ sẽ học được rằng việc chúng cảm thấy buồn chẳng tốt lành gì và chúng không giỏi kết bạn lắm. Nếu người mẹ (hoặc người chăm sóc khác) thoải mái với cảm xúc tiêu cực của chính mình, cô ta có thể thừa nhận và hồi đáp lại nỗi buồn đứa trẻ đang trải qua. Trong trường hợp đó, cô ta có thể đáp lời con: “Ôi con yêu, mẹ hiểu con đang buồn vì hôm nay Jonas không muốn chơi với con.” Sau đó, cô ta sẽ lướt qua một loạt các nguyên nhân khả dĩ giải thích cho hành vi của Jonas đồng thời thảo luận xem con mình có làm gì góp phần gây nên nông nỗi này không. Giờ đứa trẻ sẽ học được cách đặt tên cho cảm xúc của mình – trong trường hợp này là nỗi buồn. Khi nhu cầu được thấu hiểu, đứa trẻ hiểu mình sẽ không bị xua đuổi. Cuối cùng, đứa trẻ học được rằng vấn đề chúng đang gặp phải hoàn toàn có thể giải quyết.
Đứa trẻ học cách phân biệt, đặt tên cho cảm xúc của mình từ hành động cảm thông của bố mẹ. Bố mẹ phản hồi cho đứa trẻ biết những cảm xúc chúng đang có về cơ bản chẳng vấn đề gì, chúng cũng sẽ học được cách quản lý, điều chỉnh cảm xúc theo phương pháp thích hợp. Bởi vậy, sự đồng cảm của bố mẹ được công nhận là tiêu chí quan trọng nhất trong việc nuôi dạy con cái. Người ta nhìn nhận nó như một vật trung gian, qua đó chúng ta được định hình theo cách tích cực, hoặc tùy từng trường hợp là tiêu cực.
2, Từ di truyền đến tính cách: Những nhân tố khác ảnh hưởng đến đứa trẻ nội tâm
Giai đoạn những năm 1960 có một khái niệm phổ biến trong lĩnh vực tâm lý học và giáo dục học, đó là khái niệm về tabula rasa, đứa trẻ được hình dung như một “phiến đá trống trơn” từ khi sinh ra. Những người ủng hộ tin rằng tính cách và sự phát triển của con người có thể quy hết cho hoàn cảnh sống và những tác động họ trải qua trong quá trình được nuôi dạy. Tuy nhiên, dưới góc độ nghiên cứu sinh học thần kinh và di truyền trong những năm gần đây, trường phái tư duy này về cơ bản đã thay đổi. Ngày nay chúng ta đã biết di truyền đóng vai trò quyết định trong việc xác định trí thông minh và tính cách của con người. Để minh chứng cho điều này, tôi muốn xem xét các đặc điểm tính cách được xác định bởi gene của người hướng nội và người hướng ngoại.
Những đặc điểm này được thể hiện theo các cách thức riêng biệt: người hướng nội “sạc pin” bằng cách ở một mình, họ cảm thấy các hoạt động xã hội ngốn pin của họ nhanh hơn so với người hướng ngoại, cũng không đòi hỏi nhiều sự tương tác bằng. Khi được hỏi, họ sẽ tự hỏi lòng mình rất nhanh rồi mới trả lời. Trong khi đó, những người hướng ngoại có thể bắt đầu nói ngay từ thời điểm họ vẫn đang suy nghĩ về câu trả lời. Bất kể kết quả tốt xấu, đôi khi họ vẫn tự cảm thấy ngạc nhiên với phản ứng của mình. Họ sạc pin năng lượng trong những tình huống giao tiếp dễ chịu và thường không thích ở một mình. Nhìn chung, yêu cầu của họ với các tác nhân kích thích bên ngoài cao hơn so với người hướng nội, để cảm thấy được khuấy động và khơi gợi hứng thú. Còn người hướng nội lại phản ứng nhạy cảm hơn với kích thích kiểu đó và dễ bị quá tải cảm nhận hơn người hướng ngoại.
Nhu cầu với tương tác cá nhân trái ngược nhau nên người hướng nội và người hướng ngoại khác nhau cả về phong cách làm việc – yếu tố có thể ảnh hưởng đến lựa chọn nghề nghiệp của họ. Nói chung, người hướng nội có xu hướng thích môi trường làm việc yên tĩnh, ít bị làm phiền, ở đó họ có thể đắm chìm trong công việc suốt nhiều giờ đồng hồ hoặc nhiều ngày liền. Người hướng ngoại gặp thuận lợi hơn khi tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Họ thường lựa chọn những nghề nghiệp thỏa mãn nhu cầu này, hoặc sau một giai đoạn tập trung – bất kể trên mạng hay ngoài đời thật – họ sẽ cần một chút tương tác xã hội nho nhỏ để tự phục hồi.
Người có thiên hướng hướng ngoại dễ cảm thấy cô đơn chán nản hơn người hướng nội nếu họ chỉ có một mình, bất kể họ được nuôi dạy ra sao hay đứa trẻ bóng tối và đứa trẻ ánh sáng bên trong họ được định hình thế nào.
Dẫu vậy, năng lực tiếp nhận cũng như sự nhạy cảm với nỗi sợ vốn đã có sẵn trong gene, góp phần vào cách chúng ta phát triển lòng tự tôn. Một vài đứa trẻ từ khi sinh ra tâm tính đã mạnh mẽ hơn người. Theo nghiên cứu, 10% trẻ nhỏ sinh ra đã “bất khả xâm phạm” – những đứa trẻ này ít nhiều cho thấy bản thân không thể bị thương tổn, lòng tự tôn của chúng còn nguyên vẹn dù trải qua thời thơ ấu gian nan.
Lực tác động giữa các đặc điểm tính cách của đứa trẻ và bố mẹ cũng góp phần ảnh hưởng tới chúng. Các nhà tâm lý học gọi đây là “sự hòa hợp” giữa bố mẹ và con cái. Chẳng hạn nếu đứa trẻ nhạy cảm bẩm sinh nhưng người mẹ chỉ bộc lộ chút đồng cảm ít ỏi, người mẹ có thể gây hại cho con cái nhiều hơn là khi đứa trẻ sinh ra đã “da dày thịt béo”. Tương tự, bố mẹ của những đứa trẻ hiếu động thái quá và/ hoặc “có vấn đề” sẽ gặp khó khăn trong việc hồi đáp đúng đắn về mặt cảm xúc và giáo dục nhiều hơn so với bố mẹ của những đứa trẻ “ít phải quan tâm”.
Những đứa trẻ có xu hướng tăng động khó điều tiết nguồn năng lượng dư thừa của mình, điều đó dễ khiến người khác bực bội. Do đó, chúng thường nhận được phản hồi từ bạn bè đồng trang lứa và thầy cô giáo rằng bản thân đang không bình thường. Như một lẽ tất nhiên, những đứa trẻ này sẽ phát triển mức độ tự tôn thấp, ngay cả khi chúng được bố mẹ yêu thương. Không chỉ bố mẹ mà cả những người quan trọng khác – chẳng hạn bạn bè, thầy cô giáo và ông bà – cũng ảnh hưởng đến sự phát triển của đứa trẻ.
Những ảnh hưởng chúng ta mang theo từ thời thơ ấu không chỉ do cách được bố mẹ nuôi dạy mà trên hết, chúng dựa trên sự tương tác giữa vài yếu tố. Nghĩa là bố mẹ chỉ cung cấp một nền tảng thiết yếu. Đứa trẻ càng bất ổn do cuộc sống gia đình càng không có sức chống cự trước hành vi gây tổn thương của người khác. Mặt khác, đứa trẻ sống cùng bố mẹ biết quan tâm và đồng cảm, nếu chẳng may bị bạn bè đồng trang lứa bắt nạt, so với đứa trẻ có bố mẹ ít thông cảm cho cảm xúc của con, chúng sẽ được đối xử khác biệt hơn lúc ở nhà.
3, Đứa trẻ bóng tối và hệ thống tín niệm của nó
Nếu chúng ta muốn giải quyết các vấn đề đang phải đối mặt, chúng ta cần hiểu được bản chất vấn đề có thật đó ở tầng sâu hơn. Quan trọng là đứa trẻ bóng tối bên trong chúng ta có cơ hội được lên tiếng, để chúng ta có thể nhận ra điểm yếu của mình – hay còn gọi là tác nhân kích thích... Có nhiều người thà không tiếp xúc với phần tính cách này của họ còn hơn. Họ không muốn khuấy động những vết thương và nỗi sợ bên trong mình. Đây là một chiến lược tự phòng vệ bẩm sinh, cũng là mong muốn có thể lý giải được. Làm gì có ai thích cảm thấy buồn bã, sợ hãi, kém cỏi hay tuyệt vọng cơ chứ? Tất cả chúng ta đều thích tránh né những cảm xúc tiêu cực đó và chỉ tập trung vào hạnh phúc, niềm vui thú với tình yêu. Chính vì lẽ đó, nhiều người cố áp chế nỗi đau trong lòng mình. Nói cách khác, họ gạt đứa trẻ bóng tối sang một bên khi nó cố gắng lên tiếng. Vấn đề ở đây là đứa trẻ bóng tối hành xử rất giống một đứa trẻ bình thường: bạn càng ít dành sự chú ý cho nó, nó lại càng đòi hỏi nhiều hơn. Tuy nhiên, khi các mối quan tâm của đứa trẻ được chú ý, chúng sẽ vui vẻ rút lui và tự chơi một mình trong một khoảng thời gian.
Đứa trẻ bóng tối cũng không khác mấy, khi nó bị ngăn không được biểu đạt nỗi sợ, sự xấu hổ hay cơn giận dữ, những cảm xúc này sẽ chỉ càng bén rễ sâu vào nền tảng ý thức của chúng ta, ở đó chúng thỏa sức tàn phá còn chúng ta lại chẳng hề hay biết. Và rồi chúng ta phải nếm trải những gì thường xảy ra với Michael: hết lần này tới lần khác, đứa trẻ bóng tối bực bội, ức chế phá tan xiềng xích giải phóng cơn thịnh nộ của mình ra thế giới.
Trong nhiều cuốn sách self-help và các tài liệu chuyên môn, cảm xúc thường là tất cả những gì bắt nguồn từ bộ phận nhân cách được biết đến với cái tên “đứa trẻ nội tâm”. Tuy nhiên, tôi sẽ tranh luận rằng đứa trẻ nội tâm (bao gồm cả phần ánh sáng lẫn bóng tối) cũng được định hình bởi hệ thống tín niệm nội hiện hóa mà nhìn chung còn là tiền thân của cảm xúc con người. Như đã trình bày ở trên, tín niệm là một niềm tin ăn sâu bén rễ thể hiện sự tự tôn của chúng ta và các mối quan hệ với những người xung quanh. Nếu đứa trẻ cảm thấy được bố mẹ yêu thương và đón nhận, chúng sẽ phát triển các tín niệm chẳng hạn như “Mình được hoan nghênh”, “Mình được yêu thương” và “Mình quan trọng”, tất cả sẽ tăng cường sức mạnh cho đứa trẻ ánh sáng. Ngược lại, nếu bố mẹ lạnh lùng và quen từ chối con cái, đứa trẻ sẽ dần tin rằng “Mình không được chào đón”, “Mình là một gánh nặng” hoặc “Mình có nhiều thiếu sót”, điều đó cũng định hình đứa trẻ bóng tối. Khi hệ thống tín niệm phát triển vào thời thơ ấu, chúng cố thủ trong vô thức chúng ta, xâm nhập đời sống tinh thần của chúng ta khi lớn lên mà không bị ai phát hiện. Chúng ảnh hưởng đáng kể tới cách chúng ta nhận thức, cảm giác, suy nghĩ và cư xử.
Tôi muốn gọi tên Michael và Sarah lần nữa để minh họa cách thức hoạt động của tín niệm. Như chúng ta đã biết, mẹ Michael ít quan tâm chú ý tới Michael và cả những mong muốn của anh ấy. Michael có hai em ruột, bố mẹ kinh doanh hàng bánh riêng. Mẹ anh ấy chỉ đơn giản là quá căng thẳng và kiệt sức nên không thể dành sự chú ý và thời gian cho con cái. Bố anh ấy không thể bù đắp cho sơ sót của vợ vì cũng phải làm việc mọi lúc. Thiếu vắng sự chăm sóc của bố mẹ về cả thể chất lẫn tinh thần, nhu cầu kết nối, củng cố lòng tự tôn của Michael thường bị cản trở. Do đó, anh ấy nảy sinh những tín niệm như “Mình không thỏa mãn” và “Mình không quan trọng”. Anh ấy không hề hay biết những tín niệm đó đã ảnh hưởng tới nhận thức của mình đến tận bây giờ. Mỗi khi cảm thấy không được ngó ngàng, đứa trẻ bóng tối trong anh ấy lập tức nổi khùng lên: “Lại nữa rồi! Mình không bao giờ được thỏa mãn hết.” Những tín niệm này là nguyên nhân thực sự khiến Michael phát cáu khi Sarah (được cho là) ít để ý đến anh ấy và mong muốn của anh ấy.
Còn bố mẹ Sarah rất quan tâm con cái nhưng lại có tiêu chuẩn cao. Họ đặt ra các quy tắc nghiêm ngặt thứ gì chấp nhận được, thứ gì không. Sarah thường cảm thấy trong mắt bố mẹ cô ấy chẳng làm nổi việc gì đúng đắn. Bố mẹ Sarah khen con thì ít mà chỉ trích mắng mỏ thì nhiều. Nhu cầu được công nhận, củng cố lòng tự tôn của Sarah vì thế cũng bị bố mẹ làm tổn thương vô số lần, cả nhu cầu tự chủ, phát triển không giới hạn của cô ấy cũng vậy. Đứa trẻ bóng tối trong Sarah sản sinh ra những tín niệm kiểu như: “Mình thật thiếu sót” và “Mình phải điều chỉnh lại”. Rất dễ thấy đứa trẻ bóng tối bên trong Michael và Sarah tương tác với nhau kiểu gì. Sự thiếu kiên định của Michael – hay đúng hơn là đứa trẻ bóng tối trong anh ấy – và những lời chỉ trích thậm tệ về thất bại nhỏ xíu của Sarah đã tác động sâu sắc đến đứa trẻ bóng tối bên trong cô ấy, khiến nó cảm thấy bản thân thật bé nhỏ, vô giá trị và kém cỏi. Đứa trẻ bóng tối của Sarah hồi đáp những cảm xúc này bằng sự giận dữ, nước mắt và những lời buộc tội chính mình. Sự hội tụ của các yếu tố khiến cuộc chiến giữa họ nhanh chóng leo thang.
Các tín niệm của chúng ta có thể được nhìn nhận tương tự hệ điều hành thần kinh. Nói đơn giản nhất, các tín niệm thực thi quyền lực to lớn với chúng ta – chính xác hơn, với đứa trẻ bóng tối và ánh sáng bên trong chúng ta – bất chấp hậu quả tốt xấu. Hệ thống tín niệm là lăng kính để chúng ta nhìn nhận thực tại. Đó là lý do tại sao giải quyết vấn đề này lại quan trọng đến thế.
4, Đứa trẻ bóng tối bị chiều hư
Hệ thống tín niệm tiêu cực không chỉ bắt nguồn từ cảm giác bị tước đoạt, bỏ mặc hay bảo bọc quá mức. Bố mẹ nuông chiều, chu cấp cho con cái quá nhiều có thể khiến chúng nảy sinh ấn tượng rằng mọi thứ phải xảy ra theo lẽ đó – và về phía mình, chúng sẽ rất ít nỗ lực. Thay vì đánh giá thấp bản thân, những đứa trẻ này lại quá đề cao tầm quan trọng của mình. Đối với chúng, nhận được bất kỳ thứ gì mình muốn là điều hiển nhiên, trong những dịp hiếm hoi không phải như vậy, chúng sẽ rất tức giận. Những đứa trẻ bị chiều hư có mức độ chịu đựng thất vọng thấp. Nói cách khác, chúng không giỏi đối mặt với nỗi thất vọng khi mọi thứ không được như ý. Đứa trẻ trải qua những khó khăn nhất định có kinh nghiệm điều tiết cảm xúc tốt hơn, còn đứa trẻ bị chiều hư không phát triển được kỹ năng này tới cấp bậc tương tự. Chúng sẽ chẳng bao giờ học được cách tham gia cùng hoặc dung hòa với các hội nhóm – khi về nhà với bố mẹ, chúng mới là người nắm quyền. Những tín niệm của chúng sẽ toàn: “Mình rất quan trọng”, “Mình luôn được hoan nghênh”, “Mình muốn gì được nấy”, “Mình xứng đáng nhận được tất cả”, “Mình mạnh mẽ hơn bất kỳ ai” hoặc “Mình tuyệt nhất”. Điều này có thể khiến chúng gặp nhiều khó khăn trong việc hòa nhập và chúng thường làm phiền người khác, bất kể ở lớp mẫu giáo, trường học hay sau này khi đã trưởng thành. Sẽ đến thời điểm chúng học được rằng không phải mọi thứ trên đời đều miễn phí, đôi khi chúng cần cố gắng một chút mới được. Nhận thức này thường xuất hiện thời đi học, khi nhiều người phải vất vả học tập để duy trì thành tích tốt hoặc thậm chí cuối cùng phải bỏ học. Trong nhiều trường hợp ít cực đoan hơn, những người thuở nhỏ được chiều hư sẽ thoải mái dung nhập các hội nhóm và được mọi người đánh giá là chăm chỉ, nhưng họ vẫn gặp khó khăn khi đối mặt với trở ngại. Chẳng hạn, bị đối tượng mình yêu thầm từ chối để lại cho họ nỗi buồn lớn lao, chỉ đơn giản vì họ không quen với việc không nhận được những gì mình muốn.
5, Chỉ trích bố mẹ mình? Nghe thì dễ chứ thực ra khó lắm
Khi cố gắng phân tích thời thơ ấu và quá trình bản thân được nuôi dạy, nhiều người trong chúng ta bài xích việc đổ lỗi cho bố mẹ vì những vấn đề của chính mình. Các khách hàng của tôi thường xuyên cảm thấy mâu thuẫn khi được yêu cầu nghiêm khắc nhìn nhận về bố mẹ. Họ yêu bố mẹ và cảm thấy biết ơn bố mẹ rất nhiều. Khách hàng của tôi cảm thấy có lỗi khi được yêu cầu nhớ lại xem bố mẹ mình có những hành động nào chẳng mấy tốt đẹp không. Họ cảm thấy mình đang phản bội bố mẹ theo một cách nào đó. Qua đây tôi muốn nhấn mạnh, không phải chúng ta đang phủ nhận mọi thứ bố mẹ làm cho mình và buộc tội bố mẹ vì những vấn đề chúng ta gặp phải khi lớn lên. Thay vì vậy, chúng ta chỉ tìm hiểu sâu hơn về những ảnh hưởng từ gia đình mà chúng ta luôn mang theo bấy lâu, không chỉ gồm những việc đáng bị chỉ trích mà còn cả các tác động tốt đẹp bố mẹ dành cho chúng ta. Chúng ta phải khắc ghi trong đầu rằng bố mẹ chúng ta cũng bị ảnh hưởng từ bố mẹ của bố mẹ – giống như chúng ta, bố mẹ cũng là nạn nhân của chính quá trình bố mẹ được nuôi dạy.
Chẳng hạn như bố mẹ tôi, rất giàu tình yêu thương. Bố mẹ chuẩn bị và lên kế hoạch cho chuyến ghé thăm của tôi, hầu hết ký ức tuổi thơ của tôi đều rất vui vẻ. Tuy nhiên, mẹ tôi không phải kiểu người chịu dung thứ cho sự yếu đuối trong lòng mình. Mẹ là chị cả của chín anh chị em, khi mẹ chỉ mới mười một tuổi, Thế chiến Thứ hai nổ ra, mà chiến tranh làm gì có chỗ cho yếu đuối. Mẹ phải có năng lực sinh tồn. Sau này, khi thấy tôi buồn, đôi lúc mẹ tỏ ra hơi bất lực, bởi mẹ cũng không thể xử lý cảm giác yếu đuối của chính mình. Điều đó đã đặt nền móng cho một số tín niệm của tôi, chẳng hạn như “Mình phải mạnh mẽ” và “Khóc lóc thật xấu hổ”. Những ông bố bà mẹ yêu thương con cái không phải lúc nào cũng đúng.
Một câu hỏi quan trọng khác nữa là bố mẹ có thể làm gương cho con cái như thế nào. Chẳng hạn, một cô gái chứng kiến người mẹ yêu thương mình nhưng lại khá nhu nhược không ngừng cố gắng điều chỉnh bản thân để hòa hợp với người chồng gia trưởng. Noi gương mẹ, cô gái có thể sẽ đi đến kết luận “Phụ nữ đều yếu đuối”, “Mình cần sửa đổi”, “Mình không được phép cãi lại”. Hoặc cô ấy sẽ phân rõ giới hạn với mẹ bằng cách phát triển những tín niệm như “Mình phải tự bảo vệ bản thân”, “Mình sẽ không bao giờ bị khuất phục đâu” hoặc “Đàn ông đều nguy hiểm”.
Những chuẩn mực, giá trị được phản ánh trong gia đình cũng đóng vai trò trung tâm. Ví dụ, những bậc phụ huynh yêu thương con cái nhưng lại cảm thấy không thoải mái về vấn đề tình dục có khả năng sẽ ảnh hưởng tới con theo kiểu: sau này lớn lên, con cái rất khó phát triển mối quan hệ bản năng với cơ thể và hoạt động tình dục của chính mình. Vì vậy, ngay cả những người hàm ơn bố mẹ quá nhiều cũng sẽ nhiễm phải một số tín niệm cần xem xét lại và chúng sẽ đi theo họ đến tuổi trưởng thành.
Một số người sẽ vấp phải khó khăn cực độ mới có thể nhận định được hình mẫu thực sự của bố mẹ. Chuyện này thường xảy ra khi người bố thao túng thái độ của đứa trẻ về mẹ chúng hoặc ngược lại. Khi người mẹ thường xuyên tiêm nhiễm vào đầu đứa trẻ suy nghĩ bố chúng là người bố tệ hại, đứa trẻ sẽ dần nhìn nhận bố mình qua lăng kính quan điểm của mẹ. Sau nhiều năm làm nhân chứng chuyên môn tại tòa án gia đình, tôi đã tận mắt nhìn thấy những hậu quả lâu dài mà hành vi kiểu này gây ra: suốt phần đời còn lại, đứa trẻ có mối quan hệ lạnh nhạt hoặc thậm chí cắt đứt quan hệ với bố mình. Tương tự như vậy với những người chồng hay chỉ trích vợ.
Còn một nguyên nhân khác khiến nhiều người khó vẽ ra hình mẫu thực sự cho bố mẹ họ, liên quan đến khuynh hướng con cái thường lý tưởng hóa bố mẹ mình. Đứa trẻ từ khi sinh ra đã vô thức tin tưởng bố mẹ và coi bố mẹ quan trọng hơn hết thảy. Chúng phải lý tưởng hóa bố mẹ mình; nếu không chúng sẽ bị mắc kẹt trong nỗi sợ hãi khi chẳng may gặp phải những người giám hộ thiếu sót, thậm chí hiểm độc. Nhiều người mang theo hình ảnh lý tưởng đó bên mình tới lúc trưởng thành. Việc này có thể khiến họ khó hình dung ra hình ảnh thực tế bao gồm cả điểm mạnh lẫn điểm yếu của bố mẹ. Nếu lớn lên tôi vẫn tiếp tục lý tưởng hóa bố mẹ mình, tôi sẽ chẳng thể tách biệt bản thân với bố mẹ một cách lành mạnh. Và nếu không làm được, tôi sẽ khó tìm ra lối đi riêng trong cuộc đời mình. Muốn hiểu rõ bản thân – điều kiện tiên quyết để phát triển bản thân xa hơn nữa – quan trọng tôi phải tạo dựng được hình ảnh chân thực nhất có thể về bố mẹ và chính bản thân tôi. Hình mẫu chân thực không đứng ở vị trí đối lập với tình cảm sâu sắc. Tôi có thể yêu thương trân trọng bố mẹ vì chính con người họ, nhưng không có nghĩa họ phải hoàn hảo chẳng chút tì vết. Giống như mọi minh chứng về tình yêu trên đời, nếu tôi chỉ yêu vì đối phương hoàn hảo, đó không phải tình yêu thực sự.
(Trích “Khám phá đứa trẻ bên trong bạn” - Stefanie Stahl)
Mời bạn đặt sách tại: