Trẻ con ư? Hãy nói không

Bạn không cần ghét trẻ con mới có thể nhận ra những hệ lụy mà việc sinh con mang lại. Có một lý do đạo đức để phản đối việc sinh nở.
Năm 2006, tôi xuất bản một cuốn sách có tên Thà Chưa Bao Giờ Tồn Tại. Trong đó, tôi lập luận rằng việc bước vào cuộc đời này luôn là một sự tổn thương nghiêm trọng. Không ai, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, nên sinh con – đây là quan điểm của "chủ nghĩa phản sinh" (anti-natalism). Khi sách ra mắt, tôi nhận được nhiều thư từ – có những lời cảm ơn, ủng hộ, và tất nhiên, cả những phản ứng phẫn nộ. Nhưng có một bức thư khiến tôi day dứt nhất:
"Từ tuổi thiếu niên, tôi đã phải chịu đựng nỗi đau khủng khiếp vì bị bắt nạt dã man ở trường. Những tổn thương đó ám ảnh tôi đến mức tôi buộc phải bỏ học. Nhưng bi kịch không dừng lại ở đó. Tôi có một ngoại hình rất tệ, đến mức những người xa lạ trên phố cũng thản nhiên chế giễu, khinh miệt. Tôi từng bị gọi là kẻ xấu xí nhất mà họ từng thấy. Nghe những lời đó mỗi ngày thật khó mà chịu nổi. Nhưng điều tồi tệ nhất là, năm 18 tuổi, tôi bị chẩn đoán mắc bệnh tim bẩm sinh nghiêm trọng. Giờ đây, ở tuổi đôi mươi, tôi phải sống chung với suy tim cấp và chứng loạn nhịp nguy hiểm đến tính mạng. Đã nhiều lần trái tim tôi gần như ngừng đập, và mỗi ngày trôi qua tôi đều sống trong nỗi sợ hãi về cái chết cận kề. Không gì có thể diễn tả được sự kinh hoàng của nỗi đau này. Tôi không còn nhiều thời gian nữa, điều không thể tránh khỏi sẽ đến sớm thôi. Cuộc đời tôi là địa ngục trần gian, và tôi thậm chí không biết phải nghĩ gì nữa. Chắc chắn, việc đẩy ai đó vào thế giới này là tội ác lớn nhất, một sự vi phạm đạo đức không thể dung thứ. Nếu không phải vì khao khát ích kỷ của cha mẹ, tôi đã không phải gánh chịu những đau khổ này. Tôi đã có thể yên bình trong cõi vô định, thay vì phải sống trong cực hình mỗi ngày như bây giờ."
Bạn không cần phải là một người theo chủ nghĩa phản sinh để cảm nhận nỗi đau trong những dòng thư này (được trích dẫn với sự cho phép của tác giả). Nhiều người có thể cho rằng đây chỉ là một trường hợp cá biệt, không đủ để khiến chúng ta nghiêng về quan điểm phản sinh. Nhưng sự thật là, nỗi khổ tột cùng không hề hiếm gặp. Vì thế, chủ nghĩa phản sinh ít nhất cũng đáng để chúng ta cân nhắc một cách nghiêm túc, thay vì vội vàng bác bỏ.
Quan niệm này thực ra không hề mới. Trong vở bi kịch Œdipus ở Colonus của Sophocles, dàn đồng ca đã cất lên: "Không sinh ra đời là điều tốt đẹp nhất." Một tư tưởng tương tự cũng xuất hiện trong Sách Giảng Viên của Kinh Thánh. Ở phương Đông, cả Ấn Độ giáo và Phật giáo đều nhìn nhận sự tồn tại theo hướng tiêu cực (dù họ không đi xa đến mức phản đối việc sinh con). Nhiều triết gia sau này cũng nhận ra sự thống khổ bao trùm cuộc sống, khiến họ phản đối việc duy trì nòi giống. Arthur Schopenhauer có lẽ là người nổi tiếng nhất với quan điểm này, nhưng ngoài ông còn có Peter Wessel Zapffe, Emil Cioran và Hermann Vetter.
Chủ nghĩa phản sinh có lẽ sẽ không bao giờ trở thành quan điểm chủ đạo, bởi nó đi ngược lại bản năng sinh tồn mạnh mẽ của con người. Nhưng chính vì nó đối đầu với một động lực quá lớn như vậy, những người có tư duy sâu sắc càng nên dừng lại để suy ngẫm, thay vì vội vã coi nó là điên rồ hay tội lỗi. Nó không phải là cả hai điều đó. Tất nhiên, bất kỳ quan điểm nào cũng có thể bị bóp méo và áp đặt một cách nguy hiểm – nhưng điều đó cũng đúng với nhiều hệ tư tưởng khác. Khi nhìn nhận đúng đắn, có lẽ phản sinh không phải là ý tưởng đáng sợ, mà chính quan điểm đối lập với nó mới là điều cần đặt câu hỏi. Bởi lẽ, trên đời này có quá nhiều bất hạnh – và tất cả những bất hạnh ấy chỉ tồn tại vì con người đã được sinh ra.
Ngay cả khi cuộc sống không phải là một chuỗi dài thống khổ, thì sự tồn tại vẫn có thể đủ tồi tệ để khiến việc sinh nở trở thành một hành động sai lầm. Đời sống con người thực ra khắc nghiệt hơn nhiều so với những gì chúng ta nghĩ, và có những động lực vô cùng mạnh mẽ khiến ta bám víu vào cuộc sống, ngay cả khi nó đã trở nên không đáng sống. Có thể có những người đang sống một cuộc đời mà lẽ ra không nên bắt đầu, nhưng họ lại không nhận ra điều đó.
Mỗi khi có ai đó nói rằng cuộc sống tệ hơn ta tưởng, phản ứng thường thấy là sự phẫn nộ: "Sao anh dám bảo rằng cuộc đời tôi không đáng sống? Chẳng phải tôi mới là người cảm nhận rõ nhất chất lượng cuộc sống của mình sao?"Nhưng thật kỳ lạ, cùng một logic đó lại không được áp dụng với những người trầm cảm hay có ý định tự sát. Trong những trường hợp này, hầu hết những người lạc quan sẽ lập tức cho rằng nhận thức của họ đã bị bóp méo. Nhưng nếu ta có thể đánh giá thấp chất lượng cuộc sống của mình, thì ta cũng có thể đánh giá quá cao nó.
Thực tế, nếu ta không nhầm lẫn giữa những gì cuộc sống thực sự mang lại với những gì ta nghĩ rằng nó mang lại, thì rõ ràng con người có thể sai lầm về điều này. Cả việc đánh giá thấp lẫn đánh giá quá cao chất lượng cuộc sống đều có thể xảy ra. Nhưng dựa trên những bằng chứng thực nghiệm về các thiên kiến nhận thức – đặc biệt là "thiên kiến lạc quan" (optimism bias) – thì sai lầm phổ biến hơn chính là sự ảo tưởng về một cuộc sống tốt đẹp hơn thực tế.
Photo by Julian Calverley/Getty
Hủy hoại bao giờ cũng dễ dàng hơn kiến tạo. Muốn mà chẳng được, đời đâu như ý
Nghĩ cho kỹ, rõ ràng trên đời này cái xấu nhiều hơn cái tốt. Bởi lẽ giữa điều tốt và điều xấu luôn tồn tại một sự chênh lệch hiển nhiên. Những nỗi đau tồi tệ nhất bao giờ cũng khủng khiếp hơn rất nhiều so với những khoái lạc tuyệt vời nhất. Nếu còn nghi ngờ điều đó, hãy tự hỏi mình – một cách thành thật – rằng liệu bạn có sẵn sàng chịu đựng một phút tra tấn khủng khiếp nhất chỉ để đổi lấy một hoặc hai phút hạnh phúc tột đỉnh hay không?
Chưa kể, nỗi đau thường kéo dài, còn niềm vui lại chóng tàn. Cơn đau mãn tính ở lưng hay khớp có thể đeo bám con người suốt đời, nhưng chẳng ai có được một cảm giác sung sướng mãi mãi. Những khoái cảm từ vị giác hay ái ân chỉ thoáng qua, trong khi nỗi đau có thể gặm nhấm con người từng ngày. Cảm giác hài lòng có thể kéo dài, nhưng cảm giác bất mãn cũng vậy – thế nên sự so sánh này chẳng hề nghiêng về phía điều tốt.
Bị thương chỉ trong tích tắc, nhưng hồi phục thì gian nan. Một viên đạn hay cục máu đông có thể quật ngã ta ngay tức khắc – và nếu còn sống sót, ta cũng sẽ phải mất rất nhiều thời gian để hồi phục. Học hành, tích lũy kiến thức mất cả đời, nhưng có thể tan thành mây khói chỉ trong khoảnh khắc. Hủy hoại bao giờ cũng dễ dàng hơn kiến tạo.
Ngay cả khi nói về những khao khát, chúng ta cũng không phải là kẻ nắm phần thắng. Nhiều mong muốn chẳng bao giờ được thỏa mãn. Và ngay cả khi đạt được, ta thường phải trải qua một quãng thời gian dài đầy khát khao và trăn trở. Niềm thỏa mãn cũng chẳng kéo dài, vì một khi một ham muốn được đáp ứng, nó sẽ nhường chỗ cho một ham muốn khác – một thứ lại cần được lấp đầy trong tương lai. Khi ta có thể đều đặn đáp ứng những nhu cầu thiết yếu như ăn uống, thì những khao khát cao hơn lại nảy sinh. Cứ thế, con người mắc kẹt trên một chiếc bánh xe không ngừng quay, một chiếc thang cuốn không bao giờ dừng.
Nói cách khác, cuộc đời là một chuỗi những cố gắng không ngừng nghỉ. Ta phải dốc sức để tránh né khổ đau – để ngăn cơn đau thể xác, làm dịu cơn khát, giảm bớt thất vọng. Nếu ta ngừng phấn đấu, những điều tồi tệ sẽ ập đến ngay, vì đó chính là trạng thái mặc định của cuộc sống.
Ngay cả khi đời ta tốt đẹp đến mức tối đa có thể, nó vẫn tệ hơn rất nhiều so với cái lý tưởng mà ta mong muốn. Kiến thức và sự hiểu biết là những điều tốt đẹp. Nhưng ngay cả những người uyên bác nhất cũng chỉ hiểu được một phần cực nhỏ so với cái bao la của vũ trụ. Như vậy, xét cho cùng, ta vẫn là những kẻ thua thiệt. Nếu trường thọ và khỏe mạnh là điều đáng mơ ước, thì thực tế một cuộc đời 90 năm cũng chẳng là gì nếu so với hàng chục nghìn năm tồn tại. Thực tế luôn cách xa lý tưởng.
Những người lạc quan thường đối diện với thực tế này bằng một nụ cười gượng gạo. Họ lập luận rằng dù cuộc sống có nhiều điều tồi tệ, thì những điều tồi tệ ấy là cần thiết (theo cách này hay cách khác) để ta có thể tận hưởng những điều tốt đẹp. Không có nỗi đau, ta sẽ không biết né tránh thương tổn; không có đói khát, bữa ăn sẽ mất ngon; không có cố gắng, sẽ chẳng có thành tựu.
Nhưng rất nhiều nỗi bất hạnh trên đời này hoàn toàn vô nghĩa. Có thật là trẻ em phải sinh ra với những dị tật bẩm sinh không? Có thật là mỗi ngày phải có hàng ngàn người chết đói? Có thật là những bệnh nhân hấp hối phải chịu đựng cơn đau đến tận phút cuối cùng? Liệu ta có thực sự cần nếm trải đau đớn mới có thể cảm nhận niềm vui?
Ngay cả khi ta tin rằng điều xấu là cần thiết để ta biết trân trọng điều tốt, ta vẫn phải thừa nhận rằng nếu không như vậy thì cuộc sống sẽ tốt đẹp hơn biết bao nhiêu. Nghĩa là, nếu ta có thể tận hưởng điều tốt mà không phải trả giá bằng điều xấu, thì cuộc đời này hẳn đã đáng sống hơn rất nhiều. Một lần nữa, thực tế bao giờ cũng tệ hơn so với điều lý tưởng.
Một lập luận lạc quan khác là cho rằng tôi đang đưa ra một tiêu chuẩn bất khả thi. Họ phản bác rằng chẳng lẽ ta lại đánh giá thành tựu trí tuệ hay tuổi thọ của con người bằng những thước đo mà bản thân con người không bao giờ có thể đạt tới hay sao? Rằng cuộc sống con người phải được đánh giá dựa trên những tiêu chuẩn của chính nó?
Nhưng vấn đề là lập luận này đã nhầm lẫn giữa hai câu hỏi: “Một con người có thể kỳ vọng một cuộc đời tốt đẹp đến mức nào?” và “Cuộc sống con người có thực sự tốt đẹp hay không?” Nếu chỉ bàn về câu hỏi đầu tiên, thì việc sử dụng những tiêu chuẩn của con người là hợp lý. Nhưng nếu ta đang nói về câu hỏi thứ hai, ta không thể chỉ đơn giản kết luận rằng cuộc sống con người tốt đẹp bởi vì nó là như vậy. Điều này chẳng khác nào nói rằng một con chuột hai tuổi là đã sống rất thọ – nhưng đó chỉ là so với tuổi thọ trung bình của loài chuột. Điều đó không có nghĩa là loài chuột có một cuộc đời dài lâu. Bằng cách ấy, chuột thua xa con người về tuổi thọ, cũng như con người lại thua xa những con cá voi đầu cong.
Một vở diễn có thể chưa tệ đến mức khiến bạn bỏ về, nhưng nếu biết trước nó dở như thế, liệu bạn có đến ngay từ đầu?
Xét cho cùng, thật khó để chối cãi rằng trong cuộc đời, điều tệ hại luôn nhiều hơn điều tốt đẹp, và những gì ta có luôn ít hơn những gì ta đánh mất. Thế nhưng, sự gắn bó với cuộc sống khiến hầu hết mọi người không nhận ra điều đó.
Một lý do quan trọng giải thích cho điều này là khi suy nghĩ về việc liệu đời mình có đáng để bắt đầu hay không, nhiều người thực chất lại vô thức cân nhắc một câu hỏi khác: liệu đời mình có đáng để tiếp tục? Họ tưởng tượng về trạng thái không tồn tại, nhưng cách họ suy ngẫm về nó lại xuất phát từ chính cái tôi hiện hữu của họ. Và từ đó, họ dễ dàng trượt vào nỗi sợ hãi về sự mất mát của bản thân – chính là cái chết. Khi sự sống có một lực kéo mạnh mẽ, không có gì ngạc nhiên khi con người đi đến kết luận rằng tồn tại vẫn hơn là không tồn tại.
Nhưng tự hỏi liệu tốt hơn nếu ta chưa từng tồn tại không giống với tự hỏi liệu tốt hơn nếu ta chết đi. Chẳng có ai có một khát khao bẩm sinh để bước vào cuộc đời. Nhưng một khi đã hiện hữu, ta lại có động lực mạnh mẽ để không tan biến. Đúng là có những trường hợp bi kịch, khi nỗi đau quá lớn khiến ý chí tiếp tục sống không còn đủ mạnh để lấn át khát vọng kết thúc nó. Nhưng để nói rằng một cuộc đời không đáng để tiếp tục, những bất hạnh trong cuộc sống ấy phải đủ tồi tệ đến mức áp đảo mong muốn không chết đi.
Trái lại, khi nói rằng một cuộc đời không đáng để bắt đầu, ta không cần có một mong muốn nào để cân nhắc chống lại nó. Không có gì để mất, không có gì để sợ, không có gì để vượt qua – chỉ đơn giản là không nên tạo ra cuộc sống đó ngay từ đầu. Vì vậy, một cuộc đời phải thực sự thê thảm mới đáng để chấm dứt, nhưng chỉ cần đủ tệ là đã không đáng để khởi đầu. Đây không phải hiện tượng hiếm thấy: một vở kịch có thể chưa dở đến mức khiến bạn đứng dậy bỏ về, nhưng nếu biết trước nó tệ như vậy, hẳn bạn đã chẳng bao giờ mua vé.
Sự khác biệt này cũng lý giải tại sao chủ nghĩa phản sinh (antinatalism) không nhất thiết dẫn đến tự sát hay giết người. Một cuộc đời có thể không đáng để bắt đầu, nhưng vẫn chưa đến mức không đáng để tiếp tục. Nếu những khổ đau của hiện tại và tương lai đủ lớn để khiến cuộc đời đó đáng ra không nên bắt đầu, nhưng chưa đủ lớn để xóa bỏ mong muốn tiếp tục sống, thì người ấy vẫn nên tiếp tục sống. Hơn nữa, cái chết vẫn là một điều tồi tệ, ngay cả khi đôi lúc ta có thể cân nhắc nó là "bớt tệ hơn" so với một số lựa chọn khác. Điều này không chỉ là lý do để phản đối sinh sản, mà còn là lý do để phản đối giết người và tự sát.
Ngoài ra, còn một lý do khác khiến người theo chủ nghĩa phản sinh phản đối giết người: không ai có quyền áp đặt lên một người khác – một người hoàn toàn đủ năng lực tự quyết – rằng cuộc đời họ không còn đáng để tiếp tục. Vì không ai có thể chắc chắn về điều đó, lựa chọn ấy, nếu có, phải là của chính người sẽ phải sống hoặc chết vì nó.
Nhưng sự nhầm lẫn giữa việc bắt đầu một cuộc đời và tiếp tục một cuộc đời không phải là cách duy nhất khiến con người đánh mất cái nhìn rõ ràng về thực tế rằng đời có nhiều khổ đau hơn niềm vui. Việc có con từ lâu đã được xem là một trải nghiệm sâu sắc và ý nghĩa nhất của đời người – dĩ nhiên là vất vả, nhưng vẫn là điều thiêng liêng. Sinh con là bản năng, là truyền thống, là tình yêu, và quá nhiều người làm điều đó. Khi sinh sản là một điều phổ biến và được coi là tốt đẹp như vậy, thật khó để nhìn nó theo hướng ngược lại.
Nhưng lập luận phản đối sinh sản không nhất thiết phải dựa trên quan điểm rằng "tồn tại bao giờ cũng tệ hơn không tồn tại." Chỉ cần chỉ ra rằng rủi ro gặp phải đau khổ lớn là quá cao đã đủ để phản đối việc tạo ra sự sống.
Nếu bạn, giống như hầu hết mọi người, tin rằng cái chết là một bi kịch, thì rủi ro gặp phải bi kịch đó là 100%. Cái chết là số phận của tất cả những ai được sinh ra. Khi bạn có một đứa con, đó chỉ là vấn đề thời gian trước khi bi kịch cuối cùng ập đến. Ở những nơi có tỷ lệ tử vong sơ sinh thấp, nhiều bậc cha mẹ không phải chứng kiến hậu quả kinh hoàng của việc sinh con. Nhưng điều đó không thay đổi được sự thật rằng mỗi một lần sinh ra là một cái chết đang chờ đợi.
Không chỉ cái chết, mà cả một chuỗi những rủi ro khác luôn rình rập con người. Nhiều người có thể muốn theo chủ nghĩa Epicurus mà phủ nhận rằng cái chết là điều tồi tệ. Nhưng ngay cả khi bỏ qua cái chết – một việc không dễ dàng – vẫn có vô số thảm kịch khác có thể ập xuống đầu bất kỳ đứa trẻ nào được sinh ra: đói khát, hiếp dâm, lạm dụng, bạo hành, bệnh tâm thần nghiêm trọng, dịch bệnh, ung thư, liệt toàn thân. Những điều này mang đến vô vàn đau khổ trước khi cái chết cuối cùng đặt dấu chấm hết. Cha mẹ, khi sinh con, chính là người đã áp đặt những rủi ro ấy lên chính đứa trẻ họ tạo ra.
Tất nhiên, mức độ rủi ro sẽ khác nhau tùy vào thời đại, địa điểm, giới tính, nhưng dù có kiểm soát những yếu tố đó thế nào đi nữa, những hiểm họa vẫn khó mà đo lường hết. Chẳng hạn, nạn hiếp dâm bị báo cáo thiếu rất nhiều, và dữ liệu về tỷ lệ thực sự của nó còn nhiều mâu thuẫn. Tương tự, những nghiên cứu về bệnh tâm thần như trầm cảm nghiêm trọng thường đánh giá thấp nguy cơ cả đời, vì nhiều người trong nhóm nghiên cứu chưa kịp mắc phải căn bệnh đó. Nhưng dù ta lấy mức ước tính thấp nhất, thì tổng hòa của tất cả những đau khổ mà con người có thể gặp phải vẫn là một ván cược quá bất lợi cho bất kỳ đứa trẻ nào chào đời.
Chỉ riêng nguy cơ mắc ung thư đã là rất lớn: ở Anh, gần 50% dân số sẽ mắc bệnh này. Nếu ai đó áp đặt một nguy cơ nghiêm trọng như vậy lên người khác trong bất kỳ bối cảnh nào khác ngoài việc sinh sản, họ sẽ bị lên án nặng nề. Những tiêu chuẩn ấy cũng nên được áp dụng với việc sinh con.
Tất cả những lập luận trên đều phản đối việc sinh sản dựa trên những gì nó gây ra cho người được sinh ra – tôi gọi đó là lập luận vì lòng nhân ái trong chủ nghĩa phản sinh. Nhưng còn có một lập luận vì nhân loại. Điều đặc biệt ở lập luận này là nó phản đối sinh sản dựa trên những gì người được sinh ra có khả năng gây ra cho thế giới.
Con người là loài phá hoại nhất, và phần lớn sự tàn phá mà con người gây ra lại nhắm vào chính đồng loại của mình. Con người giết hại lẫn nhau từ thuở sơ khai, và quy mô (dù không phải tỷ lệ) giết chóc đã tăng lên theo thời gian – đơn giản vì ngày nay, có nhiều người để giết hơn trước đây. Cách mà hàng triệu người bị giết cũng vô cùng đa dạng: đâm chém, cắt xẻo, treo cổ, hơi ngạt, đầu độc, dìm nước, đánh bom. Nhưng con người không chỉ giết nhau. Họ còn hành hạ, đàn áp, tra tấn, đánh đập, đày đọa, hiếp dâm, bắt cóc và biến đồng loại thành nô lệ.
Dưới góc nhìn lạc quan, nhiều người cho rằng rất ít trẻ em sau này sẽ trở thành kẻ gây ra những tội ác tột cùng đối với nhân loại. Điều đó đúng. Chỉ một số rất nhỏ sẽ sa vào con đường tàn bạo nhất. Nhưng nếu nhìn rộng hơn, một phần lớn nhân loại vẫn vô tình hoặc cố ý tiếp tay cho những điều xấu xa ấy. Sự đàn áp, bất công, bóc lột không chỉ đến từ một số ít kẻ ác, mà cần đến sự đồng lõa hoặc dung túng của vô số con người khác.
Hơn nữa, những tổn hại con người gây ra cho nhau không chỉ giới hạn trong những hành vi tàn bạo nhất. Cuộc sống thường nhật tràn ngập sự dối trá, phản bội, thờ ơ, nhẫn tâm, ích kỷ, lợi dụng lẫn nhau. Những tổn thương tinh thần đôi khi còn đau đớn hơn cả những vết thương thể xác. Và xét cho cùng, ai cũng từng, dù ít hay nhiều, gây ra đau khổ cho người khác.
Nếu ai đó chưa thấy mức độ tác hại của một đứa trẻ đối với đồng loại đủ lớn để kết luận rằng không nên sinh ra nó, thì hãy nhìn sang những gì con người gây ra cho muôn loài. Mỗi năm, hơn 63 tỷ động vật trên cạn và ít nhất 103 tỷ sinh vật dưới nước bị giết để phục vụ nhu cầu của con người. Con số ấy vượt xa mọi tưởng tượng. Nếu một loài nào khác hủy hoại thế giới như loài người đang làm, chẳng ai cho rằng việc duy trì nòi giống của chúng là điều đúng đắn.
Một số người có thể nghĩ rằng nuôi dạy con cái theo chế độ thuần chay sẽ giúp tránh được vấn đề này. Nhưng thực tế là, ngay cả một đứa trẻ ăn chay trường vẫn để lại dấu chân sinh thái đáng kể. Trong thế giới hiện đại, mỗi cá nhân đều góp phần vào sự suy thoái môi trường – một trong những cách con người gây hại không chỉ cho động vật mà còn cho chính đồng loại của mình. Dù mức độ tổn hại này ở các nước đang phát triển thấp hơn so với thế giới công nghiệp hóa, nhưng tỷ lệ sinh cao hơn ở những nơi ấy lại bù trừ cho sự khác biệt này.
Nói như vậy không có nghĩa là nhân loại nên tìm đến một “giải pháp cuối cùng” để tuyệt diệt loài người. Dù con người gây ra vô vàn đau khổ, nhưng mọi nỗ lực xóa sổ nhân loại sẽ chỉ dẫn đến thảm kịch lớn hơn và đi ngược lại nguyên tắc đạo đức về việc không được giết hại. Thực tế lịch sử đã cho thấy những giấc mộng không tưởng đầy bạo lực chỉ mang đến sự hủy diệt, chứ không phải giải thoát.
Dĩ nhiên, con người không chỉ gây hại – họ cũng tạo ra những điều tốt đẹp. Nhưng nếu đặt lên bàn cân, những gì tốt đẹp ấy liệu có thể bù đắp cho những mất mát, đau khổ và bất hạnh mà nhân loại đã và đang gánh chịu? Có thể có một số cá nhân hiếm hoi làm được nhiều điều thiện hơn điều ác, nhưng trước khi quyết định sinh con, những người làm cha mẹ nên tự hỏi: Liệu con cái họ có nằm trong số ít ỏi ấy không? Hay chỉ là một phần của vòng luẩn quẩn đau khổ mà nhân loại chưa từng thoát ra?
Nếu ai đó thật sự muốn nuôi dạy một đứa trẻ, lựa chọn tốt hơn là nhận nuôi một đứa trẻ đã tồn tại, thay vì sinh ra một đứa trẻ mới. Đương nhiên, số trẻ em bị bỏ rơi không đủ để đáp ứng mong muốn của tất cả những ai muốn làm cha mẹ. Và nếu ngày càng có nhiều người chấp nhận chủ nghĩa phản sinh, số trẻ bị bỏ rơi sẽ càng ít đi. Nhưng miễn là vẫn còn những đứa trẻ không ai chăm sóc, sự tồn tại của chúng là một lý do nữa để con người không nên tiếp tục sinh sản.
Làm cha mẹ có thể mang lại hạnh phúc, nhưng niềm vui ấy không thể biện minh cho những đau khổ mà sự ra đời của một đứa trẻ có thể gây ra cho chính nó và cho thế giới này.
Câu hỏi không phải là liệu loài người có tuyệt chủng hay không, mà là khi nào điều đó sẽ xảy ra. Nếu những lập luận của chủ nghĩa phản sinh là đúng, thì càng sớm càng tốt. Vì một khi nhân loại chấm dứt, đau khổ và bất hạnh cũng sẽ không còn tiếp diễn.
Nguồn: Kids? Just say no | Aeon.co