Yêu thương nhưng vẫn cô đơn

yeu-thuong-nhung-van-co-don

Bạn có thể nhận được tình yêu vô điều kiện từ gia đình, bạn bè mà vẫn cảm thấy cô đơn đến tận sâu thẳm. Liệu triết học có thể giải thích điều này?

Dù khoảnh khắc cô đơn nhất đời tôi đã xảy ra cách đây hơn 15 năm, tôi vẫn nhớ rõ cảm giác đau đớn đặc biệt của nó. Lúc đó, tôi vừa trở về nhà sau một học kỳ du học tại Ý. Trong suốt thời gian ở Florence, trình độ tiếng Ý của tôi tiến bộ đến mức tôi mơ bằng ngôn ngữ ấy. Tôi cũng đã phát triển niềm yêu thích với các trường phái nghệ thuật như chủ nghĩa tương lai Ý, Dada và chủ nghĩa phi lý Nga – không hoàn toàn xuất phát từ việc tôi thích thầm vị giáo sư dạy môn này – cùng những bài thơ tình của Dante và Petrarch (cũng có thể liên quan đến "crush" kia). Tôi rời Florence với cảm giác mà có lẽ nhiều sinh viên du học từng trải qua: biến đổi không chỉ về mặt trí tuệ mà cả cảm xúc. Thế giới trong tôi giờ phức tạp hơn, và trải nghiệm về nó phong phú, sâu sắc hơn.

Khi trở về, tôi đặt chân lại thị trấn lao động nhỏ ở New Jersey, nơi tôi gọi là nhà – chính xác hơn là ngôi nhà của bố mẹ bạn trai tôi. Ngôi nhà ấy đang trong quá trình bị ngân hàng thu hồi, nhưng chưa chính thức. Bố mẹ anh ấy đã chuyển đi nơi khác, nhưng họ hào phóng cho phép tôi ở đó cùng bạn trai, chị gái anh và bạn trai của chị ấy mỗi khi tôi nghỉ học. Trong kỳ nghỉ, tôi dành phần lớn thời gian với những “người bạn cùng nhà bất đắc dĩ” này và vài người bạn thân từ thuở nhỏ.

Khi trở về từ Ý, tôi có quá nhiều điều muốn chia sẻ. Tôi muốn nói với bạn trai về việc mình thấy chủ nghĩa tương lai Ý thú vị về mặt thẩm mỹ nhưng nhàm chán về mặt trí tuệ. Tôi muốn kể với những người bạn thân nhất của mình về việc những bài thơ tình Ý khiến tôi xúc động đến nhường nào, hay Bob Dylan đã truyền tải sức mạnh ấy tuyệt vời ra sao qua ca từ: “And every one of them words rang true/and glowed like burning coal/Pouring off of every page/like it was written in my soul…”

Hơn cả việc cần chia sẻ những gì tôi đã trải nghiệm, tôi cảm thấy nhu cầu mãnh liệt được kết nối trí tuệ, và một khao khát sâu sắc rằng con người tôi – với mọi cảm xúc phong phú và chiều sâu mới mẻ – cần được thấu hiểu. Nhưng khi trở về, tôi thấy mình không thể tương tác với người khác theo cách mà tôi mong muốn. Tôi cảm giác như những người thân yêu không còn nhận ra tôi là ai sau quãng thời gian xa cách. Và cảm giác ấy khiến tôi vô cùng, vô cùng cô đơn.

Trải nghiệm này không hiếm gặp với sinh viên du học. Ngay cả khi có một mạng lưới bạn bè, gia đình yêu thương hỗ trợ, họ vẫn thường xuyên trải qua "sốc văn hóa ngược" – điều mà nhà tâm lý học Kevin Gaw miêu tả là “quá trình tái điều chỉnh, tái hòa nhập vào văn hóa quê nhà sau một thời gian dài sống trong môi trường văn hóa khác”. Và cảm giác cô đơn là dấu hiệu đặc trưng của những ai đang trải qua quá trình này.

Tuy nhiên, không chỉ du học sinh mới cảm thấy như vậy. Có rất nhiều hoàn cảnh khác dẫn đến sự cô đơn, ngay cả khi ta được yêu thương:

  • Một sinh viên trở về nhà sau năm học đại học đầu tiên đầy biến đổi.
  • Một thiếu niên trở lại với cha mẹ yêu thương nhưng khép kín sau khi trải qua “thức tỉnh” tại trại hè.
  • Một phụ nữ da màu thế hệ đầu tiên đi học cao học, luôn cảm thấy bị kẹt giữa các thế giới – không hoàn toàn thuộc về khoa mình, cũng không được gia đình, bạn bè ở quê hương thấu hiểu.
  • Một y tá trở về sau chuyến công tác đầy ý nghĩa (hoặc kiệt quệ tâm lý).
  • Một người đàn ông chật vật vượt qua cuộc chia tay với người yêu lâu năm.
  • Một người phụ nữ lần đầu làm mẹ trong nhóm bạn chưa ai có con.

Danh sách còn kéo dài.

Thậm chí, cô đơn không cần một sự kiện lớn lao nào để xuất hiện. Theo thời gian, những người từng thấu hiểu ta, yêu thương ta dần mất đi khả năng ấy. Họ không còn nhìn thấy ta thật sự như trước nữa. Sự cô đơn lúc này không xuất hiện đột ngột mà len lỏi, ngấm ngầm, từng chút một.

Có vẻ như cô đơn là một hiểm họa mang tính hiện sinh mà con người luôn dễ tổn thương – và không nhất thiết chỉ khi họ ở một mình.

Triết gia Kieran Setiya, trong cuốn sách Life Is Hard (2022), đã định nghĩa cô đơn là "nỗi đau của sự ngắt kết nối xã hội". Ông lập luận rằng việc thấu hiểu bản chất của cô đơn – tại sao nó làm ta đau đớn và nỗi đau ấy mách bảo gì về cách chúng ta sống – là điều vô cùng quan trọng, đặc biệt trong bối cảnh cô đơn ngày càng phổ biến. Setiya chỉ ra rằng cô đơn không đơn thuần là chuyện bị tách biệt khỏi xã hội, bởi ta vẫn có thể cô đơn ngay giữa một căn phòng đầy người. Quan trọng hơn, ông nhận định rằng các tác động tiêu cực về tâm lý và thể chất của cô đơn dường như phụ thuộc vào cảm giác chủ quan của người trải nghiệm. Do đó, muốn giải quyết cô đơn một cách hiệu quả, chúng ta phải truy tìm gốc rễ của cảm giác ấy.

Setiya đưa ra một lý thuyết: con người là "những sinh vật xã hội với những nhu cầu xã hội", trong đó bao gồm nhu cầu được yêu thương và được công nhận giá trị cơ bản của mình. Khi những nhu cầu này không được đáp ứng – chẳng hạn khi ta xa cách bạn bè – ta sẽ trải qua cảm giác cô đơn. Không có bạn bè ở bên để nhắc rằng ta quan trọng, ta cảm thấy một nỗi trống rỗng đau đớn, như thể có một lỗ hổng trong tâm hồn mà trước đây đã được lấp đầy nhưng giờ đây không còn nữa. Đây chính là dạng thức cô đơn nguyên thủy nhất. (Ở đây, Setiya sử dụng khái niệm "bạn bè" một cách rộng rãi, bao gồm cả gia đình thân thiết và người yêu, và tôi cũng áp dụng cách hiểu này.)

Hãy tưởng tượng một người phụ nữ nhận công việc mới ở một nơi xa lạ, nơi cô không quen biết ai. Dù có hàng xóm và đồng nghiệp thân thiện chào đón cô ngay khi đến, Setiya cho rằng cô vẫn sẽ cảm thấy cô đơn. Lý do là vì cô chưa xây dựng được mối quan hệ thân thiết, yêu thương nào với những người đó – những mối quan hệ mà qua đó, tình yêu của họ phản chiếu lại giá trị cơ bản của cô, giúp cô cảm nhận rằng mình thực sự có ý nghĩa. Chỉ khi cô có được những tình bạn chân thành, cô mới cảm nhận được rằng giá trị của mình được thừa nhận. Chỉ khi ấy, cô mới thỏa mãn được nhu cầu cơ bản là được yêu và được công nhận, và sự cô đơn của cô mới vơi đi.

Setiya không phải người duy nhất kết nối cảm giác cô đơn với sự thiếu hụt công nhận cơ bản. Trong The Origins of Totalitarianism (1951), Hannah Arendt cũng định nghĩa cô đơn là cảm giác nảy sinh khi phẩm giá con người hoặc giá trị vô điều kiện của một cá nhân không được công nhận, một cảm giác xuất hiện khi một trong những "yêu cầu cơ bản của điều kiện nhân loại" không được đáp ứng.

Những lý thuyết này đã nắm bắt đúng nhiều khía cạnh của cô đơn. Nhưng chúng cũng bỏ sót điều gì đó. Theo những cách nhìn này, tình bạn yêu thương giúp ta thoát khỏi cô đơn vì người bạn ấy cung cấp cho ta sự công nhận mà ta cần như một sinh vật xã hội. Khi không có tình bạn ấy, hoặc khi xa cách bạn bè, ta không thể có được sự công nhận này, và vì thế, ta trở nên cô đơn.

Nhưng hãy lưu ý: đặc điểm mà bạn bè khẳng định trong ta – giá trị vô điều kiện của ta – lại mang tính phi cá nhân một cách triệt để. Điều mà bạn bè nhận ra và công nhận ở ta cũng chính là điều họ nhận ra ở tất cả những người bạn khác của họ: giá trị vô điều kiện của ta như một con người. Nói cách khác, sự công nhận được cho là giúp xoa dịu nỗi cô đơn, theo Setiya, chính là sự công nhận của bạn bè về một phẩm chất chung chung và trừu tượng mà ta chia sẻ với mọi người khác. Đó là: “Bạn có giá trị… như tất cả mọi người khác vậy.”

Thế nhưng, vì phẩm giá hay giá trị này không gắn liền với bất kỳ đặc điểm cụ thể nào của riêng ta, người bạn ấy có thể công nhận nó mà không thực sự thấu hiểu hay chạm đến các nhu cầu, giá trị, hay nét riêng biệt của ta. Nếu Setiya đúng, thì một người bạn như thế có thể xoa dịu nỗi cô đơn của ta mà không cần thực sự đụng chạm đến bản sắc cá nhân của ta.

Liệu điều đó có thật sự khả thi?

Những quan điểm gắn nỗi cô đơn với sự thiếu hụt công nhận cơ bản (và sự giải tỏa cô đơn với tình yêu và sự công nhận giá trị con người) có thể đúng trong việc giải thích nguồn gốc của một số dạng cô đơn. Nhưng tôi nghĩ rằng đó chỉ là một phần câu chuyện. Những cách giải thích này không thể làm sáng tỏ vô số hoàn cảnh quen thuộc khác nơi nỗi cô đơn xuất hiện.

Khi tôi trở về sau học kỳ du học, tôi trở lại với một mạng lưới bạn bè thân thiết, yêu thương. Tôi được bao quanh mỗi ngày bởi một nhóm người luôn thừa nhận và khẳng định giá trị vô điều kiện của tôi, chấp nhận cả sự tự phụ đầy khó chịu (có lẽ họ nghĩ thế) và sự xa lạ của tôi so với người bạn mà họ từng biết trước kia. Thế nhưng, tôi vẫn cảm thấy cô đơn.

Trên thực tế, dù có nhiều bạn bè thân thiết hơn bao giờ hết – và cũng gần gũi với gia đình, bạn bè hơn bao giờ hết – tôi lại cô đơn hơn bao giờ hết. Điều này cũng đúng với những hoàn cảnh đã nhắc đến: sinh viên năm nhất, người mẹ mới sinh con, y tá công tác xa, v.v. Tất cả những tình huống này đều dễ dàng dẫn đến cảm giác cô đơn đau đớn, dù những người trải qua chúng có một mạng lưới bạn bè, gia đình và đồng nghiệp yêu thương, luôn hỗ trợ và trân trọng giá trị vô điều kiện của họ.

Cô đơn không chỉ đơn giản là vấn đề mà Kieran Setiya (hay những quan điểm tương tự) đã đưa ra. Đúng là, khi giá trị của một người không được công nhận, họ sẽ cảm thấy cô đơn khủng khiếp. Nhưng giống như việc bạn có thể cảm thấy cô đơn giữa một căn phòng đầy người lạ, bạn cũng có thể cô đơn giữa căn phòng tràn ngập bạn bè thân thiết. Vấn đề của những cách lý giải gắn cô đơn với sự thiếu công nhận cơ bản là chúng không nắm bắt được bản chất của cô đơn – một cảm giác xuất hiện không chỉ khi ta thiếu những mối quan hệ yêu thương, khẳng định, mà còn khi những mối quan hệ ấy (thậm chí là những mối quan hệ rất yêu thương) không đáp ứng được kỳ vọng về chất lượng mà ta mong muốn, chẳng hạn thiếu chiều sâu hoặc thiếu sự kết nối như ta khao khát.

Người ta dễ cảm thấy cô đơn khi bạn bè, gia đình không thể đáp ứng những nhu cầu cụ thể mà họ có, hay không nhận ra và trân trọng cá tính riêng biệt của họ. Điều này đặc biệt rõ ràng trong hoặc sau những biến cố lớn, những sự kiện làm thay đổi bản thân – khi chúng ta trải qua những thay đổi sâu sắc về giá trị sống, nhu cầu cốt lõi hay những khát khao thúc đẩy cuộc sống của mình. Chúng ta mất đi một số giá trị cũ, đồng thời hình thành những giá trị mới, và dần trở thành một con người hoàn toàn khác so với trước kia.

Khi những người thân yêu không thể đáp ứng các nhu cầu mới ấy, hoặc không nhận ra và trân trọng các giá trị mới mà ta xem là trung tâm của cuộc sống, cảm giác cô đơn sẽ xâm chiếm.

Tôi đã trải nghiệm điều này sau khi trở về từ Italy. Khi đó, tôi đã phát triển những nhu cầu cốt lõi mới – chẳng hạn, nhu cầu được trao đổi trí tuệ ở một mức độ sâu sắc và độc đáo hơn – nhưng những nhu cầu này không được đáp ứng khi tôi trở về. Thú thực, tôi không nghĩ mình có quyền yêu cầu bạn bè đáp ứng những điều ấy, vì họ không sở hữu những nền tảng kiến thức như về chủ nghĩa phi lý của Nga hay các bài sonnet tình yêu thế kỷ 13 của Italy. Đây không phải là những thứ họ từng dành thời gian suy ngẫm. Tôi không trách họ, bởi đòi hỏi họ quan tâm đến những điều này là điều quá mức.

Tuy nhiên, không có sự đồng điệu trong nhận thức, tôi cảm thấy bất lực trong việc chia sẻ cuộc sống nội tâm đầy tràn của mình – một thế giới bị chi phối bởi những giá trị thẩm mỹ rất riêng biệt, định hình cách tôi nhìn nhận cuộc sống. Hệ quả là tôi cảm thấy cô đơn.

Không chỉ vậy, tôi nhận ra bản thân mình đã thay đổi tận gốc rễ. Dù biết rằng bạn bè yêu thương và công nhận giá trị của tôi, tôi vẫn không cảm thấy họ thực sự nhìn thấy con người mà tôi đã trở thành. Tôi cảm giác mình đã thay đổi sâu sắc đến mức không còn dễ nhận ra, ngay cả với những người hiểu rõ tôi nhất. Sau Italy, tôi nhìn thế giới qua lăng kính khác – một lăng kính sắc sảo hơn, tinh tế hơn; những giá trị như cái đẹp, sự sáng tạo và phát triển trí tuệ đã trở thành trung tâm cuộc sống của tôi. Tôi yêu thơ ca một cách nghiêm túc, và tự thấy mình là một triết gia đang lớn dần. Nhưng bạn bè tôi khi ấy không thể nhìn thấy hoặc trân trọng những phần con người mới này, những phần mà thậm chí người quen sơ sơ trong các khóa học đại học của tôi đã có thể nhận ra (dù họ cũng không biết hết về tôi). Vì vậy, khi trở về nhà, tôi không còn cảm giác được bạn bè thực sự thấu hiểu.

Không cần phải du học nước ngoài mới có thể trải nghiệm điều này. Hãy tưởng tượng một y tá, ban đầu chọn nghề vì lý do tài chính, bỗng một ngày sau khi trải qua khoảnh khắc sâu sắc với một bệnh nhân, cô nhận ra động lực sống mới của mình là muốn tạo sự khác biệt cho cuộc đời người khác. Từ đó, cô cũng thay đổi những giá trị cốt lõi – chẳng hạn, cô đặt giá trị cao vào việc xoa dịu nỗi đau. Một số khía cạnh trong công việc vốn từng làm cô hài lòng giờ đây không còn như vậy. Cô cảm thấy trống rỗng nếu nhu cầu tạo nên ý nghĩa sâu sắc ấy không được đáp ứng.

Những thay đổi như vậy – những thay đổi chạm đến động lực sâu thẳm nhất, khiến bạn cảm thấy mãn nguyện – thực sự là những thay đổi mang tính cách mạng. Khi những người thân yêu không thể nhận ra hoặc khẳng định những phần mới mẻ trong con người bạn, bạn sẽ cảm thấy không được nhìn nhận đúng mực, không được trân trọng như con người bạn thực sự là. Và cô đơn sẽ xuất hiện. Đáng lưu ý hơn, sự cô đơn này thường càng đau đớn hơn khi những người không thể đáp ứng nhu cầu ấy lại chính là những người yêu thương bạn nhất.

Những người có nhu cầu mạnh mẽ được công nhận sự độc đáo của bản thân thường dễ bị cô đơn hơn.

Tóm lại, ngay cả khi có những người bạn yêu thương, nếu chúng ta cảm thấy mình không được nhìn nhận và khẳng định như cá nhân độc nhất mà mình là, hoặc khi những nhu cầu cốt lõi không được đáp ứng, chúng ta sẽ cảm thấy cô đơn. Setiya đã đúng khi nói cô đơn bắt nguồn từ sự thiếu vắng tình yêu và sự công nhận. Nhưng nó cũng có thể xuất phát từ việc những người yêu thương ta không thể chia sẻ hay khẳng định các giá trị của ta, không thấu hiểu những khát vọng ta coi là trung tâm cuộc sống, hoặc không đáp ứng những nhu cầu mà ta thực sự cần.

Nói cách khác, nhu cầu xã hội của chúng ta vượt xa việc được công nhận một cách trừu tượng như một con người có giá trị vô điều kiện. Những nhu cầu này có thể phổ biến, như nhu cầu gắn kết tình cảm, hoặc rất cụ thể, như nhu cầu được trao đổi trí tuệ hay sáng tạo. Nhưng ngay cả khi đó là một nhu cầu hiếm hoi, nếu nó thực sự sâu sắc và cần sự hiện diện của người khác để đáp ứng, nhưng lại không được thỏa mãn, chúng ta sẽ cảm thấy cô đơn. Việc chúng ta chịu cô đơn ngay cả khi những nhu cầu cụ thể như vậy không được đáp ứng cho thấy, để thấu hiểu và khắc phục cảm giác này, ta cần chú ý không chỉ đến việc giá trị của mình có được khẳng định hay không, mà còn đến việc liệu ta có được nhìn nhận và khẳng định trong sự độc nhất của chính mình, và liệu những nhu cầu xã hội đặc thù của ta có được đáp ứng bởi những người xung quanh hay không.Mỗi người có một nhu cầu khác nhau, vì thế những điều kiện dẫn đến cô đơn cũng rất khác nhau. Những ai có nhu cầu mạnh mẽ được công nhận sự độc đáo của mình thường dễ rơi vào trạng thái cô đơn hơn. Trong khi đó, những người không quá cần sự công nhận hay gắn bó tình cảm đôi khi vẫn có thể sống cách biệt xã hội mà chẳng cảm thấy cô đơn chút nào. Có người tìm cách giảm bớt cô đơn bằng cách xây dựng một vòng tròn bạn bè rộng lớn – không quá thân thiết, nhưng mỗi người lại đáp ứng một khía cạnh khác nhau trong nhu cầu hoặc trân trọng một phần tính cách nào đó của họ. Còn có những người mãi cô đơn vì thiếu đi một tình bạn sâu sắc, nơi họ cảm nhận được sự thấu hiểu trọn vẹn, nơi bản thân được nhìn nhận trong tất cả sự phức tạp và đầy đủ của mình.

Là những con người không ngừng thay đổi, lại gắn bó với những người thân yêu cũng không ngừng biến chuyển, chúng ta luôn có nguy cơ rơi vào trạng thái cô đơn. Chắc hẳn ai cũng từng có một người bạn, từng rất thấu hiểu và đáp ứng những nhu cầu xã hội cốt lõi của ta, nhưng theo thời gian – dù chậm rãi, thậm chí khó nhận ra – lại dần không còn làm được điều đó. Khi những nhu cầu ấy không được ai khác bù đắp, ta sẽ cảm thấy cô đơn đến tận cùng, một nỗi cô đơn có thể khiến trái tim tan nát.

Trong những trường hợp như thế, những mối quan hệ mới có thể là nguồn an ủi và ánh sáng thực sự. Chẳng hạn, một người mẹ trẻ có thể cảm thấy những người bạn không con cái của mình không thể hiểu được những giá trị và nhu cầu mới mà cô phát triển trong giai đoạn chuyển tiếp đầy phức tạp này. Để rồi, cô tìm đến các mối quan hệ với những người mẹ khác hay những người chăm sóc trẻ, những người đồng cảm với những giá trị mới của cô, và hiểu rõ những niềm vui, nỗi đau cũng như sự mâu thuẫn khi làm cha mẹ. Khi những mối quan hệ mới này giúp cô được đáp ứng nhu cầu và thực sự được thấu hiểu, chúng sẽ làm dịu đi nỗi cô đơn của cô. Vì vậy, việc chủ động tìm kiếm những mối quan hệ mới với những người có cùng sở thích hoặc có khả năng đáp ứng những nhu cầu đặc thù có thể là một cách để đối diện và vượt qua cảm giác cô đơn.

Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa bạn phải từ bỏ các mối quan hệ cũ để xây dựng mối quan hệ mới. Khi những người bạn cũ – những người mà ta vẫn trân trọng – không còn đáp ứng được những nhu cầu mới, có lẽ điều cần thiết là tìm cách cứu vãn mối quan hệ ấy. Đôi khi, bạn có thể chọn cách tiếp cận thụ động, chấp nhận sự thăng trầm tự nhiên trong các mối quan hệ và thời gian cần thiết để người khác thích nghi với những thay đổi của bạn. Bạn có thể “kiên nhẫn chờ đợi”.

Nhưng trên thực tế, rất khó để được thấu hiểu nếu bạn không nói ra nhu cầu của mình. Vì vậy, một chiến lược chủ động có vẻ hứa hẹn hơn. Bạn có thể giúp bạn bè hiểu rõ hơn về những gì bạn cần bằng cách chia sẻ những nhu cầu đó và bày tỏ rằng bạn cảm thấy mình chưa thực sự được nhìn nhận.

Tất nhiên, chiến lược này chỉ hiệu quả khi bạn có thể nhận diện và diễn đạt được những nhu cầu chưa được đáp ứng mà dẫn đến cảm giác cô đơn của mình. Thế nhưng, ta thường – thậm chí có thể nói là luôn – có những nhu cầu, khát khao, hay giá trị mà chính ta cũng không ý thức được hoặc không thể diễn tả thành lời, ngay cả với bản thân. Con người, ở một mức độ nào đó, luôn là một bí ẩn đối với chính mình. Và chính vì sự mờ mịt này, một mức độ cô đơn nhất định có lẽ là điều không thể tránh khỏi trong bản chất con người.

Hơn nữa, nếu ta còn không thể nắm bắt hay diễn tả những nhu cầu khiến mình cô đơn, thì việc lựa chọn chiến lược thụ động có thể là cách duy nhất. Trong trường hợp đó, chỉ khi cảm giác cô đơn bắt đầu tan biến nhờ một người nào đó đáp ứng đúng nhu cầu, ta mới nhận ra những điều mình đã thiếu hụt.

Nguồn: ​​​​​​Loved, yet lonely - Aeon.co

menu
menu