Tại sao tôi lại cảm thấy cô đơn?
Khi nghĩ về những gì đã đánh mất trên hành trình tiến đến sự hiện đại, người ta thường nghĩ ngay đến những bữa cơm: chúng ta hiếm khi quây quần bên nhau, cả gia đình cùng sum họp là điều hiếm hoi, và công nghệ thì thường xuyên chen ngang.
Khi nghĩ về những gì đã đánh mất trên hành trình tiến đến sự hiện đại, người ta thường nghĩ ngay đến những bữa cơm: chúng ta hiếm khi quây quần bên nhau, cả gia đình cùng sum họp là điều hiếm hoi, và công nghệ thì thường xuyên chen ngang. Trong những bức tranh về bữa cơm sum họp xưa cũ, ta thấy cả gia đình – từ già đến trẻ – ngồi quây quần bên bàn ăn, tận hưởng niềm vui từ những món ăn được chuẩn bị tại nhà, trong một không gian ấm cúng và đầy sự chào đón. Thậm chí, chú ngựa của gia đình cũng có thể được mời góp mặt.
Frederick George Cotman, “One of the Family”, 1880
So với những hình ảnh đó, hiện đại hóa dường như làm cho mọi thứ trở nên lạnh lẽo hơn rất nhiều. Thay vì một gia đình quanh lò sưởi, biểu tượng của thời nay lại là hình ảnh một người cô độc, đặt khay thức ăn lên đầu gối trước màn hình tivi. Vào năm 1954, cũng là năm truyền hình màu được giới thiệu tại Hoa Kỳ, Công ty Swanson – vốn ban đầu chỉ là một nhà sản xuất gia cầm ở Omaha, Nebraska – đã ra mắt bữa ăn đông lạnh dành cho tivi. Khay thức ăn này gồm hai lát ức gà tây, khoai lang, đậu Hà Lan xào bơ và bánh bắp. Công ty dự tính bán 5.000 phần trong năm đầu tiên, nhưng thực tế họ đã bán được 10 triệu phần.
Những năm sau đó, Swanson liên tục cải tiến các bữa ăn dành cho người cô độc. Họ thêm một ngăn thứ tư trên khay, thường chứa những lát táo hoặc đào trong siro. Họ giới thiệu xúc xích gà tây, ức gà chiên, “thịt bò nạc trong nước sốt tự nhiên”, một khay kiểu Đức (“với một phần lớn dưa cải, mì Spätzle và bắp cải đỏ kiểu Bavaria”) và cả phiên bản Lễ Tạ Ơn (“với một chút bất ngờ nho nhỏ – sốt nam việt quất chua ngọt. Hoan hô!”). Chỉ trong một khoảng thời gian ngắn, nhưng về tinh thần thì đã có một sự thay đổi quá lớn, từ bữa tiệc gia đình tràn ngập tiếng cười trong tranh vẽ của Norman Rockwell đến khay gà tây công nghiệp dành cho một người của Swanson (“Chỉ cần hâm nóng và thưởng thức”).
Swanson Corporation, Turkey Dinner, 1962
Norman Rockwell, Thanksgiving, 1943
Thế giới hiện đại chắc chắn cô đơn hơn nhiều so với những gì nó từng là. Nhưng câu hỏi đặt ra là: tại sao? Chúng ta dễ đổ lỗi cho những bữa ăn đông lạnh – nhưng thực ra, những khay thức ăn được thiết kế hoàn hảo ấy chỉ là biểu hiện của nỗi bất an về sự cô đơn, chứ không phải nguyên nhân dẫn đến sự xa cách. Công nghệ – dù là thành phố, xe hơi hay màn hình – không phải thứ làm chúng ta cô đơn. Chính những ý tưởng mà chúng ta tự kể với mình mới là nguyên nhân thực sự.
Ở một mình không nhất thiết là vấn đề, không có gì đáng hổ thẹn hay đáng sợ về mặt nhân cách. Nhưng bằng nhiều cách khác nhau, chúng ta đã tạo ra một phương trình mặc định rằng cô đơn là điều đáng xấu hổ. Cô đơn không chỉ xuất hiện khi ta bị cô lập về mặt thể chất; nó xảy ra khi nền văn hóa của chúng ta khiến ta cảm thấy hổ thẹn vì sự cô độc đó. Chúng ta cô đơn, trước tiên và quan trọng nhất, vì những câu chuyện mà ta tự kể cho mình về ý nghĩa của sự cô đơn.
Hầu hết các thời kỳ trước đây đều không xem cô đơn là một dấu hiệu của sự khốn khổ hay thiếu hụt. Con người đã từng biết đến những cách ở một mình đầy vinh quang, một mình nhưng lại cảm nhận được sự kết nối sâu sắc với những điều cao cả và chân thành. Sự cô lập về mặt thể chất hoàn toàn có thể đi kèm với cảm giác gắn bó mạnh mẽ với một vị thần, một nhân vật trong sách, một bản nhạc hay phần sâu lắng hơn trong chính tâm hồn mình. Người ta có thể ở một mình mà không cảm thấy cô lập hay tuyệt vọng – cũng như người ta có thể ở giữa gia đình mà vẫn cảm thấy vô cùng lạc lõng và bị bỏ quên.
Trong lịch sử sơ khai của Cơ đốc giáo, người ta tin rằng sự gắn kết xã hội thực sự không phải là trò chuyện với những người ở gần mình (dù đó là người thân hay bạn học). Nó là sự kết nối với những nguồn ý nghĩa lớn lao nhất trong vũ trụ. Để làm được điều này, đôi khi cần sống một mình ở một nơi thật xa xôi – trong một căn chòi giữa rừng hay trên một ngọn tháp chênh vênh – và học cách giao hòa với tình yêu và trí tuệ của Chúa.
Trong một hang động, chỉ với một quyển kinh thánh làm bạn, cùng vô số giờ kết nối với những ý tưởng thần thánh, con người có thể cảm thấy bớt cô độc hơn nhiều so với việc sống trong một gia đình ồn ào nhưng trống rỗng về mặt tinh thần. Vào thế kỷ thứ tư, vị thánh vĩ đại nhất của Cơ đốc giáo sơ khai, Thánh Anthony, được cho là đã sống hơn 40 năm một mình ở sa mạc phía Tây Ai Cập, không nói một lời nào, chỉ ăn bánh mì và muối, và dành thời gian cầu nguyện tĩnh lặng, một kiểu thiền định chiêm niệm nhằm tĩnh hóa mọi giác quan, kể cả hơi thở, để đến gần hơn với những bí ẩn vô tận của Chúa.
Sự cống hiến của Thánh Anthony đã truyền cảm hứng cho nhiều người. Họ kéo đến sa mạc sống gần ông, dựng lều trong các hang động xung quanh, để râu tóc mọc dài và viết ra những suy nghĩ, thị kiến của mình. Họ được biết đến với cái tên “Những người cha của sa mạc”, và triết lý về sự khổ hạnh, cuộc sống cô độc sùng đạo của họ đã có ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành các tu viện. Trong thời kỳ đỉnh cao của đời sống tu viện thời Trung Cổ, ước tính có đến một triệu người trên khắp châu Âu và Bắc Phi đã chọn từ bỏ sự nhộn nhịp của gia đình và thương mại để sống trong những vùng đất khắc nghiệt và xa xôi nhất, lặng lẽ chiêm ngưỡng vẻ đẹp của tinh thần thiêng liêng.
Tuy nhiên, sau cuộc Cải cách tôn giáo (Reformation) và sự hủy diệt các tu viện diễn ra cùng thời điểm, lối sống sùng đạo cô tịch dần mất đi giá trị và không còn được xem là một lựa chọn thực tế. Những người từng chọn sống đơn độc trên đỉnh núi giờ đây được khuyến khích phục vụ Chúa bằng cách ở lại trong cộng đồng, tìm một người bạn đời phù hợp và xây dựng gia đình. Người ta ngày càng có xu hướng cho rằng việc sống cô độc có thể trượt dần sang sự ích kỷ, hoặc trở thành bằng chứng của một tâm trí quá nhiệt thành, thái quá.
Cùng với tinh thần tôn giáo mới này, chủ nghĩa Lãng mạn (Romanticism) cũng mang đến một làn sóng tư tưởng khác, khuyến khích con người từ bỏ sự gắn bó sâu sắc với bản thân mình và đặt câu hỏi về phẩm giá của sự cô tịch. Đối với các nhà Lãng mạn, hạnh phúc nằm ở việc tìm được một tri kỷ lý tưởng, một người mà ta có thể dốc cạn sự độc lập của mình để hòa làm một cả về tâm hồn lẫn thể xác. Khi có một người yêu đích thực bên cạnh, ta sẽ không bao giờ phải cảm thấy đau buồn hay lạc lõng nữa. Ta sẽ hiểu được mục đích của mình và nhận thức rõ vị trí của bản thân: ta đã thực sự trở về nhà.
Chủ nghĩa Lãng mạn đã vẽ nên một bức tranh vô cùng xúc động về tình yêu đôi lứa – và nhờ tài năng nghệ thuật cùng những ví dụ sống động từ chính đời sống của họ, các nhà Lãng mạn đã thuyết phục thế giới hiện đại. Nhưng trong quá trình đó, phong trào Lãng mạn đã để lại một hậu quả tàn khốc: nó làm biến đổi hoàn toàn cách chúng ta đánh giá sự cô tịch. Chủ nghĩa Lãng mạn biến sự cô đơn từ một lựa chọn đáng kính và sâu sắc thành bằng chứng cho sự bất ổn tâm lý. Qua lăng kính của Lãng mạn, dường như chẳng có lý do nào khác để một người chọn sống một mình ngoài việc họ mắc phải một căn bệnh cảm xúc nghiêm trọng hoặc có những lệch lạc về tình dục.
“Những ai chưa từng biết đến sự thân mật sâu sắc và sự đồng hành mãnh liệt của tình yêu hạnh phúc đã bỏ lỡ điều tuyệt vời nhất mà cuộc sống có thể ban tặng,” triết gia Lãng mạn (và từng bốn lần kết hôn) Bertrand Russell đã nói như vậy. Câu nói nghe có vẻ khích lệ, nhưng ẩn sâu bên dưới, nó lại mang tính đe dọa đặc trưng của thời đại Lãng mạn.
Bằng cách tuyên truyền quá thành công cho đời sống hôn nhân, chủ nghĩa Lãng mạn đã đảm bảo rằng những người sống một mình chẳng còn lựa chọn nào khác ngoài việc nghi ngờ sự tốt đẹp và tỉnh táo của chính họ – và có lẽ sẽ rơi vào tình trạng cô đơn cùng cực, thậm chí còn hơn cả một vị ẩn sĩ ở sa mạc Nitrian sau nửa thế kỷ chìm trong im lặng.
Với vẻ ngoài như vô hại, các nhà Lãng mạn dần dần nhỏ giọt những câu chuyện về các cặp đôi yêu nhau và niềm hạnh phúc của họ. Giống như Cơ Đốc giáo, chủ nghĩa Lãng mạn cũng có các thánh nhân và nhân vật linh thiêng, các trường ca và những cuốn sách thiêng. Trong số đó, ta thấy những cặp đôi như Abigail Adams và chồng bà, John Adams – tổng thống thứ hai của Hoa Kỳ – với mối quan hệ vô cùng ấm áp và đáng ngưỡng mộ, thường được các nhà Lãng mạn nêu gương như biểu tượng của hôn nhân lý tưởng (dù thực tế, nó hiếm hoi và xa vời chẳng khác gì việc trở thành tổng thống).
Hai vợ chồng sống gắn bó thân thiết suốt 54 năm, viết thư cho nhau năm lần mỗi ngày khi phải xa cách (tổng cộng có 1.160 bức thư được lưu giữ), và hiểu rõ mọi thứ về nhau, từ quan điểm chính trị, tôn giáo đến sở thích về súp, găng tay và những bài hát yêu thích. Trên giường bệnh năm 1818, Abigail được cho là đã nói với chồng: “Đừng buồn, bạn tôi, người bạn thân yêu nhất của tôi. Tôi đã sẵn sàng ra đi. Và John, sẽ không lâu nữa đâu” (mặc dù thực tế là tám năm sau ông mới qua đời). Ngụ ý rằng, những người tốt không chỉ nên gắn bó đôi lứa trong kiếp này mà cả ở thế giới bên kia – một ý niệm càng được củng cố vào thế kỷ 19 qua việc chôn cất các cặp đôi trong cùng một hầm mộ. Độc thân giờ đây không chỉ là lựa chọn không xứng đáng cho người sống – mà dường như, cả người chết cũng vậy.
Mãi mãi bên nhau: Abigail và John Adams, được chôn cạnh nhau ở Quincy, Massachusetts.
Chủ nghĩa Lãng mạn không chỉ khiến những người độc thân cảm thấy mình kỳ dị; nó còn gia tăng áp lực đối với những ai đang ở trong một mối quan hệ nhưng không thể khẳng định rằng họ hoàn toàn mãn nguyện với bạn đời. Nó làm cho những người chỉ đang âm thầm nỗ lực, hoặc đơn giản chấp nhận vài thói quen hay thiếu sót của đối phương, cảm thấy cô đơn và bất hạnh hơn bao giờ hết.
Trong phần lớn lịch sử, chẳng ai mong đợi các cặp đôi sẽ quá hạnh phúc. Sự nhẫn nhịn và thỏa hiệp mới là những thành tựu thực sự được ca ngợi. Người ta đã làm rất tốt nếu sau vài thập kỷ chung sống, họ không thực sự căm ghét đối phương. Nhưng dưới ảnh hưởng của chủ nghĩa Lãng mạn, bất kỳ trạng thái nào không đạt đến sự hân hoan bất tận đều bị xem là vi phạm quy tắc tồn tại. Người ta không còn được phép chỉ đơn giản là chịu đựng một người. Việc chọn gắn bó với ai đó chỉ vì – xét cho cùng – họ không đến nỗi tệ, vì sự tiện lợi, vì họ có một gương mặt tử tế (ít nhất từ một góc độ nào đó) hay vì đôi khi họ có vẻ thân thiện, tất cả những điều này giờ đây trở thành một dị giáo nghiêm trọng chẳng khác gì những gì từng bị các tín đồ Cơ Đốc kết án tại Công đồng Nicaea năm 325.
Họa sĩ Lãng mạn thế kỷ 19 William Orchadson (người công khai có một cuộc hôn nhân rất hạnh phúc) tiêu biểu cho sự lên án này qua tác phẩm châm biếm Cuộc hôn nhân vì tiện nghi (1883). Việc thấy bạn đời hơi nhàm chán và khó nói chuyện trong bữa tối (dù vẫn trân trọng sự phục vụ của quản gia, căn phòng ăn thoải mái và thích nuôi con cùng nhau) không còn được coi là hệ quả dễ hiểu và chấp nhận được của một mối quan hệ “đủ tốt”. Thay vào đó, nó bị xem như một bi kịch thê thảm.
Tác phẩm The Marriage of Convenience (1883) của William Orchardson đã thể hiện một nghịch lý đầy trớ trêu mà chủ nghĩa Lãng mạn đặt ra cho nhân loại: khi định nghĩa sự độc thân là điều không thể chấp nhận về mặt tâm lý, nó khiến con người hoảng sợ và chấp nhận những lời cầu hôn mà lẽ ra họ nên từ chối. Nhưng đồng thời, bằng cách đề cao sự say mê bất tận và hạnh phúc vĩnh cửu như chuẩn mực của mọi mối quan hệ lý tưởng, nó khiến hầu hết các cặp đôi cảm thấy rằng ở đâu đó, họ đã sai lầm nghiêm trọng.
Những mâu thuẫn này lên đến đỉnh điểm tại Anh sau Thế chiến thứ nhất. Sau sự mất mát lớn về sinh mạng, một cuộc điều tra dân số cho thấy số lượng phụ nữ đã vượt xa nam giới, với 1,75 triệu người. Báo chí khi ấy giật những dòng tít đầy lo ngại về “Hai triệu phụ nữ dư thừa.” Chẳng có mấy ai thừa nhận rằng việc không kết hôn có thể mang lại – dù xét trên mọi phương diện – cả những cơ hội lẫn nỗi buồn, chẳng khác gì khi có gia đình; cũng không ai nhìn nhận rằng sự cô đơn tồn tại trong cả hai phía, và đôi khi, cô đơn trong độc thân lại dễ chịu hơn. Những người phụ nữ độc thân thời hậu chiến, được gọi là “gái già ế chồng” (war spinsters), bị đối xử với sự pha trộn giữa khinh thường và lòng thương hại. Thậm chí, một ủy ban xuất ngoại được thành lập với mục đích khuyến khích phụ nữ Anh độc thân di cư đến các vùng xa xôi thuộc Đế quốc Anh, để thoát khỏi sự ô nhục của một cuộc đời đơn chiếc tại quê nhà. Trong nhiều thế hệ sau đó, hình tượng “gái già” hoặc “cô dì chưa chồng” trở thành nhân vật quen thuộc để chế giễu và thương xót. Người ta gần như không thể hình dung được rằng một người lại có thể vừa sống đời chấp nhận được, vừa không có chồng.
Khi nhóm Beatles ra mắt ca khúc Eleanor Rigby năm 1966 – bài hát định hình rõ ràng nhất ý nghĩa của sự cô đơn trong thời hiện đại – mọi người ngay lập tức hiểu vì sao Eleanor lại trở thành một nhân vật đáng thương. Khuôn mặt “giả tạo” mà bà cất trong chiếc lọ bên cửa ra vào vốn được dành cho người bạn đời lý tưởng mà bà, giống như mọi người độc thân khác, hẳn khao khát được tìm thấy. Theo triết lý của bài hát, cũng như của tất cả các tác phẩm của Beatles – và thật ra, của mọi bài hát nhạc pop từng được sáng tác – chỉ có tình yêu lãng mạn mới mang lại một cuộc đời trọn vẹn. Chủ nghĩa Lãng mạn cảnh báo rằng nếu không yêu sâu sắc, bạn sẽ sớm nhặt những hạt gạo còn sót lại trong nhà thờ sau một đám cưới – hoặc tệ hơn, trở thành một nhân vật kỳ dị chẳng kém gì cha xứ Mackenzie, người mà vẻ ngoài xa lạ của ông gợi nhắc đến những ẩn sĩ thời cổ đại ở sa mạc Nitrian, nhưng không còn chút hào quang nào.
Thế giới hiện đại không chỉ biến việc có bạn đời thành điều bắt buộc, mà còn khiến ta cảm thấy việc có một nhóm bạn thân năng động và thường xuyên tham gia các buổi tiệc tùng là thiết yếu. Cơ hội giao lưu xã hội ngày càng tăng nhờ sự phát triển của điện, nhà hàng, sàn nhảy và quán bar. Cuối tuần dần trở thành thời gian dành cho các cuộc vui, và một loại lo âu chưa từng biết tới xuất hiện khi tối thứ Bảy đến gần mà ta nhận ra mình chẳng có kế hoạch gì giữa thành phố tràn ngập niềm vui. Một lịch trình trống rỗng trở thành biểu tượng của sự khiếm khuyết.
Phoebus Levin, The Dancing Platform at Cremorne Gardens (1864)
Báo chí tràn ngập những tin tức về đời sống xã hội của người khác. Ta có thể biết ai đã tham dự tiệc sinh nhật lần thứ 40 của Elizabeth Taylor, thực đơn tại vũ hội Proust của Marie-Helene de Rothschild là gì, chiếc váy đẹp nhất tại Met Gala ra sao và Valentino đã sắp xếp chỗ ngồi như thế nào trong buổi tiệc White Fairy Tale Love Party. Nhưng điều quan trọng hơn, xã hội dần dạy chúng ta tin rằng để trở nên đáng trọng, ta phải yêu thích việc ra ngoài. Rằng chẳng có gì hào nhoáng khi ngồi ở nhà với một cuốn sách, chẳng có giá trị gì trong việc ghi lại những suy nghĩ của mình vào nhật ký hay hồi tưởng về tuổi thơ trong một bồn tắm nước nóng. Đồng thời, chẳng mấy ai thừa nhận rằng việc đứng giữa một căn phòng đông đúc toàn những con người đầy lo âu về địa vị, sợ thất bại hay sợ bị lộ sự chân thật, cũng là một cách sống chẳng mấy lý tưởng. Khi được hỏi “Bạn thế nào rồi?” – câu trả lời duy nhất có thể chấp nhận là một nụ cười rạng rỡ kèm lời đáp “Tuyệt vời – còn bạn thì sao?”
Năm 1921, Carl Jung – trong cuốn Psychological Types – đã giới thiệu hai thuật ngữ “hướng ngoại” và “hướng nội” để phân chia nhân loại. Người hướng ngoại tìm thấy tiềm năng của mình trong các mối quan hệ xã hội; người hướng nội cần lánh xa đám đông và những cuộc trò chuyện nhàn rỗi để phục hồi sự toàn vẹn của bản thân. “Mỗi người đều sở hữu cả hai cơ chế,” Jung viết, nhưng rõ ràng tinh thần của thời đại lại đứng về phía người hướng ngoại. Thế giới hiện đại thuộc về họ, trong khi người hướng nội bị bỏ lại ở nhà, cảm thấy những gì họ yêu thích – được ở một mình – là một căn bệnh.
Tất nhiên, sự thật hoàn toàn không phải vậy. Nhưng để bớt cô đơn, chúng ta – phần lớn – không cần bị thúc ép phải ra ngoài nhiều hơn, hay nhận thêm khích lệ để tìm một người tình hoàn hảo. Thay vào đó, chúng ta cần xã hội thay đổi cách kể chuyện về ý nghĩa của sự cô tịch. Cần chuyển những liên tưởng mà ta đã được gieo rắc – từ thất bại và sự lập dị – sang chiều sâu và sự tinh tế. Cảm giác không muốn đứng trong một căn phòng ồn ào trò chuyện với người lạ, muốn có một bữa ăn đơn giản một mình, muốn ngồi lặng lẽ với một cuốn sổ tay, hay chỉ muốn bước đi giữa thiên nhiên, hoàn toàn không phải là dấu hiệu của sự điên rồ. Chúng chính là bằng chứng thuyết phục nhất về một thế giới nội tâm phong phú và đáng giá.
Đã có những nghệ sĩ của thời hiện đại – dù thường bị phớt lờ trong chính thời đại của mình – dám đứng ra bênh vực cho sự cô độc, để khẳng định bằng tài năng và lòng tự tin rằng sự lặng lẽ, nội tâm cũng có giá trị và vẻ đẹp riêng, để khoác lên sự tĩnh lặng một tấm áo choàng lấp lánh. Trong một bức tranh của Caspar David Friedrich, ta được mời gọi tin rằng nhân vật đơn độc giữa thiên nhiên kia không phải là kẻ ngoài vòng pháp luật hay tên lãng du vô danh. Anh ta mang trong mình những cái nhìn thấu suốt mà đám đông dưới chân núi chẳng bao giờ có được. Anh cần đến những đỉnh cao, nơi anh có thể gạt đi sự ồn ào, ghen ghét của thế nhân và lắng nghe chính mình. Ta nên can đảm bước theo hành trình của anh, để tìm lại những điều sâu thẳm nhất trong chính bản thân.
Caspar David Friedrich, Phong cảnh với hồ trên núi, Buổi sáng, 1823
Trong nghệ thuật của Corot, cô độc không phải là sự thay thế nghèo nàn cho việc có bạn đồng hành. Đó không phải là thứ người ta miễn cưỡng tìm đến khi bị từ chối tại một bữa tiệc xa hoa hay khi vị hôn phu ngã xuống nơi chiến trường. Cô độc là một thiên đường, nơi mỗi tiếng chào hỏi ồn ào, mỗi lời nói xã giao hời hợt, mỗi cuộc gặp gỡ vụng về đều là những vết cắt đau đớn mà ta nên tự hào vì đã dám từ chối.
Jean-Baptiste Corot, Cô độc, 1866
Người phụ nữ trẻ trong tranh của Gwen John dường như không thuộc về một tôn giáo chính thống nào, nhưng nếu có một giáo phái dành riêng cho sự tôn vinh cô độc, cô sẽ là một trong những thánh nhân, một nhân vật huyền thoại của giáo phái ấy. Biểu cảm của cô – dịu dàng, trầm lắng, thoáng nét u buồn và chìm sâu trong suy tư – là một lời mời gọi dành cho tất cả những gì mà thời hiện đại đã lãng quên khi ca ngợi cuộc sống năng động, vui vẻ.
Gwen John, Người phụ nữ trẻ ôm mèo đen, 1920
Cách tám thập kỷ sau, nhân vật chính trong bức ảnh của Hannah Starkey tại một quán ăn cũng mang đến một lời biện hộ hùng hồn cho sự tách biệt. Bối cảnh có thể u ám, nhưng bức ảnh lại không hề gợi lên cảm giác u uất – có lẽ vì nó cho phép ta nhớ lại và nâng niu những trải nghiệm cô độc của riêng mình: những khoảnh khắc mà ở một mình không phải là sự trừng phạt, mà là cơ hội để ta tiêu hóa những nỗi đau, cân bằng lại bản thân, và thoát khỏi một thế giới đạo đức giả và áp chế – luôn gào thét mời gọi ta hòa mình vào những cuộc vui ồn ào và những cảm xúc ủy mị.
Dù nội thất trong bức ảnh có vẻ khắc khổ, không gian đó chẳng hề mang lại cảm giác khốn cùng. Những người khác trong phòng, cũng ngồi riêng lẻ, đàn ông và phụ nữ uống cà phê hay Coca, đều đang chìm trong dòng suy tư, như thể họ cũng tách biệt với xã hội: một sự cô lập chung có tác dụng xoa dịu cảm giác đè nặng lên từng cá nhân rằng chỉ riêng mình họ mới đang “một mình”. Sự cô đơn không phải là một lời nguyền, mà là điểm dừng của những con người tốt đẹp.
Hannah Starkey, Không tiêu đề, Tháng 10 năm 1998
Chúng ta nên tự hào rằng mình là hậu duệ, là “tâm hồn song sinh” với những con người trong các tác phẩm nghệ thuật lớn về sự cô độc. Ta hãy dám tin rằng mình sống trong cô độc không phải vì bệnh tật, mà bởi ta mang trong mình tinh thần cao quý – bởi những lý tưởng về sự gắn kết của ta cao hơn những gì mà thế giới hiện tại có thể trao. Ta không ghét sự hiện diện của người khác, chỉ là ta thích ở nhà hơn là chấp nhận những mảnh ghép giả tạo của cộng đồng mà xã hội đang cố tình vẽ ra.
Để giúp ai đó bớt cô đơn, ta không cần kéo họ ra khỏi những suy tư trong rừng, quán ăn, thư viện hay sa mạc – và ép buộc họ đi chơi bowling. Thay vào đó, ta cần trấn an họ rằng sự cô độc không phải là dấu hiệu của thất bại. Để giảm bớt cuộc khủng hoảng cô đơn của thời hiện đại, ta cần phục hồi lại danh dự cho sự tĩnh lặng, trao lại sự cao quý cho cuộc sống độc thân. Chẳng có gì là thảm họa khi ta ăn tối một mình, thậm chí là nhiều bữa tối một mình. Những bữa ăn TV Swanson ngày trước có thể cần cải thiện, nhưng cuối cùng, ăn một bữa đơn sơ trong yên bình vẫn tốt hơn là ngồi giữa phòng tiệc đầy nụ cười giả tạo và những ánh mắt phán xét.
Khi làm vậy, thực ra ta không hề đơn độc. Ta – như thời hiện đại đã quên nhắc nhở – đang đồng hành với những tâm hồn cao quý nhất từng tồn tại. Và dù bề ngoài ta có vẻ đang một mình, thực chất, ta đang ở trong một cuộc hội ngộ đầy ý nghĩa và giá trị.
Nguồn: WHY DO I FEEL SO LONELY - The School Of Life