“Tôi đã để tang cô ấy suốt hàng thập kỷ”: Vì sao mối tình đầu có thể in dấu suốt cả cuộc đời

Bạn còn nhớ mối tình đầu của mình không?
Bạn còn nhớ mối tình đầu của mình không? Với tôi, đó là một cậu con trai có đôi mắt đượm buồn, nụ cười e ấp, và tôi thấy cậu ấy thật đẹp. Tôi đã dành hàng tháng trời để tìm cách tình cờ “vô tình” chạm mặt Brad. Cậu học cùng lớp phụ đạo với tôi ở trường cấp hai, nên mỗi ngày ít nhất tôi cũng được nhìn thấy cậu một lần, những lần gặp gỡ khác thì tôi tự tạo ra bằng cách chọn lối đi đặc biệt đến nhà ăn hay khéo léo đăng ký môn thể dục.
Tôi ghi chép tỉ mỉ từng lần gặp gỡ vào nhật ký, và đặt cho Brad (tất nhiên không phải tên thật) một biệt danh là “Gregory” – cái tên mà tôi tin là không ai có thể giải mã, nghe vừa bí ẩn, vừa lãng mạn – có lẽ bởi mẹ tôi từng mê mẩn tài tử Gregory Peck. (Sau này tôi mới biết mẹ đã đọc lén nhật ký của tôi, khi bà hỏi tôi có quen cậu bé nào tên Gregory không – nhưng đó là một câu chuyện khác).
Brad là người nhút nhát, cậu ấy chưa từng hẹn hò với cô gái nào. Tôi dày vò mình bằng những câu hỏi siêu hình khó nhằn như: “Mình thật sự hiểu Brad đến đâu?”, “Mình có thực sự yêu cậu ấy không, hay chỉ là say nắng?” Tôi không hiểu nổi sao Brad lại không thấy rằng chúng tôi sinh ra là để dành cho nhau. Sau hai năm cậu ấy vẫn cứ xa vời như thế, tôi quyết định ngừng yêu. Tình cảm ấy kết thúc đột ngột, như cách nó bắt đầu.
Tuần sau đó, Brad bất ngờ bắt kịp tôi trên đường đến lớp Toán. “Cậu có muốn đi chơi với tớ không?” – cậu hỏi. Với một đứa con gái 15 tuổi như tôi lúc ấy, câu hỏi đó nghe như từ một thế giới khác. Hơn nữa, vì nhút nhát nên tôi thường đánh giá thấp các tín hiệu. “Cậu nói thật à?” – tôi hỏi lại. “Nghiêm túc đấy,” cậu đáp.
Brad và tôi chia tay chỉ hai tuần sau đó, sau một nụ hôn vụng về trong phòng chơi bóng squash giờ thể dục, và tuyệt nhiên không có lấy một cuộc trò chuyện ra hồn. Vậy mà suốt 36 năm qua, tôi vẫn nhớ nguyên vẹn từng lời chúng tôi nói hôm đó trên con đường đi học Toán, cảnh tôi bước đi trước, từng viên gạch lát trên lối đi nhỏ, nụ hôn của chúng tôi trong sân squash, và cả tiếng va chạm khó xử giữa hai hàm răng.
Tôi đã yêu nhiều người sau đó, một cách sâu sắc hơn, trọn vẹn hơn. Nhưng sao ký ức về Brad lại hiện lên rõ ràng hơn tất thảy? Vì điều gì mà mối tình đầu lại bám rễ dai dẳng trong tâm trí đến vậy, và vì sao ta cứ mãi không thể buông tay?
“Chúng ta có thể trải qua vô số mối quan hệ, nhưng ở một khía cạnh nào đó, ta học được nhiều nhất từ mối tình đầu tiên,” – Catherine Loveday, giáo sư tại Trung tâm Khoa học Tâm lý, Đại học Westminster chia sẻ. Tôi từng nghĩ mình chẳng học được gì từ Brad – nhưng có lẽ tiềm thức tôi lại hiểu điều gì đó sâu xa hơn, bởi những câu hỏi này đã không ngừng ám ảnh tôi khi viết cuốn tiểu thuyết Speak to Me.
Illustration: Ula Šveikauskaitė
Câu chuyện kể về một người phụ nữ ám ảnh với chiếc điện thoại của chồng – anh ấy dường như không thể rời tay khỏi nó – trong khi chính cô cũng dần đắm chìm vào những lối thoát riêng. Cô đã đánh mất một hộp thư tay của mối tình đầu và phải đối diện với lựa chọn: tìm lại người cũ, hay để quá khứ ngủ yên.
“Tôi tin là nếu chúng ta đi dọc một con phố và hỏi từng người về mối tình đầu của họ, ai cũng sẽ kể ra rành rọt,” – nhà nhân chủng học sinh học Helen Fisher chia sẻ. Ở tuổi 78, bà đã dành cả đời để nghiên cứu về tình yêu. Bà từng gặp lại người yêu đầu tiên sau hàng chục năm chia xa, và họ đã dành một đêm bên nhau. “Mối tình đầu luôn mang một thứ gì đó kịch tính,” – bà nói – và không thể chỉ giải thích bằng yếu tố mới mẻ, hay cái mà nhà tâm lý trị liệu Philippa Perry gọi là “lây nhiễm xã hội” khiến ta đuổi theo cái gọi là “tình yêu đích thực” ngay từ năm 13 tuổi.
Trong quá trình nghiên cứu, Fisher từng cho những người tham gia nằm trong máy quét não để quan sát hoạt động của các vùng liên quan đến tình yêu. “Tôi đã tìm ra con đường dẫn tới trạng thái yêu điên cuồng,” – bà nói. “Nó thật sự rất thú vị” – con đường ấy bắt nguồn từ một khu vực nhỏ bé nằm sâu trong não, gọi là vùng VTA (ventral tegmental area – vùng dưới đồi giữa).
Fisher từng nghĩ nó sẽ nằm ở vùng vỏ não – nơi xử lý tư duy logic – hoặc ở vùng giữa, nơi trú ngụ của cảm xúc. “Nhưng không. Con đường ấy lại nằm cạnh khu vực điều khiển mọi bản năng thúc đẩy: đói, khát, tìm chỗ trú ẩn, học hỏi, sáng tạo” – và, dĩ nhiên, như Fisher nói, là “nhu cầu di truyền mã gen của bạn cho tương lai.”
Khi đặt những người đang yêu vào máy quét, Fisher phát hiện não họ phát sáng ở các vùng liên quan đến nghiện. “Bạn nghiện chính người mình yêu,” – bà nói. “Nghiện họ.”
Mỗi sáng tôi bước vào lớp, hay “tình cờ” chạm mặt Brad, đều là kết quả từ một cơn lũ dopamine tuôn trào trong vùng VTA của tôi. Dù tình yêu ấy thiếu chiều sâu và tính thực tế, nhưng “nó có sức mạnh cảm xúc rất lớn,” – Loveday nói – “chỉ đơn giản là bởi những gì đang xảy ra trong bộ não của bạn. Việc hệ thống thưởng – hệ thần kinh tạo khoái cảm – được kích hoạt mỗi khi bạn gặp người ấy là yếu tố quan trọng quyết định ký ức ấy sẽ bám theo bạn mãi.”
Khi ta hình thành ký ức, điều đó không phải là chuyện huyền bí hay thần diệu gì. Đó là kết quả của một mạng lưới các tế bào thần kinh cùng nhau hoạt động, mang lại cho ta trải nghiệm nhớ về một điều gì đó. Chúng ta học hỏi qua niềm vui và nỗi đau: điều gì khiến ta thấy dễ chịu thì ta muốn lặp lại, điều gì gây đau đớn thì sẽ tìm cách tránh né. Nói một cách đơn giản, chỉ số vui – buồn ấy chính là chiếc phong vũ biểu hoá học trong não bộ, định đoạt xem điều gì đáng để làm lại – theo đúng nghĩa đen, là củng cố các mạch thần kinh trong não.
Thế nhưng, mối tình đầu hiếm khi trở thành tình cuối. Một trong những vấn đề nảy sinh từ hệ thống hóa học này chính là việc tình yêu đầu đời thường sụp đổ vì sự chênh lệch nghiêm trọng giữa cường độ cảm xúc và khả năng bền vững lâu dài.
Hãy nghe những lời tâm sự từ độc giả của Guardian – những người chưa bao giờ thật sự vượt qua được tình yêu đầu tiên của mình. “Cô ấy chia tay tôi một năm sau khi chúng tôi quen nhau. Từ đó đến nay, tôi vẫn để tang mối tình ấy. Không cô gái nào sánh bằng cô ấy. Ngay cả với vợ mình sau này, tôi cũng không thể yêu sâu sắc như với cô ấy,” một người đàn ông 78 tuổi viết. “Tôi có vài mối quan hệ sau đó, nhưng chẳng mối nào bằng. Tôi đã sống phần lớn cuộc đời trong cô đơn,” người khác bộc bạch. Một độc giả 30 tuổi thì thú nhận: “Tất cả những người đến sau đều bị tôi vô thức đem ra so sánh.” Một người phụ nữ ngoài 60 nói: “Chưa ai có thể khiến tôi rung động như tình đầu với anh ấy.”
Tại sao có những người lại bị ảnh hưởng sâu sắc đến mức không thể yêu một ai khác một cách trọn vẹn nữa? Lance Workman, đồng tác giả cuốn Tâm lý học tiến hóa, cho rằng hiện tượng này từng xảy ra rất phổ biến với những người phụ nữ mất người yêu trong Thế chiến thứ nhất và thứ hai. “Đó là một dạng PTSD – họ cảm thấy mình không còn khả năng yêu lần nữa.”
“Đây là một câu hỏi rất quan trọng,” giáo sư Sue Carter, nhà sinh học thần kinh hành vi tại Viện Kinsey, nhận định. “Bởi những phản ứng hoá học đã tạo nên tình yêu đầu tiên cũng chính là những phản ứng cần thiết để con người vượt qua sang chấn.” Khi một người ngoài 70 nói rằng không có tình yêu nào sau đó còn chạm được đến trái tim mình, “thì điều họ đang nói là: mối tình đầu ấy đã khóa chặt khả năng yêu thương của họ về sau.”
Carter kể một câu chuyện nhỏ về William Masters – bác sĩ phụ khoa và người tiên phong trong lĩnh vực trị liệu tình dục, cùng với Virginia Johnson. Hai người đã kết hôn trong 20 năm rồi chia tay, sau đó Masters cưới người vợ thứ ba – Geraldine Baker, người ông từng quen trong trường y, và tình cờ gặp lại sau nhiều năm. Có người kể rằng thời còn học, ông từng gửi tặng Baker một bó hồng và bức thư tình, nhưng bà chưa bao giờ hồi âm. Phải đến năm 79 tuổi, ông mới biết bà chưa từng nhận được chúng. “Phải chăng tình cảm của ông dành cho Baker khi còn trẻ đã trở thành rào cản khiến ông không thể toàn tâm toàn ý trong những cuộc hôn nhân trước?” Carter đặt câu hỏi. “Trong chuyện tình cảm, ta chỉ có thể suy đoán. Nhưng với sang chấn, có rất nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, nhiều người từng trải qua biến cố đau thương gần như không có khả năng viết lại ký ức ấy theo cách khác.” Và cũng không khó để hình dung rằng một mối tình đầu thất bại cũng có thể để lại di chứng tương tự.
Margaret Magee – một người phản hồi thư mời chia sẻ của Guardian – nói rằng mình không bị sang chấn khi chia tay mối tình đầu Graham ở tuổi 17. Nhưng sau này, “Tôi lại bị sang chấn vì đã để tuột mất anh ấy – một người mà lẽ ra tôi không nên rời xa.” Dù đã kết hôn, cô vẫn giữ những lá thư Graham gửi trong một túi xách nilon, thỉnh thoảng lại lôi ra đọc. “Tôi tìm được sự an ủi trong việc nhìn lại chúng. Tôi nghĩ: ‘Đây là một người thật sự yêu tôi.’ Ngày nào tôi cũng nhớ anh ấy. Nghe thì sướt mướt quá mức, nhưng thật sự là như thế.”
Sau khi hôn nhân tan vỡ, Magee liên lạc lại với Graham, và họ quay trở lại bên nhau. Trong lễ cưới cách đây 10 năm, họ đã cùng nhau nhảy bài Careless Whisper – cũng chính là bài hát họ từng khiêu vũ lần đầu vào sinh nhật 18 tuổi của cô. Giờ đây, cô đã 56 tuổi. “Tôi biết có thể mọi người nghĩ đó là do tâm lý học hay khoa học,” cô nói. “Nhưng tôi tin đó là định mệnh.”
Philippa Perry nói rằng bà thường xuyên gặp những câu chuyện như vậy. (Helen Fisher, nhà nhân chủng học sinh học, cũng kể rằng em gái bà đã kết hôn với mối tình đầu sau nhiều năm xa cách.) “Bạn vẫn nhìn thấy họ như khi xưa,” Perry chia sẻ. Và có lẽ, cũng nhờ đó mà ta có thể nhìn thấy chính mình như đã từng là. “Ta vẫn giữ trong lòng hình ảnh đầu tiên về một người – cái vẻ ngoài, dáng điệu của họ lúc ta gặp lần đầu. Chồng tôi, lần đầu chúng tôi thân mật là khi anh 27 tuổi,” Perry kể. “Giờ anh ấy đã 62, nhưng với tôi, anh vẫn mãi mãi là chàng trai 27 tuổi. Tôi không thể tưởng tượng nổi việc mình sẽ có cảm tình với một người đàn ông già, nếu một ngày nào đó tôi thành góa phụ. Chắc tôi chỉ có thể để mắt tới những người tôi đã quen từ thời thiếu niên.”
Tất nhiên, phần lớn chúng ta không thể tái hợp với mối tình đầu. Vậy thì vì sao ký ức về mối tình ấy vẫn hằn sâu? Tại sao não bộ tôi không gạt phăng Brad như một vật thể vứt đi (tôi hy vọng cậu ấy cũng làm vậy với tôi – đó là một nụ hôn tệ hại), để dành chỗ cho những thông tin quan trọng hơn như hạn nộp bài, lịch khám bác sĩ, hay là… tôi vừa định nói gì nhỉ? Rốt cuộc, tình yêu non nớt khi ta còn trẻ chẳng phải là một loại rác ký ức cần được dọn dẹp hay sao?
“Trời ơi, không đâu. Không, không, không. Ngược lại hoàn toàn,” Loveday thốt lên. “Việc những ký ức ấy còn ở lại – ngay cả khi ta đã bước vào tuổi bảy mươi, tám mươi hay chín mươi – cho thấy đó là một trải nghiệm vô cùng quan trọng. Việc phát hiện ra mối quan hệ, lần đầu được nếm trải tình yêu, là một bước ngoặt có ý nghĩa lớn lao cho suốt phần đời còn lại của chúng ta… Đó không phải là một ký ức vô ích, vì ta vẫn tiếp tục học hỏi từ nó, và vẫn dùng nó làm nền tảng để hiểu chính mình. Những ký ức ấy giúp ta biết mình là ai, là người yêu như thế nào, là kiểu người như thế nào.”
“Tuổi thiếu niên là khoảng thời gian lý tưởng nhất về mặt sinh học – xét trên góc độ hoạt động của não bộ – để ghi nhớ và tạo dựng ký ức,” cô giải thích. Dù càng xa quá khứ, ký ức càng mờ dần, thì riêng giai đoạn tuổi teen lại là một ngoại lệ kỳ lạ – một “cú dội ngược ký ức” đầy mạnh mẽ. Phần lớn những ký ức sâu sắc và rõ nét nhất trong đời ta hình thành từ độ tuổi 10 đến 30, và thường đạt đỉnh vào khoảng 15 tuổi.
Không có gì ngạc nhiên khi rất nhiều độc giả của Guardian vẫn có thể nhớ rõ những lần gặp gỡ đầu tiên của mình như thể đang xem lại một thước phim quay chậm. “Cô ấy mặc đồng phục học sinh màu đen, đeo kính. Cô cầm một cây bút và xoay nó giữa những ngón tay,” một người viết. “Anh ấy ngồi cạnh tôi trên chiếc ghế salon dính dấp trong quán bar và vòng tay qua vai tôi,” người khác hồi tưởng. “Tôi gặp anh ở một buổi tiệc ngủ khi tôi 15 tuổi… một thiếu niên kẻ mắt, mặc sơ mi kiểu nữ, đeo thắt lưng đinh tán. Anh có một luồng khí gì đó bao quanh – như thể anh từng sống nhiều hơn bất kỳ ai trong căn phòng đó.”
Loveday – người vẫn giữ tình bạn với mối tình đầu của mình – chỉ ra rằng, khi được hỏi về những ca khúc có ý nghĩa trong đời, “người ta thường chọn một bài gắn với mối tình đầu. Khi nghĩ đến việc ta đã nghe bao nhiêu bản nhạc trong đời, đã tiếp xúc với bao nhiêu giai điệu… thì phải tự hỏi: vì sao? Vì sao một người ở tuổi 70 – khi có thể chọn bất kỳ ca khúc nào trên đời – lại chọn một bài gợi nhớ về mối tình đầu tiên?”
Đôi khi, cô nói, ta “va phải” những ký ức ấy một cách bất ngờ. Giống như khi vào thư viện tìm một quyển sách, nhưng rồi lại bắt gặp một quyển quen thuộc đang lộ ra một chút trên kệ, khiến ta không thể không chú ý. “Nỗi hoài niệm thường bị mang tiếng xấu,” cô nói. “Nhưng thật ra, với phần lớn mọi người, hoài niệm mang lại rất nhiều lợi ích cho sức khoẻ tinh thần. Có nhiều bằng chứng cho thấy nó khiến ta can đảm hơn, suy nghĩ tích cực hơn và ra quyết định sáng suốt hơn cho tương lai.”
Khi tôi nghĩ về Brad – mà thực lòng thì tôi không làm điều đó thường xuyên lắm – điều còn đọng lại trong tôi không phải là những khoảnh khắc nồng nhiệt, mà là sự im lặng. Cùng với tiếng nghiến răng – nỗi xấu hổ vì có một “bạn trai” mà tôi không thể trò chuyện, và cảm giác như chính sự dè dặt của mình đã làm mọi thứ trở nên vô nghĩa. Tôi đã đặt tên cuốn tiểu thuyết của mình là Hãy Nói Với Em – một câu chuyện về một nhân vật không thể – hoặc có lẽ là không được phép – cất lời. Dù đó là hư cấu, là tiểu thuyết, nhưng nó nói lên tất cả những điều ta muốn và không thể nói thành lời. Vậy nên, có lẽ Loveday nói đúng – rằng tôi vẫn đang học hỏi và tiếp tục sử dụng mối tình đầu ấy theo cách riêng của mình – chỉ là không theo cách mà tôi từng hình dung.
Dịch từ nguồn: https://www.theguardian.com/lifeandstyle/2023/jul/17/why-first-loves-shape-our-lives-for-ever-relationships-memories