Sự dữ dội của tự sát vang vọng trong lòng mỗi chúng ta

su-du-doi-cua-tu-sat-vang-vong-trong-long-moi-chung-ta

Một góc nhìn phân tâm học về tự sát có thể giúp ta đối diện trung thực hơn với sự kết nối giữa những nỗi đau tâm hồn.

Trong nhiều xã hội ngày nay, cách tiếp cận về tự sát chủ yếu mang tính nhân ái – và đó là điều đúng đắn. Ngày càng có nhiều sự thấu hiểu rằng ai muốn kết thúc cuộc đời mình hẳn đã phải chịu đựng nỗi đau khôn cùng. Tuy nhiên, khi tập trung vào nỗi khổ cá nhân, ta vô tình bỏ qua một khía cạnh khác: tự sát không chỉ là điểm tận cùng của một bi kịch cá nhân, mà còn là một hành động đầy bạo lực – đối với chính thân thể người đó và với những người xung quanh.

Việc tìm thấy thi thể của một người thân yêu đã tự kết liễu đời mình là một cú sốc sâu sắc, không thể đảo ngược. Người có ý định tự sát hiểu rõ điều này. Vì thế, nếu chúng ta – những người thân, bạn bè, chuyên gia tâm lý – muốn thực sự hiểu và hỗ trợ họ, chúng ta cần dũng cảm đối diện với những dòng chảy phức tạp trong mối quan hệ giữa họ và những người xung quanh, những thứ đã dẫn họ đến hành động đau lòng ấy.

Nhưng đối diện với sự thật này không hề dễ dàng. Càng tiến gần đến thực tại đáng sợ của tự sát, tâm trí ta càng tìm cách né tránh. Khi đối diện với một người có ý định tự sát, ta không chỉ nhìn thấy cái chết, mà còn thấy một nỗi đau tinh thần sâu thẳm – một nỗi đau mà đôi khi, ta cũng cảm nhận đâu đó trong chính mình. Tôi không nói rằng ai cũng có ý định tự sát, nhưng ai cũng từng trải qua những tổn thương tinh thần, và khi không thể tự chữa lành, ta có thể vô thức trút nỗi đau ấy lên người khác. Chính vì thế, phản ứng của ta trước tự sát không chỉ phản ánh cảm xúc với người ra đi, mà còn phản chiếu nỗi sợ hãi của chính ta trước sự đau khổ đó.

Netsuko Nanbu with her husband’s watch; he took his own life in 2004. Photo by Shiho Fukada/Panos

Là một nhà tâm lý lâm sàng làm việc với những bệnh nhân có ý định tự sát, tôi đã trực tiếp chứng kiến sự khó khăn khi lắng nghe họ kể về những tổn thương, mất mát và lòng căm ghét chính mình. Trong phòng trị liệu, đôi khi tôi cảm thấy tâm trí mình muốn rẽ sang hướng khác – muốn tìm kiếm những điều tích cực trong cuộc sống của họ, những “yếu tố bảo vệ” như cách giới chuyên môn thường làm. Hoặc tôi có thể cố thuyết phục bản thân rằng tình hình không quá nghiêm trọng – có thể vì họ vẫn nói về tương lai, một dấu hiệu cho thấy nguy cơ chưa quá cận kề.

Những cuộc trò chuyện hướng về điều tích cực có giá trị của nó – chúng giúp người bệnh kết nối với phần trong họ vẫn muốn tiếp tục sống. Nhưng đồng thời, đó cũng có thể là một cách để chính tôi giảm bớt nỗi lo âu của mình. Vậy cái giá phải trả là gì? Liệu tôi có đủ kiên nhẫn để thực sự lắng nghe nỗi đau, sự giận dữ, những thất vọng của họ?

Tự sát thường là nỗ lực cuối cùng để giành lại quyền kiểm soát của những người đã bị mất quyền kiểm soát cuộc đời mình. Việc bày tỏ ý định tự sát, theo một cách nào đó, là sự kêu gọi được quan tâm và thấu hiểu – dù ý thức được hay không. Nhưng hệ thống y tế với những quy trình quản lý rủi ro đôi khi vô tình bỏ lỡ điều mà bệnh nhân thực sự cần. Một lời nói về ý định tự sát có thể lập tức kích hoạt hàng loạt thủ tục ngăn chặn, biến một buổi trị liệu – vốn là không gian để họ được lắng nghe, được giãi bày, được giành lại chút quyền kiểm soát – thành một nơi mà ngay cả quyền tự quyết cuối cùng của họ cũng bị tước đoạt. Khi ấy, vai trò của tôi cũng bị kìm hãm, mắc kẹt giữa hai trách nhiệm mâu thuẫn: lắng nghe họ hay kiểm soát họ?

Những nguyên nhân khiến ai đó muốn tự sát vô cùng phức tạp, nhưng thường có dấu vết của những tổn thương, mất mát, bạo hành hoặc thiếu thốn tình thương. Dù không có dấu hiệu rõ ràng, những người ấy thường lớn lên trong môi trường mà con người họ không được công nhận – hoặc họ cảm thấy như thế. Những yếu tố quan trọng nhất để nuôi dưỡng một bản ngã lành mạnh có lẽ đã không tồn tại. Và khi không có một lối thoát an toàn cho những cảm xúc dồn nén, tâm trí họ sẽ quay mũi nhọn đau khổ ấy vào chính mình, để cơ thể trở thành nơi chứa đựng tất cả.

Với họ, cái chết mang theo một ảo tưởng – rằng khi thân xác này mất đi, nỗi đau cũng sẽ chấm dứt. Họ tin rằng một phần nào đó của mình sẽ được tiếp tục tồn tại, nhưng không còn phải chịu đựng nữa. Nhưng thực tế đau lòng – điều mà tâm trí họ từ chối chấp nhận – là điều đó không đúng. Cái chết không mang lại sự giải thoát, nó chỉ mang đến cái chết. Và trong vai trò một nhà trị liệu, tôi tin rằng mình có trách nhiệm phải nói rõ sự thật này.

Khi một hành động tự sát kết thúc bằng cái chết, nỗi đau lan tỏa như một vụ nổ, ngay lập tức giáng xuống những người yêu thương họ nhất. Sau cái chết ấy, chính những cảm xúc đã đẩy người bệnh đến bước đường cùng lại bùng lên trong lòng những người thân yêu và cả những chuyên gia từng chăm sóc họ. Có điều gì đó rất bản năng trong sự hoán đổi này – như thể vô thức của người ra đi đang trút nỗi đau mà họ từng chịu đựng lên những người đã gắn bó với họ, dù đó là gia đình, bạn bè hay các nhân viên y tế.

Những người bị cuốn vào cơn bão ấy thường mang theo cảm giác tội lỗi, hối tiếc, giận dữ, hoang mang và phủ nhận. Tôi không ít lần nghe thấy câu nói: "Giá mà [người ấy] chịu nói ra những gì họ đã trải qua, có lẽ chúng tôi đã có thể giúp họ" – một câu nói chất chứa sự dằn vặt, như thể chỉ cần một điều gì đó thay đổi, kết cục đã có thể khác đi.

Trong môi trường y tế, những phản ứng như vậy lan rộng khắp hệ thống. Gia đình và bạn bè của người đã khuất có thể phủ nhận trách nhiệm của mình, đổ lỗi cho dịch vụ y tế vì đã "thất bại" trong việc giữ họ sống. Ngành y tế, dưới áp lực của công luận và các cơ quan giám sát, buộc phải giải trình lý do vì sao tự sát vẫn xảy ra. Sự dữ dội của cái chết lan truyền trong hệ thống, và các bác sĩ – những người có thể bị xem xét trách nhiệm nghề nghiệp – cũng trông chờ hồ sơ bệnh án của họ chứng minh rằng họ không phải người có lỗi. Nhưng dù trách nhiệm có được quy kết hay không, họ vẫn phải đối diện với sự thật đau lòng rằng nhiệm vụ "giúp đỡ" bệnh nhân của mình dường như đã thất bại.

Trên thế giới, có nhiều tổ chức tồn tại dựa trên niềm tin gần như toàn năng rằng "không tự sát" là một mục tiêu có thể đạt được – nhiều tổ chức trong số đó là thành viên của tổ chức từ thiện Zero Suicide Alliance tại Anh. Đây là một lời hứa đầy hấp dẫn, bởi lẽ không ai có thể chấp nhận cái chết do tự sát. Nhưng tôi tự hỏi, liệu tư tưởng "không tự sát" này có phải là một dạng phủ nhận khác – phủ nhận nỗi đau mà người bệnh đang mang theo, và phủ nhận thực tế rằng kiểm soát mọi trường hợp tự sát là điều không tưởng?

Thực tế đầy thách thức đối với những ai hỗ trợ người có ý định tự sát là không có một giải pháp đơn giản nào cả. Môi trường xung quanh một người đang trong cơn tuyệt vọng thường tràn ngập những sự chiếu rọi tâm lý, nơi họ vô thức trút những cảm xúc của mình lên người khác. Theo lý thuyết quan hệ đối tượng, con người không nhìn nhận người khác đúng như bản chất của họ, mà theo cách chính họ cảm nhận về bản thân. Nói cách khác, những trải nghiệm thời thơ ấu đã định hình cách ta cảm nhận sự quan tâm từ người khác sau này. Vì thế, người có ý định tự sát – dù không nhận thức rõ – thường nhìn những người chăm sóc mình như thể chính họ là nguồn cơn của nỗi đau ấy.

Với tư cách là một xã hội, điều chúng ta có thể rút ra là hãy xem xét cách mà mỗi người trong chúng ta có xu hướng né tránh những phần đau đớn trong cuộc sống – những thất vọng, những vết thương hay những tổn thương khiến ta tức giận. Những trải nghiệm này kết nối tất cả chúng ta. Tôi tin rằng cần có một sự thay đổi văn hóa, nơi sự giận dữ và tuyệt vọng được thừa nhận là điều dễ hiểu và có thể chấp nhận. Khi sự thay đổi ấy diễn ra, sẽ có ít người hơn cảm thấy cần quay ngược nỗi đau vào chính mình – biến cơ thể họ thành công cụ trút giận, và những người thân yêu thành mục tiêu của nó.

Khi nói đến việc hỗ trợ những người có ý định tự sát, tôi tin rằng một thông điệp quan trọng dành cho tất cả chúng ta là hãy học cách lắng nghe một cách sâu sắc hơn, như các nhà phân tâm học Donald Campbell và Rob Hale đã lập luận trong cuốn "Working in the Dark" (2017). Điều này có nghĩa là thực sự lắng nghe câu chuyện của họ, và chống lại sự thôi thúc muốn phủ nhận nỗi đau mà họ đã trải qua. Điều đó có nghĩa là lắng nghe cách họ mô tả về các mối quan hệ của mình, và chấp nhận rằng tự sát hiếm khi là một hành động cá nhân đơn lẻ – mà thường liên quan mật thiết đến những người xung quanh. Lắng nghe không chỉ những gì họ nói, mà cả những gì họ không nói, những gì hành vi của họ và những suy tưởng về cái chết đang ngầm bộc lộ. Và lắng nghe cả những nỗi đau của những người đang cố gắng "giúp đỡ" hoặc "ngăn chặn" họ.

Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, đó là lắng nghe chính tâm thức vô thức của mình: lắng nghe những phản ứng, những cảm xúc chân thật về bản thân, những sự kháng cự hay phủ nhận nỗi đau – và khi cần thiết, thừa nhận rằng chính chúng ta cũng cần được hỗ trợ, để có thể suy nghĩ sáng suốt hơn khi phải đối mặt với những thực tại nặng nề này. Một mối quan hệ trung thực hơn với những phần đau đớn trong chính ta là điều cần thiết, bởi lẽ, dù ý thức được hay không, ta mang theo toàn bộ con người mình vào mọi khoảnh khắc của cuộc đời.

Nguồn: The violence of suicide reverberates in, and through, us all | Psyche.co

menu
menu