Bậc thầy trong tình yêu hay khoa học của hạnh phúc đến trọn đời
Các nhà nghiên cứu thấy rằng sự coi thường là yếu tố hàng đầu phá vỡ các đôi vợ chồng.
Tác giả: Emily Esfahani Smith
Nguồn: The Atlantic
Dịch bởi Dấu hiệu Thời đại
Mỗi ngày trong tháng sáu, mùa cưới trong năm ở nước Mỹ, khoảng 13.000 cặp vợ chồng sẽ nói lời cam kết cho một cuộc hôn nhân đến trọn đời, một mối quan hệ đầy tình bạn, niềm vui và tình yêu sẽ theo họ đến tận ngày cuối cùng trên trái đất này.
Dĩ nhiên, ngoại trừ việc là nó không diễn ra như vậy với hầu hết mọi người. Đa số các cuộc hôn nhân thất bại, hoặc kết thúc bằng ly dị hay ly thân, hay biến thành mối quan hệ đầy cay đắng và khủng hoảng. Trong số những người kết hôn, chỉ có 3 trong số 10 người giữ được cuộc hôn nhân lành mạnh, hạnh phúc, như nhà tâm lý học Ty Tashiro chỉ ra trong cuốn Khoa học của Hạnh phúc đến Trọn đời (The Science of Happily Ever After) xuất bản vào đầu năm nay.
Các nhà khoa học xã hội bắt đầu nghiên cứu hôn nhân bằng cách quan sát chúng lần đầu tiên trong những năm 70 để tìm giải pháp cho một cuộc khủng hoảng: Các cặp vợ chồng ly dị với tỷ lệ chưa từng có. Lo ngại về ảnh hưởng của những vụ ly hôn này lên con cái trong gia đình, các nhà tâm lý học quyết định tung lưới lên các đôi vợ chồng, lôi họ vào phòng thí nghiệm để quan sát và xác định xem thành phần của mối quan hệ lành mạnh, lâu bền là gì. Có phải mỗi gia đình bất hạnh đều bất hạnh theo cách riêng của họ như Tolstoy từng tuyên bố, hay những cuộc hôn nhân đau khổ đều có chung một yếu tố độc hại nào đó?
Nhà tâm lý học John Gottman là một trong những nhà nghiên cứu đó. Trong bốn thập kỷ qua, ông đã nghiên cứu hàng ngàn cặp vợ chồng trong công cuộc tìm kiếm cái gì khiến các mối quan hệ thành công. Gần đây tôi có cơ hội phỏng vấn Gottman và vợ ông Julie, cũng là một nhà tâm lý học, ở thành phố New York. Hai chuyên gia nổi tiếng về hôn nhân này cùng nhau quản lý Học viện Gottman, nơi họ giúp các đôi vợ chồng xây dựng và duy trì mối quan hệ lành mạnh và yêu thương dựa trên cơ sở nghiên cứu khoa học.
John Gottman bắt đầu thu thập những phát hiện quan trọng nhất của ông vào năm 1986 khi ông thành lập “Phòng Thí nghiệm Tình yêu” với đồng nghiệp Robert Levenson tại trường Đại học Washington. Gottman và Levenson đưa các cặp mới cưới vào phòng thí nghiệm và quan sát họ tương tác với nhau. Cùng một đội ngũ các nhà nghiên cứu, họ nối những người tình nguyện vào các cực điện và đề nghị họ nói về mối quan hệ của mình, như là họ đã gặp nhau thế nào, một xung đột lớn mà họ đối mặt cùng nhau, một kỷ niệm tốt lành mà họ có. Trong khi họ nói, các cực điện đo lưu lượng máu, nhịp tim và lượng mồ hôi tiết ra. Rồi những nhà nghiên cứu cho các đôi đi về và hẹn gặp họ lại sáu năm sau để xem họ còn sống với nhau không.
Từ dữ liệu thu thập được, Gottman chia các cặp vợ chồng thành hai nhóm chính: nhóm bậc thầyvà nhóm sa lầy. Nhóm bậc thầy vẫn sống hạnh phúc với nhau sau sáu năm. Nhóm sa lầy hoặc đã chia tay, hoặc thường xuyên không hạnh phúc trong hôn nhân của họ. Khi những nhà nghiên cứu phân tích dữ liệu thu thập được, họ thấy sự khác biệt rõ ràng giữa nhóm bậc thầy và nhóm sa lầy. Nhóm sa lầy trông có vẻ bình tĩnh trong cuộc phỏng vấn, nhưng các thông số sinh lý của họ, đo bởi những điện cực, kể một câu chuyện khác hẳn. Nhịp tim của họ nhanh, các tuyến mồ hôi hoạt động và lưu lượng máu chảy nhanh. Theo dõi hàng ngàn cặp vợ chồng theo thời gian, Gottman thấy rằng các thông số sinh lý của những cặp vợ chồng càng cao trong phòng thí nghiệm bao nhiêu thì mối quan hệ của họ xấu đi nhanh bấy nhiêu theo thời gian.
Nhưng các thông số sinh lý ấy thì có liên quan gì?
Vấn đề là ở chỗ nhóm sa lầy bộc lộ tất cả những dấu hiệu bị kích thích – ở trong trạng thái chiến đấu hay chạy trốn – trong mối quan hệ của họ. Ngồi nói chuyện cạnh người bạn đời, đối với cơ thể của họ, giống như là đối mặt với một con hổ răng kiếm.
Ngay cả khi họ nói về những khía cạnh dễ chịu hay rất thông thường trong mối quan hệ, họ cũng vẫn chuẩn bị tấn công hay bị tấn công. Điều đó khiến nhịp tim của họ tăng cao và họ trở nên hung hăng hơn đối với nhau. Ví dụ, một cặp vợ chồng có thể nói về những chuyện xảy ra ngày hôm ấy với họ và anh chồng đang bị kích động có thể nói với vợ: “Sau em không nói về chuyện của mình đi? Thế có phải tốt hơn không?”
Ngược lại, nhóm bậc thầy bộc lộ sự kích thích thấp. Họ cảm thấy bình tĩnh và kết nối với nhau, và điều đó dẫn đến những hành vi ấm áp và yêu thương, ngay cả khi họ cãi lộn. Ở đây không phải là nhóm bậc thầy có cấu trúc sinh lý tốt hơn nhóm sa lầy, nó là họ đã tạo được bầu không khí tin cậy và gần gũi khiến cả hai cảm thấy thoải mái về mặt tình cảm, và điều đó thể hiện ra ngoài về mặt thể chất.
Gottman muốn biết làm thế nào nhóm bậc thầy tạo ra nền tảng của tình yêu và sự gần gũi đó, còn nhóm sa lầy thì phá hỏng nó. Trong một nghiên cứu tiếp theo vào năm 1990, ông thiết kế phòng thí nghiệm ở trường Đại học Washington giống như một nhà nghỉ đẹp. Ông mời 130 đôi mới cưới nghỉ một ngày ở đó và quan sát họ làm những thứ các cặp vợ chồng thường làm trong kỳ nghỉ: nấu ăn, dọn dẹp, nghe nhạc, ăn uống, trò chuyện, đi chơi. Và Gottman đạt được một khám phá quan trọng trong nghiên cứu này – khám phá đi vào tận gốc vấn đề tại sao một số mối quan hệ phát triển trong khi những mối quan hệ khác lụi tàn.
Trong sinh hoạt hàng ngày, một trong hai người sẽ phát tín hiệu yêu cầu kết nối, cái mà Gottman gọi là “đánh tiếng”. Ví dụ, có thể anh chồng là người đam mê chim và anh nhận thấy một con chim kim oanh bay qua sân. Anh ta có thể nói với vợ: “Xem con chim ngoài kia đẹp không kìa!” Anh ta không chỉ nhận xét về con chim ở đây; anh ta đang yêu cầu một phản ứng từ người vợ – một dấu hiệu của sự quan tâm hay hỗ trợ – hy vọng rằng hai người sẽ kết nối, dù chỉ là ngắn ngủi, về chuyện con chim.
Người vợ bây giờ có một lựa chọn. Cô có thể phản ứng bằng cách “quay ra” hoặc “quay đi” khỏi anh chồng, như cách Gottman nói. Mặc dù sự đánh tiếng về con chim có vẻ nhỏ nhặt và ngớ ngẩn, nó thực ra có thể tiết lộ rất nhiều về tình trạng sức khỏe của mối quan hệ. Người chồng nghĩ rằng con chim đủ quan trọng để đưa vào câu chuyện và vấn đề ở đây là liệu người vợ có nhận ra và tôn trọng điều đó không.
Những người quay ra với bạn đời của họ trong nghiên cứu này đáp ứng bằng cách tham gia cùng người đánh tiếng, biểu lộ sự quan tâm và ủng hộ. Những người không làm vậy – những người quay đi – không phản ứng hay chỉ phản ứng lấy lệ và tiếp tục những gì họ đang làm, như là xem TV hay đọc báo. Đôi khi họ còn đáp lại với thái độ thù địch công khai, như là nói, “Đừng có làm phiền tôi. Tôi đang đọc báo.”
Tương tác đánh tiếng này có ảnh hưởng sâu sắc đến hạnh phúc hôn nhân. Các cặp vợ chồng ly dị trước lần nghiên cứu tiếp sáu năm sau chỉ “quay ra” đối với những lần đánh tiếng với tỷ lệ 33%. Chỉ có 3 trong số 10 lần yêu cầu kết nối về tình cảm được đáp lại với sự gần gũi. Những cặp vợ chồng vẫn sống với nhau sau sáu năm “quay ra” đối với những lần đánh tiếng với tỷ lệ 87%. Chín trong số mười lần, họ đáp ứng nhu cầu tình cảm của người bạn đời.
Bằng cách quan sát những tương tác kiểu như vậy, Gottman có thể dự đoán chắc chắn đến 94% liệu một đôi – dù là đồng tính hay không, giàu hay nghèo, có con hay không – sẽ tan vỡ, sống cùng nhau nhưng không hạnh phúc, sống cùng nhau và hạnh phúc đến nhiều năm sau. Mấu chốt của nó là tinh thần mà cặp vợ chồng mang đến cho mối quan hệ của họ. Họ mang đến sự tử tế và hào hiệp hay sự coi thường, chỉ trích và thù địch?
“Có một thói quen mà nhóm bậc thầy có,” Gottman giải thích trong cuộc phỏng vấn, “đó là: họ luôn quan sát, tìm kiếm trong môi trường xã hội những thứ mà họ có thể biểu lộ sự cảm kích và nói lời cảm ơn. Họ xây dựng nền tảng của sự tôn trọng và cảm kích này một cách rất có ý thức. Nhóm sa lầy quan sát, tìm kiếm trong môi trường xã hội những sai lầm của người bạn đời.”
“Nó không chỉ là quan sát môi trường,” Julie Gottman xen vào. “Nó là quan sát người bạn đời để tìm kiếm những gì anh ta làm được hay quan sát để tìm kiếm những gì anh ta làm sai, để chỉ trích hay biểu lộ sự tôn trọng và cảm kích.”
Các nhà nghiên cứu thấy rằng sự coi thường là yếu tố hàng đầu phá vỡ các đôi vợ chồng.
Những người tập trung vào việc chỉ trích bạn đời của họ không nhận thấy đến 50% những điều tích cực mà người bạn đời đang làm và họ nhìn thấy sự tiêu cực nơi mà nó không có. Những người làm mặt lạnh với bạn đời của mình – cố ý bỏ qua hay chỉ đáp ứng một cách tối thiểu – làm hỏng mối quan hệ bằng cách khiến người bạn đời cảm thấy không được quan tâm và không có giá trị gì, như là họ không có ở đấy. Những người đối xử với bạn đời bằng sự khinh miệt và chỉ trích không chỉ giết chết tình yêu trong mối quan hệ, mà họ còn làm giảm khả năng chống lại bệnh tật của người bạn đời. Sự khinh miệt là hồi chuông báo tử cho mối quan hệ.
Ngược lại, sự tử tế là chất keo gắn các đôi với nhau. Những nghiên cứu khác độc lập với nhà Gottman cũng cho thấy sự tử tế (cùng sự ổn định về tình cảm) là yếu tố dự báo quan trọng nhất cho sự hài lòng và ổn định trong hôn nhân. Sự tử tế khiến mỗi người trong cặp vợ chồng cảm thấy được quan tâm, được hiểu và được cảm thấy mình quan trọng – tóm lại là được yêu. “Tình cảm của em vô biên như biển cả,” Juliet của Shakespeare đã nói như vậy. “Tình yêu của em cũng sâu thẳm như vậy. Em càng cho anh bao nhiêu thì em càng có nhiều bấy nhiêu, bởi vì cả hai đều là vô hạn.” Câu đó cũng áp dụng với sự tử tế. Có rất nhiều bằng chứng cho thấy một người càng nhận được hay chứng kiến sự biểu hiện của lòng tốt bao nhiêu thì bản thân người đó cũng trở nên tốt bụng bấy nhiêu, và điều đó tạo ra một vòng xoáy đi lên của tình yêu và sự hào hiệp trong mối quan hệ.
Có hai cách để nghĩ về sự tử tế. Bạn có thể nghĩ về nó như một đặc điểm cố định: hoặc là bạn có nó, hoặc bạn không. Hay là bạn có thể nghĩ về sự tử tế như một cơ bắp. Ở một số người, cơ bắp ấy khỏe hơn ở những người khác một cách tự nhiên, nhưng nó có thể phát triển tốt hơn ở tất cả mọi người bằng cách tập luyện. Nhóm bậc thầy có xu hướng nghĩ về sự tử tế như một cơ bắp. Họ biết rằng họ phải rèn luyện để giữ nó được khỏe mạnh. Nói một cách khác, họ biết rằng mối quan hệ tốt đòi hỏi sự cố gắng thường xuyên và dài hạn.
“Nếu người bạn đời của bạn bộc lộ nhu cầu,” Julie Gottman giải thích, “và bạn đang mệt mỏi, căng thẳng, hay phân tâm, thì tinh thần hào hiệp vẫn khiến bạn quay ra khi anh ấy hay cô ấy đánh tiếng.”
Vào thời điểm ấy, phản ứng dễ dàng nhất là quay đi khỏi người bạn đời và tập trung vào iPad, cuốn sách hay cái TV của bạn và lầm bầm “Uh huh”, rồi tiếp tục làm những gì bạn đang làm. Nhưng bỏ qua những khoảnh khắc nhỏ có thể kết nối về tình cảm sẽ dần dần bào mòn mối quan hệ của bạn. Sự bỏ mặc tạo ra khoảng cách giữa hai người và nuôi dưỡng lòng oán giận ở người đang bị bỏ mặc.
Dĩ nhiên, thời điểm khó khăn nhất để thực hành sự tử tế là lúc đang cãi lộn, nhưng đấy cũng là thời điểm quan trọng nhất để làm vậy. Để sự khinh miệt và hung hăng vượt ra ngoài vòng kiểm soát trong cuộc xung đột có thể gây thiệt hại không thể hàn gắn cho mối quan hệ.
“Sự tử tế không có nghĩa là chúng ta không thể hiện sự tức giận,” Julie Gottman giải thích, “nhưng sự tử tế hướng dẫn chúng ta thể hiện sự tức giận ấy thế nào. Bạn có thể ném lao vào người bạn đời của mình. Hoặc là bạn có thể giải thích tại sao bạn đang bị tổn thương và giận dữ, và đó là cách của sự tử tế.”
John Gottman giải thích thêm về những cái lao: “Nhóm sa lầy sẽ nói một cách khác trong cuộc cãi lộn. Họ sẽ nói, ‘Anh lại muộn rồi. Anh bị làm sao thế? Anh giống hệt như mẹ anh vậy.’ Nhóm bậc thầy sẽ nói, ‘Em không muốn phải nói nhiều về việc anh lại muộn, và em biết đó không phải lỗi của anh, nhưng nó thực sự làm em rất bực mình.’”
* * * * * *
Đối với hàng trăm ngàn lứa đôi sẽ cưới tháng này – và đối với hàng triệu lứa đôi đang sống với nhau, dù đã cưới hay chưa – bài học từ nghiên cứu này là rõ ràng: Nếu bạn muốn có mối quan hệ lành mạnh và ổn định, hãy thực hành sự tử tế sớm và thường xuyên.
Khi mọi người nghĩ về thực hành sự tử tế, họ thường nghĩ về những cử chỉ hào hiệp nho nhỏ, như là mua cho nhau những món quà nhỏ hay thỉnh thoảng xoa bóp lưng cho nhau. Trong khi đó là những ví dụ rất tốt của sự hào hiệp, sự tử tế cũng có thể được xây vào nền móng của mối quan hệ thông qua cách mà hai người bạn đời tương tác với nhau hàng ngày, cho dù có sôcôla và xoa bóp lưng hay không.
Một cách để thực hành sự tử tế là nghĩ một cách hào hiệp về ý định của người bạn đời.
Từ nghiên cứu của hai vợ chồng Gottman, chúng ta biết rằng nhóm sa lầy thường nhìn thấy sự tiêu cực trong mối quan hệ của họ ngay cả khi nó không phải vậy. Ví dụ, một người vợ đang tức giận có thể cho rằng việc anh chồng không hạ nắp ngồi bồn cầu xuống sau khi dùng là do anh cố ý muốn chọc tức cô. Nhưng anh có thể chỉ đãng trí nên đã quên làm vậy.
Hay ví dụ người vợ về muộn bữa tối (một lần nữa). và người chồng cho rằng cô không tôn trọng anh đủ mức để về nhà đúng giờ vào ngày kỷ niệm ngày cưới của họ sau khi anh đã mất công đặt nhà hàng và rời công sở về sớm để họ có thể có một buổi tối lãng mạn cùng nhau. Nhưng hóa ra người vợ về muộn vì cô dừng lại ở cửa hàng để mua quà cho anh trong buổi tối đặc biệt của họ. Thử tưởng tượng khi cô về nhà gặp chồng, vui mừng trao ra món quà, chỉ để nhận ra rằng anh ta đang ở trong tâm trạng xấu vì anh đã hiểu sai động cơ hành vi của cô. Khả năng diễn giải hành động và ý định của người bạn đời một cách hào hiệp có thể làm giảm bớt các cạnh sắc trong cuộc xung đột.
“Ngay cả trong mối quan hệ mà hai người đang bực bội, gần như luôn luôn có những điều tích cực đang xảy ra và người này hay người kia đang cố gắng hàn gắn,” nhà tâm lý học Ty Tashiro nói với tôi. “Rất thường xuyên, một trong hai người cố gắng hàn gắn mối quan hệ mặc dù cách thực hiện không được tốt lắm. Vậy hãy đánh giá cao ý định đó.”
Một chiến lược của sự tử tế có hiệu quả khác xoay quanh việc chia sẻ niềm vui. Một trong những dấu hiệu rõ ràng của nhóm sa lầy mà Gottman nghiên cứu là việc họ không có khả năng kết nối với nhau khi một trong hai người có tin tức tốt lành. Ví dụ khi một trong hai người phấn khích chia sẻ việc được thăng chức trong công việc, người kia phản ứng bằng cách xem đồng hồ hay dập tắt cuộc nói chuyện bằng một câu bình luận thờ ơ như “Tốt đấy”.
Chúng ta đều nghe câu nói rằng vợ chồng phải ở bên nhau khi tối lửa tắt đèn. Nhưng nghiên cứu cho thấy ở bên nhau khi mọi thứ đều tốt đẹp thực ra còn quan trọng hơn cho chất lượng của mối quan hệ. Cách một người phản ứng với tin tức tốt từ người bạn đời có thể có ảnh hưởng rất lớn lên mối quan hệ.
Trong một nghiên cứu từ năm 2006, nhà nghiên cứu Shelly Gable và đồng nghiệp của bà đưa các đôi vợ chồng trẻ vào phòng thí nghiệm để thảo luận về những sự kiện tích cực gần đây trong cuộc sống của họ. Các nhà tâm lý học muốn biết các cặp đôi đó phản ứng với tin tức tốt từ người kia ra sao. Họ phát hiện rằng, nói chung, mọi người phản ứng với tin tức tốt từ người bạn đời theo một trong bốn cách mà họ gọi là: thụ động mang tính phá hoại, chủ động mang tính phá hoại, thụ động mang tính xây dựng và chủ động mang tính xây dựng.
Giả sử gần đây người vợ nhận được tin tức tuyệt vời là cô được nhận vào trường y. Cô sẽ nói một câu như “Em đã vào được trường y mà em thích nhất!”
Nếu người bạn đời của cô phản ứng theo cách thụ động mang tính phá hoại, anh sẽ bỏ qua sự kiện đó. Ví dụ, anh ta có thể nói một câu như: “Em sẽ không thể tin được anh vừa được cái gì ngày hôm qua đâu! Anh được một cái áo phông miễn phí.”
Nếu người bạn đời của cô phản ứng theo cách thụ động mang tính xây dựng, anh sẽ tiếp nhận tin tức tốt đó, nhưng theo một cách nửa vời, nhạt nhẽo. Một phản ứng thụ động mang tính xây dựng điển hình là trả lời “Thật tuyệt vời, em yêu” trong khi anh ta đang gửi tin nhắn cho bạn trên điện thoại.
Trong cách phản ứng thứ ba, chủ động mang tính phá hoại, người bạn đời sẽ làm giảm thiểu sự phấn khích của cô: “Em có chắc em có thể học được không? Rồi còn chi phí thì sao? Học trường y thật là quá tốn kém!”
Cuối cùng, có cách phản ứng chủ động mang tính xây dựng. Nếu người bạn đời của cô đáp ứng theo cách này, anh sẽ dừng những gì đang làm và tham gia hết lòng với cô: “Thật là tuyệt vời! Chúc mừng em! Em biết khi nào vậy? Họ gọi cho em à? Em sẽ học những môn nào trong học kỳ đầu?”
Trong bốn phong cách đáp ứng trên, chủ động mang tính xây dựng là cách tử tế nhất. Trong khi những cách phản ứng khác dập tắt niềm vui, cách chủ động mang tính xây dựng tạo điều kiện cho người bạn đời thưởng thức niềm vui của cô và mang lại cho hai người một cơ hội để gắn kết thông qua tin tức tốt lành đó. Theo cách nói của vợ chồng Gottman, phản ứng chủ động mang tính xây dựng là một cách “quay ra” đối với sự đánh tiếng của người bạn đời (chia sẻ tin tức tốt) thay vì “quay đi”.
Đáp ứng chủ động mang tính xây dựng là cực kỳ quan trọng cho một mối quan hệ lành mạnh. Trong nghiên cứu năm 2006, Gable và các cộng sự của bà liên lạc với những cặp vợ chồng hai tháng sau đó để xem họ còn sống với nhau không. Các nhà tâm lý học thấy rằng sự khác nhau duy nhất giữa những đôi còn sống với nhau và những đôi đã chia tay là phản ứng chủ động mang tính xây dựng. Những người thể hiện sự quan tâm thực sự với niềm vui của người bạn đời có nhiều khả năng vẫn sống với nhau hơn. Trong một nghiên cứu trước, Gable thấy rằng đáp ứng chủ động mang tính xây dựng cũng gắn liền với chất lượng cao hơn và sự gần gũi hơn trong mối quan hệ.
Có nhiều lý do tại sao các mối quan hệ thất bại, nhưng nếu bạn xem xét kỹ điều gì thúc đẩy sự suy thoái của nhiều mối quan hệ, nó thường là sự đổ vỡ của sự tử tế giữa hai người. Với những căng thẳng của cuộc sống vợ chồng tích lũy dần – con cái, sự nghiệp, bạn bè, gia đình bên kia và những phiền nhiễu khác lấn át thời gian cho sự lãng mạn và gần gũi – các đôi vợ chồng có thể đầu tư ít nỗ lực hơn cho mối quan hệ của họ và để những sự khó chịu nhỏ nhặt mà họ có đối với nhau chia cắt họ. Trong hầu hết các cuộc hôn nhân, mức độ hài lòng suy giảm đáng kể sau vài năm sống cùng nhau. Nhưng với những cặp vợ chồng không chỉ chịu đựng, mà còn sống hạnh phúc với nhau trong nhiều năm trời, tinh thần của sự tử tế và lòng hào hiệp hướng dẫn họ đi về phía trước.
Nhận xét: Dưới đây là một nhận xét được nhiều người ưa thích nhất dưới bài viết gốc:
Tôi hoàn toàn đồng ý, Jed. Tôi cũng là một trong số những “bậc thầy” may mắn, nhờ ơn trời đã kết hôn và yêu say đắm vợ tôi được 20 năm nay. Mọi người thường tự hỏi có phải chúng tôi vừa mới cưới không khi họ giao thiệp với chúng tôi.
Cũng không có “cố gắng” nào ở đây cả. Tuy nhiên, tôi tin chắc rằng “thói quen” là điều quan trọng. Thói quen tử tế và tôn trọng lẫn nhau. Rất thường xuyên tôi thấy những đôi vợ chồng quyết định rằng một khi mối quan hệ của họ đạt đến một giai đoạn nhất định – hẹn hò nghiêm túc, đính hôn hay cưới – nghĩa là họ đã “sở hữu” người bạn đời của mình, và do vậy không cần đối xử tốt như trước nữa. Việc tìm hiểu, tán tỉnh đã xong. Trên thực tế, còn ai khác ngoài người bạn đời mà bạn cần đối xử như vị nữ hoàng hay vua?
Tôi cũng nói với mọi người: “Chúng tôi tranh luận suốt ngày; nhưng rất hiếm khi chúng tôi cãi lộn.” Tôi có thể đếm số lần “cãi lộn” trong 20 năm qua trên một bàn tay. Tranh luận một cách công bằng, nói thật sớm khi có những điều nhỏ khiến bạn phiền lòng và bạn sẽ không còn cần những trận cãi lộn to nữa, bởi vì những trận cãi lộn to ấy thường là cả một mớ những thứ nhỏ nhặt phát triển lên thành những thứ lớn và chúng có thể làm hại đến tình yêu.