Được yêu thương, nhưng vẫn cô đơn

Có thể bạn đang được gia đình và bạn bè yêu thương vô điều kiện, nhưng sâu thẳm bên trong vẫn cảm thấy cô đơn đến lạ. Liệu triết học có thể lý giải điều này không?
Dù khoảnh khắc cô đơn nhất trong đời tôi đã trôi qua hơn 15 năm, nhưng tôi vẫn nhớ như in cảm giác nhói đau của nó. Khi đó, tôi vừa trở về nhà sau một học kỳ du học tại Ý. Trong thời gian sống ở Florence, tiếng Ý của tôi đã tiến bộ đến mức tôi có thể mơ bằng ngôn ngữ ấy. Tôi cũng bắt đầu say mê chủ nghĩa vị lai Ý, Dada và chủ nghĩa phi lý của Nga – không hẳn chỉ vì tôi có cảm tình với vị giáo sư giảng dạy môn này – cũng như những bài sonnet tình yêu của Dante và Petrarch (cũng có thể liên quan đến vị giáo sư ấy). Tôi rời nước Ý với một cảm giác mà có lẽ nhiều du học sinh cũng từng trải qua: không chỉ thay đổi về mặt tri thức mà cả về mặt cảm xúc. Thế giới trong tôi trở nên phức tạp hơn, và chính cách tôi cảm nhận về thế giới cũng sâu sắc và tinh tế hơn trước rất nhiều.
Sau học kỳ ấy, tôi trở về thị trấn lao động nhỏ bé ở New Jersey – nơi tôi gọi là nhà. Chính xác hơn, tôi sống trong căn nhà của bố mẹ bạn trai, ngôi nhà đang trong quá trình bị tịch thu nhưng chưa chính thức bị ngân hàng lấy đi. Cả hai bác đã chuyển đến nơi khác, nhưng tốt bụng để tôi ở lại cùng bạn trai, chị gái anh ấy và bạn trai của chị ấy vào những dịp nghỉ học. Khi không đến trường, tôi dành hầu hết thời gian bên họ và một vài người bạn thân từ thời thơ ấu.
Khi trở về từ Ý, tôi có quá nhiều điều muốn chia sẻ. Tôi muốn nói với bạn trai rằng tôi thấy chủ nghĩa vị lai Ý thú vị về mặt thẩm mỹ nhưng lại nông cạn về mặt trí tuệ. Tôi muốn kể với những người bạn thân nhất rằng những bài sonnet tình yêu Ý đã khiến tôi rung động đến nhường nào, rằng Bob Dylan đã diễn tả sức mạnh của chúng một cách tuyệt vời ra sao: “Và từng câu chữ đều ngân vang chân thật, rực cháy như than hồng, tuôn trào khỏi từng trang giấy, như thể được viết ra từ tận tâm hồn tôi…” Ngoài mong muốn được chia sẻ những điều đã trở thành một phần quan trọng trong sự hiểu biết về chính mình, tôi còn khao khát được trò chuyện về những ý tưởng mới, được người khác nhìn thấy và công nhận con người mà tôi đã trở thành sau chuyến đi. Nhưng khi trở về nhà, tôi không chỉ thấy mình lạc lõng trong những cuộc trò chuyện, mà còn nhận ra rằng không ai thực sự hiểu được tôi đã thay đổi thế nào. Và tôi cô đơn đến quặn lòng.
Paris, 1951. Photo by Elliot Erwitt/Magnum
Trải nghiệm này không hiếm gặp với những du học sinh. Dù có một mạng lưới quan hệ yêu thương và hỗ trợ, họ vẫn có thể gặp phải hiện tượng sốc văn hóa ngược – thứ mà nhà tâm lý học Kevin Gaw mô tả là “quá trình tái thích nghi, tái hội nhập và hòa nhập lại với văn hóa quê nhà sau một thời gian dài sống trong môi trường văn hóa khác”. Sự cô đơn là điều thường trực trong giai đoạn này.
Nhưng không chỉ có du học sinh mới cảm thấy cô đơn giữa những người yêu thương mình. Có biết bao tình huống quen thuộc khác cũng khiến ta rơi vào cảm giác ấy: người sinh viên trở về sau một năm đại học đầy biến đổi; cô bé thiếu niên trở về với cha mẹ – những người luôn yêu thương nhưng lại bảo thủ – sau một mùa hè thức tỉnh về giới tính; người phụ nữ da màu thế hệ đầu tiên trong gia đình đi học cao học, luôn cảm thấy lạc lõng giữa hai thế giới – không được thấu hiểu trọn vẹn, dù là trong khoa hay ở quê nhà; nữ y tá chuyên đi công tác trở về bên người thân sau một nhiệm vụ đầy ý nghĩa (hoặc đầy thử thách tâm lý); người đàn ông vừa trải qua cuộc chia tay đầy đau đớn với người bạn đời gắn bó lâu năm; người phụ nữ là người đầu tiên trong nhóm bạn trở thành mẹ… Danh sách này có thể kéo dài mãi.
Nhưng không phải lúc nào cũng cần một biến cố lớn để nỗi cô đơn len lỏi vào tâm hồn ta. Thời gian trôi qua, những người từng hiểu ta rõ nhất dần dần không còn thấu suốt ta như trước nữa. Họ không còn nhìn thấy ta theo cách mà họ từng nhìn. Và thế là, sự cô đơn lặng lẽ xuất hiện – không dữ dội, không rõ ràng, mà ngấm dần, len lỏi vào từng khoảnh khắc. Cô đơn, dường như, là một nguy cơ luôn rình rập trong kiếp người – một điều mà ta luôn có thể đối diện, ngay cả khi không hề ở một mình.
Trong cuốn sách "Cuộc Sống Khó Khăn" (2022), triết gia Kieran Setiya mô tả nỗi cô đơn là "nỗi đau của sự tách biệt xã hội". Ông lập luận rằng chúng ta cần quan tâm đến bản chất của cô đơn – vì sao nó khiến ta đau đớn và nỗi đau đó nói lên điều gì về cách ta nên sống – đặc biệt khi cô đơn đang ngày càng trở nên phổ biến trong xã hội hiện đại. Ông nhận định đúng rằng cô đơn không đơn thuần là trạng thái bị cô lập khỏi mọi người, bởi ta vẫn có thể cảm thấy cô đơn ngay cả khi đứng giữa một đám đông. Hơn nữa, vì những tác động tiêu cực về tâm lý và sinh lý của cô đơn dường như phụ thuộc vào cảm nhận chủ quan của mỗi người, nên để chống lại nó một cách hiệu quả, ta cần xác định nguồn gốc thực sự của cảm giác này.
Setiya cho rằng con người là những sinh vật xã hội với nhu cầu gắn kết, trong đó quan trọng nhất là nhu cầu được yêu thương và được công nhận giá trị. Khi những nhu cầu cơ bản này không được đáp ứng, chẳng hạn khi ta xa cách bạn bè, ta sẽ cảm thấy cô đơn. Không có bạn bè bên cạnh để khẳng định rằng ta có ý nghĩa, ta trải qua một cảm giác trống rỗng, như thể có một khoảng trống trong lòng từng được lấp đầy nhưng nay không còn nữa. Đây chính là trạng thái cô đơn ở dạng nguyên sơ nhất. (Setiya sử dụng từ "bạn bè" theo nghĩa rộng, bao gồm cả gia đình thân thiết và người bạn đời, và tôi cũng sẽ theo cách dùng này.)
Hãy tưởng tượng một người phụ nữ nhận công việc mới, buộc phải chuyển đến một nơi xa lạ, không quen biết ai. Dù có thể cô nhận được những lời chào hỏi thân thiện từ đồng nghiệp và hàng xóm, Setiya cho rằng cô vẫn có khả năng cảm thấy cô đơn, vì cô chưa có những mối quan hệ gần gũi, yêu thương thật sự. Nói cách khác, cô đơn xuất hiện vì cô chưa có những người bạn có thể phản chiếu lại cho cô thấy giá trị cơ bản của bản thân, những người giúp cô cảm nhận rằng cô có ý nghĩa trong cuộc đời này. Chỉ khi cô tạo dựng được tình bạn thực sự, khi cô cảm thấy mình thực sự quan trọng đối với ai đó, nỗi cô đơn mới dần vơi đi.
Setiya không phải là người duy nhất liên kết cô đơn với sự thiếu vắng sự công nhận giá trị cá nhân. Trong "Nguồn Gốc Chủ Nghĩa Toàn Trị" (1951), Hannah Arendt cũng định nghĩa cô đơn là cảm giác xuất hiện khi nhân phẩm hay giá trị vô điều kiện của một con người không được công nhận và khẳng định. Bà xem đây là một trong những "yêu cầu cơ bản của kiếp người".
Những quan điểm này đúng trên nhiều khía cạnh, nhưng chúng cũng bỏ sót một điều quan trọng. Theo cách nhìn nhận này, tình bạn yêu thương giúp ta tránh khỏi cô đơn vì người bạn chính là người khẳng định giá trị con người của ta. Không có bạn bè, hoặc khi xa cách họ, ta mất đi sự khẳng định này và trở nên cô đơn. Nhưng điều đáng chú ý là đặc điểm mà bạn bè công nhận – giá trị vô điều kiện của ta – lại mang tính phi cá nhân. Nói cách khác, điều mà người bạn khẳng định không phải là nét riêng biệt của ta, mà là phẩm giá chung mà mỗi con người đều có. (Nó giống như việc một người bạn nói rằng: "Cậu quan trọng... cũng giống như mọi người khác vậy.")
Cũng giống như ta có thể cảm thấy cô đơn giữa một căn phòng đầy người lạ, ta cũng có thể cảm thấy cô đơn ngay cả khi được vây quanh bởi bạn bè.
Bởi vì nhân phẩm hay giá trị của ta bị tách rời khỏi những đặc điểm cá nhân riêng biệt, người bạn có thể công nhận giá trị của ta mà không cần hiểu hay đáp ứng những nhu cầu cá nhân, những giá trị riêng của ta. Nếu Setiya đúng, thì bạn bè có thể xoa dịu nỗi cô đơn mà không thực sự chạm đến bản sắc cá nhân của ta.
Liệu điều đó có đúng không? Những quan điểm gắn cô đơn với sự thiếu vắng công nhận giá trị cơ bản có thể đúng với một số hình thức cô đơn nhất định, nhưng dường như chúng chưa giải thích hết bức tranh toàn cảnh. Vẫn còn rất nhiều tình huống quen thuộc mà trong đó, dù được bao quanh bởi những người yêu thương ta, ta vẫn có thể cảm thấy cô đơn.
Khi tôi trở về nhà sau kỳ du học, tôi quay lại với một mạng lưới tình bạn bền chặt, yêu thương. Ngày nào tôi cũng được bao quanh bởi những người bạn chân thành, những người luôn công nhận giá trị của tôi, dù tôi có thể trở nên xa lạ với họ so với con người trước đây. Thế nhưng, tôi vẫn cảm thấy cô đơn. Trên thực tế, dù có nhiều bạn thân hơn bao giờ hết, dù gần gũi với gia đình và bạn bè hơn bao giờ hết, tôi lại cảm thấy cô đơn hơn bao giờ hết.
Và điều này cũng đúng với những trường hợp khác: sinh viên năm nhất quay về nhà sau một năm học thay đổi sâu sắc, người mẹ trẻ lần đầu có con, y tá đi công tác xa trở về sau một nhiệm vụ ý nghĩa nhưng đầy thử thách... Tất cả những tình huống này đều có thể khiến người trong cuộc cảm thấy cô đơn, dù họ được yêu thương, được công nhận và có một mạng lưới quan hệ ủng hộ xung quanh mình.
Hóa ra, cô đơn không chỉ là nỗi đau của sự tách biệt, mà còn là nỗi đau của sự không được thấu hiểu trọn vẹn.
Vậy nên, sự cô đơn hẳn phải phức tạp hơn những gì Setiya (và những quan điểm tương tự) đã đề cập. Đúng là nếu giá trị của một người không được công nhận, cô ấy sẽ cảm thấy vô cùng cô đơn. Nhưng cũng giống như việc ta có thể cảm thấy cô đơn giữa một căn phòng đầy những người xa lạ, ta cũng có thể cảm thấy cô đơn ngay giữa vòng tay bạn bè. Những quan điểm gắn sự cô đơn với sự thiếu vắng của sự công nhận cơ bản dường như không lột tả hết được bản chất của sự cô đơn – vốn không chỉ xuất hiện khi một người thiếu đi những mối quan hệ yêu thương và khẳng định, mà còn khi người ấy nhận ra rằng những mối quan hệ mình đang có (bao gồm, và có lẽ đặc biệt là, những mối quan hệ yêu thương) không đủ sâu sắc hoặc không mang lại cảm giác gắn kết mà họ mong muốn. Một người sẽ cảm thấy các mối quan hệ của mình không đủ chất lượng khi bạn bè và gia đình không thể đáp ứng những nhu cầu đặc biệt của họ, hoặc không thể công nhận và khẳng định họ như một cá thể độc nhất.
Điều này càng rõ ràng hơn trong và sau những biến cố hoặc giai đoạn chuyển đổi quan trọng của cuộc đời – khi con người trải qua những thay đổi lớn lao. Khi bước qua những trải nghiệm ấy, chúng ta thường hình thành những giá trị mới, những nhu cầu cốt lõi mới, và những khát khao thúc đẩy ta theo cách chưa từng có trước đây, đồng thời cũng có thể đánh mất một số giá trị, nhu cầu và mong muốn cũ. Nói cách khác, sau một trải nghiệm mang tính bước ngoặt, chúng ta trở thành một con người khác so với trước đó. Nếu sau sự biến đổi ấy, bạn bè ta không thể đáp ứng những nhu cầu cốt lõi mới của ta, hoặc không thể nhận ra và khẳng định những giá trị, những mong muốn trung tâm trong ta – có lẽ bởi vì họ chưa nhận ra ta đã thay đổi như thế nào – ta sẽ cảm thấy cô đơn.
Đây chính là điều đã xảy ra với tôi sau khi trở về từ Ý. Khi quay lại, tôi đã hình thành những nhu cầu cốt lõi mới – chẳng hạn như nhu cầu về một sự kết nối trí tuệ ở một mức độ và hình thức nhất định – nhưng khi về nhà, nhu cầu đó không được đáp ứng. Hơn nữa, tôi không nghĩ mình có quyền đòi hỏi bạn bè phải đáp ứng những nhu cầu ấy. Suy cho cùng, họ không có nền tảng để thảo luận về chủ nghĩa phi lý của Nga hay những bài thơ tình từ thế kỷ 13 của Ý; đó đơn giản không phải là những điều họ từng quan tâm hay suy ngẫm. Và tôi không trách họ; việc mong chờ họ phát triển một nền tảng tri thức như vậy có vẻ thật vô lý. Dù vậy, vì không có một nền tảng chung, tôi không thể thỏa mãn nhu cầu kết nối trí tuệ của mình và không thể chia sẻ với bạn bè toàn bộ thế giới nội tâm mà tôi đang trải nghiệm, một thế giới bị chi phối bởi những giá trị thẩm mỹ rất riêng – những giá trị định hình cách tôi nhìn nhận cuộc sống. Và kết quả là, tôi cảm thấy cô đơn.
Không chỉ dừng lại ở việc phát triển những nhu cầu mới, tôi còn cảm thấy bản thân đã thay đổi theo những cách rất căn bản. Dù biết bạn bè vẫn yêu thương và trân trọng mình, tôi không cảm nhận được rằng họ có thể thực sự thấy và công nhận con người mới của tôi. Tôi đã thay đổi sâu sắc đến mức đôi khi chính tôi cũng cảm thấy xa lạ với bản thân, huống hồ là những người từng thân thiết với tôi trước đây. Sau nước Ý, tôi có một góc nhìn khác về thế giới, một góc nhìn tinh tế hơn; cái đẹp, sự sáng tạo và sự trưởng thành về tư duy đã trở thành những giá trị cốt lõi trong tôi; tôi đã yêu thơ một cách nghiêm túc; tôi nhận ra mình đang trên hành trình trở thành một triết gia. Khi ấy, bạn bè tôi không thể thấy và khẳng định những khía cạnh ấy trong tôi – những điều mà ngay cả những người bạn học xa lạ cũng có thể nhận ra, dù tất nhiên, họ không hiểu tôi sâu sắc như bạn bè cũ và cũng không thể đáp ứng những nhu cầu khác mà những người bạn thân lâu năm của tôi vẫn luôn đáp ứng. Khi trở về nhà, tôi không còn cảm thấy mình thực sự được nhìn thấy nữa.
Nhưng không cần phải du học mới có thể cảm nhận điều này. Chẳng hạn, một y tá có thể ban đầu chọn nghề vì sự ổn định về tài chính và sự nghiệp, nhưng sau một khoảnh khắc đặc biệt ý nghĩa với bệnh nhân, cô ấy bỗng nhận ra mình được thúc đẩy mạnh mẽ bởi mong muốn tạo ra sự khác biệt trong cuộc đời của những người mình chăm sóc. Cùng với sự thay đổi trong những mong muốn của cô ấy, các giá trị cốt lõi của cô ấy cũng có thể thay đổi: có lẽ bây giờ, cô ấy xem việc giảm bớt đau khổ cho người khác là điều quan trọng nhất. Và cô ấy có thể bắt đầu cảm thấy những khía cạnh khác trong công việc – những phần không liên quan đến việc xoa dịu nỗi đau, hoặc chỉ giúp giảm bớt đau khổ ở một mức độ hạn chế – không còn mang lại sự thỏa mãn như trước nữa. Nói cách khác, cô ấy đã phát triển một nhu cầu mới về việc tạo ra sự khác biệt một cách có ý nghĩa – một nhu cầu, nếu không được đáp ứng, sẽ khiến cô ấy cảm thấy trống rỗng và bất mãn sâu sắc.
Những thay đổi như thế – thay đổi về những điều thực sự khiến ta rung động, những điều mang lại cho ta cảm giác thỏa mãn sâu sắc – là những thay đổi mang tính bước ngoặt. Khi ta thay đổi theo những cách ấy, ta đã thực sự trở thành một con người khác. Và dù vẫn có những tình bạn yêu thương, nếu bạn bè ta không thể nhận ra và khẳng định những khía cạnh mới này trong ta, ta có thể cảm thấy mình không còn được thấu hiểu, không còn được trân trọng như con người thật sự của mình. Và khi đó, sự cô đơn sẽ xuất hiện. Điều đáng nói – và cũng là điểm gây khó khăn cho lập luận của Setiya – chính là cảm giác cô đơn sẽ càng rõ rệt và nhức nhối hơn khi những người không thể đáp ứng những nhu cầu ấy lại chính là những người đã yêu thương và công nhận ta từ trước đến nay.
Những người có nhu cầu mạnh mẽ về việc được nhìn nhận như một cá thể độc nhất có thể dễ rơi vào trạng thái cô đơn hơn những người khác.
Vậy nên, ngay cả khi có những người bạn yêu thương, nếu ta cảm thấy mình không thể được nhìn nhận và khẳng định như con người độc nhất mà ta đang là, hoặc nếu những nhu cầu cốt lõi của ta không được đáp ứng, ta vẫn sẽ cảm thấy cô đơn. Setiya chắc chắn đúng khi cho rằng sự cô đơn xuất hiện khi thiếu vắng tình yêu và sự công nhận. Nhưng cô đơn cũng có thể nảy sinh khi những người ta yêu thương không thể cùng ta chia sẻ hoặc công nhận những giá trị của ta, không thể ủng hộ những khát vọng mà ta xem là trung tâm của cuộc đời mình, và không thể đáp ứng những nhu cầu sâu sắc nhất trong ta.
Nói cách khác, những nhu cầu xã hội của con người không chỉ dừng lại ở việc được công nhận một cách trừu tượng như những thực thể có giá trị vô điều kiện. Những nhu cầu này có thể rộng lớn như sự gắn bó tình cảm đôi bên hoặc cụ thể như nhu cầu được trao đổi tri thức ở một mức độ nhất định hay được chia sẻ sáng tạo. Nhưng ngay cả khi nhu cầu ấy có vẻ nhỏ bé hay ít gặp, nếu đó là một nhu cầu sâu sắc cần sự đáp ứng từ người khác mà lại không được thỏa mãn, chúng ta sẽ cảm thấy cô đơn. Thực tế rằng ta vẫn cảm thấy cô đơn ngay cả khi những nhu cầu rất cụ thể này không được đáp ứng cho thấy rằng, để hiểu và chữa lành nỗi cô đơn, ta không chỉ cần xem xét liệu giá trị của mình có được công nhận hay không, mà còn cần quan tâm đến việc ta có được thấu hiểu và trân trọng trong tính cách riêng biệt của mình hay không, và liệu những nhu cầu xã hội đặc thù của ta có được những người xung quanh đáp ứng hay không.
Hơn thế nữa, bởi mỗi người có những nhu cầu khác nhau, điều kiện dẫn đến sự cô đơn cũng sẽ khác nhau. Những người có nhu cầu mạnh mẽ trong việc khẳng định cá tính riêng có thể dễ rơi vào trạng thái cô đơn hơn. Ngược lại, có những người không quá cần sự công nhận hay gắn kết tình cảm sâu sắc vẫn có thể sống trong sự cô lập xã hội mà không cảm thấy cô đơn. Một số người có thể xoa dịu nỗi cô đơn bằng cách duy trì một vòng tròn quan hệ rộng lớn, dù không quá thân thiết, nhưng mỗi người bạn lại đáp ứng một phần khác nhau trong nhu cầu của họ. Trong khi đó, những người khác có thể vẫn cảm thấy cô đơn nếu thiếu đi những tình bạn sâu sắc, nơi họ thực sự được nhìn nhận trọn vẹn trong sự phức tạp và toàn vẹn của bản thân.
Nhưng vì bản chất con người luôn thay đổi, và những người thân yêu của ta cũng vậy, nên chúng ta không bao giờ có thể hoàn toàn miễn nhiễm với sự cô đơn. Ai trong chúng ta cũng có thể nhớ về một người bạn từng rất quan trọng, từng đáp ứng những nhu cầu xã hội cốt lõi của mình, nhưng theo thời gian – dần dần, thậm chí khó nhận ra – họ không còn làm được điều đó nữa. Nếu những nhu cầu ấy không được bù đắp bởi những người khác trong cuộc sống, sự cô đơn sẽ dần trở nên day dứt, thậm chí xé lòng.
Trong những trường hợp như vậy, những mối quan hệ mới có thể trở thành nguồn an ủi thực sự. Chẳng hạn, một người mẹ mới sinh con có thể thấy rằng những người bạn trước đây của mình, những người chưa có con, không hiểu được những nhu cầu và giá trị mới mà cô ấy đang phát triển trong hành trình làm mẹ. Vì thế, cô ấy có thể tìm đến những mối quan hệ với các bậc cha mẹ khác, những người đồng cảm và hiểu rõ hơn những niềm vui, nỗi đau, cả những hoài nghi và bối rối trong việc nuôi dạy một đứa trẻ. Nếu những mối quan hệ mới này giúp cô cảm thấy nhu cầu của mình được đáp ứng và bản thân được thấu hiểu thực sự, chúng sẽ giúp cô vơi bớt nỗi cô đơn. Do đó, bằng cách chủ động tìm kiếm những người có chung sở thích hoặc có khả năng đáp ứng những nhu cầu cụ thể của mình, ta có thể trực diện đối mặt với nỗi cô đơn.
Nhưng điều đó không có nghĩa là ta phải từ bỏ những mối quan hệ cũ để tìm kiếm những điều mới mẻ. Khi những người bạn thân thiết không còn đáp ứng được những nhu cầu mới của ta, ta có thể tìm cách cứu vãn mối quan hệ đó. Trong một số trường hợp, ta có thể chọn cách tiếp cận thụ động – chấp nhận rằng mọi mối quan hệ đều có lúc gần lúc xa, và rằng sẽ có một khoảng thời gian tự nhiên giữa sự thay đổi nhu cầu của ta và khả năng thích ứng của những người xung quanh. Ta có thể "chờ đợi". Nhưng bởi vì rất khó để nhu cầu của ta được đáp ứng nếu ta không thể diễn đạt chúng, một cách tiếp cận chủ động sẽ khả quan hơn. Để giúp bạn bè có thể đáp ứng nhu cầu của mình, ta có thể thử chia sẻ những gì mình cần, nói rõ những gì khiến mình cảm thấy chưa được thấu hiểu.
Tuy nhiên, chiến lược này chỉ hiệu quả khi ta có thể nhận diện và diễn đạt rõ ràng những nhu cầu đang bị bỏ ngỏ. Nhưng thực tế là ta rất thường xuyên – có lẽ là luôn luôn – có những nhu cầu, mong muốn và giá trị mà bản thân ta cũng không ý thức được hoặc không thể diễn tả thành lời, ngay cả với chính mình. Ta luôn có một phần nào đó chưa được hiểu rõ về chính bản thân mình. Và chính vì sự mơ hồ này, có lẽ nỗi cô đơn là một phần không thể tránh khỏi của kiếp người. Hơn nữa, nếu ta không thể nhận diện hay diễn đạt những nhu cầu khiến mình cô đơn, thì có lẽ chiến lược thụ động – chờ đợi, quan sát – là lựa chọn duy nhất. Trong những trường hợp như vậy, cách duy nhất để nhận ra những nhu cầu chưa được đáp ứng của bản thân chính là khi ta cảm thấy nỗi cô đơn dần vơi đi – vào khoảnh khắc ta nhận ra rằng một ai đó, dù vô tình hay hữu ý, đã bắt đầu đáp ứng những nhu cầu ấy.
Nguồn: Loved, yet lonely | Aeo.co