Tôi không phải là một câu chuyện

toi-khong-phai-la-mot-cau-chuyen

Có người thấy an ủi khi nghĩ về cuộc đời như một câu chuyện. Có người lại thấy điều đó thật ngớ ngẩn. Vậy bạn thuộc kiểu người nào – có xu hướng nhìn cuộc sống qua lăng kính tự sự hay không?

Nhà thần kinh học người Anh Oliver Sacks từng viết: "Mỗi chúng ta đều xây dựng và sống theo một ‘câu chuyện’, và chính câu chuyện đó là chúng ta." Nhà tâm lý học nhận thức người Mỹ Jerome Bruner cũng có quan điểm tương tự: "Bản thân ta là một câu chuyện được viết lại không ngừng." Ông nói thêm: "Cuối cùng, ta trở thành chính những câu chuyện tự truyện mà ta dùng để kể về cuộc đời mình." Nhà tâm lý học Dan P. McAdams thì khẳng định: "Chúng ta đều là những người kể chuyện, và ta chính là những câu chuyện mà ta kể ra." Còn triết gia đạo đức J. David Velleman thì nhận xét: "Chúng ta tự tạo ra chính mình... và thực sự, ta chính là nhân vật mà ta tạo nên." Và để củng cố thêm luận điểm này, triết gia Daniel Dennett nhấn mạnh: "Tất cả chúng ta đều là những tiểu thuyết gia bậc thầy, bị cuốn vào đủ mọi hành động… và ta luôn cố gắng tô vẽ chúng sao cho đẹp nhất có thể. Ta tìm cách liên kết tất cả thành một câu chuyện liền mạch. Và câu chuyện ấy chính là tự truyện của ta. Nhân vật hư cấu quan trọng nhất trong đó – chính là ta."

Những người theo trường phái tự sự đều nói vậy. Rằng ta kiến tạo chính mình qua câu chuyện ta kể về bản thân. Quan điểm này có vẻ được đồng thuận rộng rãi không chỉ trong lĩnh vực nhân văn mà còn trong trị liệu tâm lý. Người ta thường cho rằng tự sự là điều tốt đẹp, thậm chí cần thiết để có một cuộc đời trọn vẹn.

Nhưng tôi không nghĩ vậy. Không phải ai cũng nhìn đời như một câu chuyện, và không phải lúc nào điều đó cũng tốt. Đây không phải là chân lý phổ quát của con người – ngay cả khi ta chỉ xét những người được xem là có tâm lý bình thường. Dù nó đúng với một số người, thậm chí với nhiều người, hay phần lớn, thì cũng không thể coi đó là quy luật bất biến. Những người theo thuyết tự sự, cùng lắm, chỉ đang lấy chính họ làm mẫu số chung cho tất cả. Và ngay cả thế, tôi cũng hoài nghi liệu họ có thực sự sống như điều họ nói không.

Vậy họ thực sự muốn nói gì? Khái niệm này vẫn còn mơ hồ. Nhưng dường như có những người sinh ra đã mang trong mình một bản tính tự sự – tức là, họ tự nhiên có xu hướng cảm nhận cuộc đời mình như một câu chuyện, hay một chuỗi những câu chuyện, và họ sống qua lăng kính đó. Việc quan điểm này phổ biến có thể là một bằng chứng cho thấy những người như vậy thực sự tồn tại.

Có lẽ thế. Nhưng cũng có không ít người không phải như vậy. Họ hoàn toàn không có xu hướng tự sự. Họ thậm chí phản đối nó. Không phải vì trí nhớ của họ vụn vặt, rời rạc, không thể tái hiện một chuỗi sự kiện theo trật tự thời gian. Vấn đề lớn hơn thế – nó bao trùm cả cuộc sống, như cái mà nhà văn Henry James từng gọi là "mớ hỗn độn vĩ đại". Nhìn một cách tổng thể, cuộc sống không bao giờ có hình hài một câu chuyện đối với họ. Và từ góc độ đạo đức, có lẽ cũng không nên như thế.

Nhà tâm lý học xã hội Dan Wegner từng nói rằng xu hướng gán quyền kiểm soát cho bản thân là một đặc điểm tính cách – có người có, có người không. Nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã chỉ ra sự khác biệt giữa những người có cảm giác "tự mình làm chủ" đối với suy nghĩ của họ và những người, như tôi, không hề có cảm giác đó, mà chỉ thấy suy nghĩ của mình đơn giản là xảy ra. Sự khác biệt này có thể phản ánh sự khác nhau giữa những người cảm thấy họ tự định hình bản thân và những người không có cảm giác ấy. Nhưng dù cảm giác "tự tạo dựng chính mình" có chân thực đến đâu, tôi vẫn hoài nghi về sự tồn tại thực sự của nó – về việc liệu có một quá trình tự quyết nào đó diễn ra trong đời sống thông qua việc viết nên câu chuyện của cuộc đời mình hay không.

Trong hai mươi năm qua, triết gia Marya Schechtman đã không ngừng phát triển các luận điểm về việc thế nào là một con người có tính tự sự và làm sao để "kiến tạo danh tính" thông qua việc tự thuật. Bà hiện nhấn mạnh rằng quá trình tự sự ấy có thể diễn ra một cách vô thức, ẩn tàng. Đây là một sự nhượng bộ đáng chú ý. Theo quan điểm ban đầu của bà, con người "phải sở hữu một câu chuyện đầy đủ và rõ ràng về cuộc đời mình thì mới có thể phát triển toàn diện như một cá nhân". Phiên bản mới của lý thuyết này có vẻ thuyết phục hơn. Nó cũng giúp bà đưa ra một giả thuyết mới: có thể những người như tôi thực ra cũng có tính tự sự, chỉ là ta không nhận ra hoặc không chấp nhận điều đó.

Trong cuốn sách Staying Alive (2014), Schechtman vẫn bảo vệ quan điểm rằng "con người trải nghiệm cuộc đời như một chỉnh thể thống nhất" – một điều vượt xa ý thức đơn thuần về việc mình là một cá thể sinh học hữu hạn với một lý lịch nhất định. Bà vẫn tin rằng "chúng ta tự tạo dựng bản thân như những con người… bằng cách hình thành và vận hành một câu chuyện tự truyện (hầu hết là vô thức) – câu chuyện ấy chính là lăng kính qua đó ta trải nghiệm thế giới."

Detail from Senecio by Paul Klee. 1922. Oil on gauze. Kunstmuseum, Basel. Photo by Corbis

Tôi vẫn hoài nghi về điều này. Tôi không tin rằng đó là một trạng thái phổ quát của con người – ngay cả khi chỉ xét những người được coi là bình thường. Ngay cả khi Schechtman viết rằng “‘có một câu chuyện tự thuật’ không có nghĩa là ta luôn (hoặc bao giờ) kể lại cuộc đời mình cho bản thân hay cho bất kỳ ai khác,” tôi vẫn không bị thuyết phục. Tôi không nghĩ rằng một “câu chuyện tự thuật” đóng vai trò quan trọng trong cách tôi trải nghiệm thế giới, dù tôi biết rõ rằng cách nhìn nhận và hành vi của tôi ngày hôm nay chịu ảnh hưởng sâu sắc từ di truyền, từ bối cảnh văn hóa – xã hội mà tôi sinh ra, từ thời đại mà tôi sống, và đặc biệt là từ những năm tháng tuổi thơ. Tôi cũng biết, trên một phạm vi nhỏ hơn, rằng trải nghiệm về chuyến xe buýt này của tôi bị chi phối bởi cuộc trò chuyện với A ở Notting Hill và bởi việc tôi đang trên đường đến gặp B ở Kentish Town.

Giống như Schechtman, tôi là một sinh thể có thể “nhận thức về chính mình như chính mình, một thực thể suy nghĩ duy nhất, trong những thời điểm và không gian khác nhau” – theo định nghĩa của John Locke về con người. Giống như Schechtman, tôi hiểu thế nào là cảm giác “nỗi lo lắng phía trước có thể làm nhạt đi niềm vui ở hiện tại.” Dù trí nhớ tôi không tốt, tôi vẫn có một sự hiểu biết khá vững chắc về nhiều sự kiện trong đời mình. Tôi không sống hoàn toàn trong khoảnh khắc như một người giác ngộ hay một kẻ mất kiểm soát.

Nhưng, giống như nhà văn Mỹ John Updike và nhiều người khác, tôi luôn có một cảm giác dai dẳng rằng cuộc đời mình vẫn đang khởi đầu, rằng tôi chưa thực sự bước vào hành trình của chính mình. Nhà văn Bồ Đào Nha Fernando Pessoa, qua bút danh Alberto Caeiro – một trong 75 nhân dạng mà ông sử dụng để viết – đã diễn tả một trạng thái mà nhiều người có lẽ sẽ đồng cảm:
"Mỗi khoảnh khắc, tôi đều cảm thấy như vừa mới sinh ra
Vào một thế giới luôn luôn mới mẻ."
Có người sẽ ngay lập tức hiểu được điều này. Có người sẽ hoang mang, thậm chí hoài nghi. Nhưng bài học quan trọng nhất từ đây là: con người khác nhau.

Theo Dan McAdams, một trong những nhà tâm lý học xã hội ủng hộ thuyết tự sự, trong cuốn The Redemptive Self: Stories Americans Live By (2006):
"Bắt đầu từ cuối tuổi vị thành niên và khi bước vào tuổi trưởng thành, chúng ta tạo dựng những câu chuyện tích hợp về bản thân, trong đó ta có chọn lọc hồi tưởng quá khứ và mơ tưởng về tương lai, để mang lại cho cuộc sống một cảm giác thống nhất, một mục đích, một bản sắc. Danh tính cá nhân chính là câu chuyện cuộc đời bên trong, đang phát triển không ngừng, mà mỗi người trong chúng ta không ngừng viết tiếp khi bước qua những năm tháng trưởng thành… Tôi… sẽ không thực sự biết mình là ai cho đến khi tôi hiểu rõ về bản sắc tự sự của chính mình."

Nếu điều này là đúng, ta không chỉ phải lo lắng về những người không có tính tự sự – trừ khi họ hài lòng với việc không có một bản sắc cá nhân – mà còn phải lo về những người được nhà tâm lý học phát triển Erik Erikson mô tả trong Identity: Youth and Crisis (1968):
"Những cái tôi khác nhau… tạo nên một cái Tôi tổng hợp. Giữa những cái tôi ấy, luôn có sự chuyển dịch, đôi khi là những cú sốc dữ dội… Phải có một nhân cách lành mạnh thì ‘Tôi’ mới có thể cất lên tiếng nói từ tất cả những trạng thái ấy theo một cách khiến cho tại bất kỳ thời điểm nào, nó vẫn có thể khẳng định về một cái Tôi nhất quán."

Triết gia đạo đức người Anh Mary Midgley, trong Wickedness (1984), viết:

"Tiến sĩ Jekyll không hoàn toàn sai: chúng ta không chỉ là một, mà còn là nhiều. Một số người trong chúng ta, mỗi khi muốn làm điều gì đó dù chỉ hơi khó một chút, đều phải triệu tập một cuộc họp nội bộ để tìm ra cái tôi nào có đủ khả năng thực hiện nó… Ta dành rất nhiều thời gian và trí lực để tìm cách tổ chức đám đông bên trong ấy, để giữ cho nó hòa hợp và giúp nó hành động như một thể thống nhất. Văn chương cho thấy đây không phải là một trạng thái hiếm hoi."

Erikson và Midgley, một cách đáng ngạc nhiên, đều cho rằng ai cũng như vậy. Và có rất nhiều người đồng tình với họ – có lẽ vì họ thấy bản thân mình phản chiếu trong đó. Nhưng chính vì vậy, tôi càng biết ơn Midgley khi bà nói thêm:

"Tất nhiên, vẫn có những người hoàn toàn không cảm thấy như vậy, những người nghe những mô tả ấy với sự kinh ngạc, và có xu hướng cho rằng những ai nói ra điều đó là hơi kỳ quặc."

Dù vậy, ta không nên chấp nhận một lý thuyết phủ nhận tư cách làm người của những cá nhân như thế. Chúng ta không thể gạt bỏ một người như danh họa Paul Klee, người đã viết trong nhật ký vào những năm đầu thế kỷ 20:

"Bản thân tôi… là một dàn nhân vật kịch tính. Ở đây, một tổ tiên có khả năng tiên tri xuất hiện. Kia, một anh hùng hung bạo đang gào thét. Đằng kia, một kẻ ăn chơi trác táng đang tranh luận với một giáo sư uyên bác. Ở góc này, một nàng thơ trữ tình, mãi đắm chìm trong tình yêu, ngước mắt lên trời. Còn đây, một người cha nghiêm nghị bước tới, cất lên những lời phản đối đầy khuôn phép. Một ông chú dễ tính xen vào giảng hòa. Một bà cô lắm điều đang lải nhải chuyện phiếm. Một cô hầu gái khúc khích cười tinh nghịch. Và tôi nhìn tất cả bọn họ với vẻ kinh ngạc, cây bút sắc bén trên tay. Một người mẹ mang thai muốn tham gia cuộc vui. ‘Suỵt!’ – tôi kêu lên, ‘Bà không thuộc về nơi này. Bà là một thể có thể tách rời.’ Và bà dần tan biến."

Hoặc như nhà văn Anh W. Somerset Maugham từng chiêm nghiệm trong A Writer’s Notebook (1949):

"Tôi nhận ra rằng bản thân mình được tạo thành từ nhiều con người khác nhau, và cái tôi nào đang chiếm ưu thế ở hiện tại rồi cũng sẽ nhường chỗ cho một cái tôi khác. Nhưng cái tôi nào mới là thật? Tất cả hay không có cái nào cả?"

Những con người như thế sẽ ra sao, nếu những người ủng hộ tính thống nhất của tự sự là đúng? Tôi nghĩ họ cứ tiếp tục là chính họ. Đám đông bên trong họ có thể cùng nhau dệt nên một câu chuyện nội tâm sôi động. Nhưng dường như không có một chỗ đứng rõ ràng dành cho họ trong những triết lý hàng đầu về sự thống nhất của cá nhân trong thời đại này, như những gì Schechtman, Harry Frankfurt và Christine Korsgaard đã đề xuất. Tôi cho rằng nhà văn Mỹ F. Scott Fitzgerald đã sai khi viết trong Notebooks (1978):
"Chưa từng có một cuốn tiểu sử hay nào về một tiểu thuyết gia giỏi. Và cũng không thể có. Nếu anh ta thực sự xuất sắc, anh ta sẽ là quá nhiều con người cùng một lúc."
Nhưng ta có thể hiểu ông đang muốn nói gì.

Hơn thế nữa, có một sự khác biệt sâu sắc giữa những người thường xuyên hồi tưởng quá khứ và những người hầu như chẳng bao giờ làm vậy. Trong cuốn hồi ký What Little I Remember (1979), nhà vật lý gốc Áo Otto Frisch viết:
"Tôi luôn sống rất nhiều trong hiện tại, chỉ nhớ những gì đáng để kể lại."
Và:
"Tôi luôn sống trong đây và bây giờ, như tôi đã nói, và ít khi nhìn ra bức tranh rộng lớn hơn."
Về tổng thể, tôi thuộc nhóm của Frisch, dù rằng tôi không nhớ mọi thứ chỉ để kể lại chúng.

Nhìn chung, nếu bỏ qua những chứng suy giảm trí nhớ bệnh lý, tôi đồng cảm với triết gia Pháp Michel de Montaigne khi bàn về ký ức tự thuật. Trong bài tiểu luận Of Liars (1580), ông viết:
"Tôi hầu như không tìm thấy dấu vết nào của [trí nhớ] trong bản thân mình."
Và ông thậm chí còn tự giễu:
"Tôi nghi ngờ rằng trên thế gian này, chẳng có ai có trí nhớ tệ hại một cách kỳ quặc như tôi!"

Montaigne hiểu rằng điều này có thể khiến người khác hiểu lầm. Ông, chẳng hạn, "giỏi kết giao hơn bất cứ điều gì khác, vậy mà những lời tôi dùng để thừa nhận rằng tôi có khiếm khuyết [trí nhớ kém] lại bị xem là dấu hiệu của sự vô ơn. Họ đánh giá tình cảm của tôi qua trí nhớ của tôi". Và dĩ nhiên, họ đã sai. Nhưng, ông nói, "tôi tìm thấy sự an ủi trong khiếm khuyết của mình."

Trí nhớ kém giúp ông tránh khỏi tham vọng tiêu cực, ngăn ông huyên thuyên và buộc ông phải tự suy nghĩ thay vì dựa vào lời người khác. Một lợi ích khác, như ông nhận xét, là "tôi nhớ ít hơn những điều xúc phạm mình."

Thêm vào đó, trí nhớ kém hay việc không có khuynh hướng tự sự cũng không phải trở ngại khi viết tự truyện theo nghĩa đen – tức là viết về chính cuộc đời mình. Montaigne chính là minh chứng cho điều đó. Ông có lẽ là một trong những nhà tự thuật vĩ đại nhất, một người lưu giữ bản thân qua con chữ xuất sắc nhất, dù chính ông thừa nhận:
"Không có gì xa lạ với cách viết của tôi hơn là một lối kể chuyện kéo dài [narration estendue]. Tôi cứ phải dừng lại liên tục vì hụt hơi, đến mức cấu trúc và sự phát triển của tác phẩm đều chẳng có giá trị gì."

Montaigne viết về một cuộc đời không có cốt truyện – mà tôi cho rằng đó mới là cuộc đời duy nhất đáng kể. Ông không đứng về phe nào, theo đúng nghĩa đen của từ này trong tiếng Anh. Sự trung thực của ông, dù cực đoan, không mang màu sắc phô trương hay cảm tính (như ta có thể thấy ở Thánh Augustine hay Rousseau). Ông tìm kiếm sự tự thấu hiểu qua việc viết lách không định trước, đối diện với trang giấy "giống hệt như cách tôi trò chuyện với bất kỳ ai tôi tình cờ gặp đầu tiên." Ông biết trí nhớ của mình vô cùng bất ổn, và vì thế, bài học quan trọng nhất ông rút ra từ sự tự thấu hiểu chính là: hiểu rằng bản thân mình không biết gì cả.

Một khi ta bắt đầu chú ý đến những quan điểm về trí nhớ, ta sẽ thấy chúng ở khắp nơi. Luôn có những xung đột trong cách nhìn nhận. Tôi cho rằng nhà văn Anh James Meek đã rất chính xác khi mô tả Light Years (1975) của tiểu thuyết gia Mỹ James Salter:
"Salter lược bỏ những cầu nối tự sự, những lời giải thích và bối cảnh hóa, những mối liên kết mang tính tiểu thuyết vốn không hề tồn tại trong ký ức thực tế của chúng ta, để lại một tập hợp những mảnh vụn ký ức – có mảnh rực rỡ, có mảnh xấu xí, có mảnh tầm thường đến khó hiểu – những mảnh ghép không dễ kết nối và không thể sắp xếp thành một tổng thể, ngoại trừ theo trình tự thời gian, và theo nghĩa rằng đó là tất cả những gì còn lại."

Meek cho rằng điều này đúng với tất cả mọi người, và có lẽ đó cũng là trạng thái phổ biến nhất. Salter, trong Light Years, đã tìm thấy một sự đứt gãy tương ứng ngay trong chính cuộc đời:
"Không có cuộc đời nào là trọn vẹn. Chỉ có những mảnh vụn. Chúng ta sinh ra để không sở hữu gì cả, để rồi mọi thứ cứ trôi tuột qua kẽ tay."

Và đây, một lần nữa, lại là một trải nghiệm quen thuộc:

"Hãy thử quan sát tâm trí của một người bình thường trong một ngày bình thường. Nó tiếp nhận vô số ấn tượng – có cái thoáng qua, có cái huyễn hoặc, có cái mờ nhạt, có cái khắc sâu như thép. Chúng tràn đến từ mọi phía, như một cơn mưa rào không ngớt của những nguyên tử vô hình. Khi rơi xuống, khi tự sắp xếp thành cuộc sống của ngày thứ Hai hay thứ Ba, điểm nhấn lại rơi vào những nơi khác với ngày xưa; khoảnh khắc quan trọng không còn ở đây mà đã dời sang chỗ khác. Nếu một nhà văn là một con người tự do, không phải một kẻ bị trói buộc – nếu anh ta có thể viết những gì mình chọn, chứ không phải những gì mình buộc phải viết, nếu anh ta có thể xây dựng tác phẩm dựa trên cảm nhận của riêng mình, chứ không phải theo khuôn mẫu của truyền thống – thì sẽ chẳng có cốt truyện, chẳng có hài kịch, chẳng có bi kịch, chẳng có chuyện tình hay biến cố theo kiểu thông thường, và có lẽ cũng chẳng có một chiếc cúc nào được khâu lên theo đúng quy tắc của những thợ may ở Bond Street. Cuộc đời không phải là một chuỗi những chiếc đèn lồng được sắp xếp đối xứng; cuộc đời là một vầng hào quang rực sáng, một lớp màn bán trong suốt bao quanh chúng ta từ lúc ta có ý thức cho đến khi ý thức ấy tan biến."

Thật khó để thấu triệt hết những hệ quả của đoạn trích trong bài tiểu luận Modern Fiction (1921) của Virginia Woolf. Nhưng có một điều chắc chắn: giữa chúng ta có những người kể lại và những người sáng tác, những kẻ không chỉ dệt nên câu chuyện từ ký ức của mình mà còn đang tạo ra nó ngay trong chính khoảnh khắc hiện tại.

Nhưng khi nhà viết kịch người Anh, Sir Henry Taylor, từng nhận xét vào năm 1836 rằng: “Một người giàu trí tưởng tượng dễ dàng nhìn thấy câu chuyện đời mình trong chính cuộc sống của anh ta; và chính vì thế, anh ta bị dẫn dắt đến việc sống sao cho có một câu chuyện hay, hơn là một cuộc đời tốt”, ông đã chỉ ra một lầm lỗi, một hiểm họa về đạo đức. Đây là con đường dẫn đến sự thiếu chân thực. Và nếu những người ủng hộ thuyết tự sự có lý—rằng xu hướng tự dựng nên câu chuyện về bản thân là một đặc điểm phổ quát của con người—chúng ta có lý do để lo lắng.

May thay, họ không hoàn toàn đúng. Vẫn có những người tiếp cận quá khứ của mình một cách chậm rãi, giản đơn, trung thực đến mức cảm động. Từ lâu, người ta đã tin rằng ai cũng nhớ về quá khứ theo cách có lợi cho bản thân, nhưng điều đó không hẳn là sự thật. Nhà tâm lý học Hà Lan Willem Wagenaar đã chỉ ra điều này trong bài nghiên cứu Is Memory Self-Serving? (1994), cũng như nhân vật Ivan Ilyich của Tolstoy trong những giây phút cuối đời.

Trong bài thơ Continuing to Live (1954), Philip Larkin từng viết rằng: “Rồi theo thời gian/ Ta lờ mờ nhận ra dấu vết mù lòa mà mọi hành động của ta đã để lại”. Những người theo chủ nghĩa tự sự tin rằng đây là một dạng tự nhận thức mang tính tự sự, rằng cuộc đời ta vốn dĩ có cấu trúc của một câu chuyện. Nhưng sự thật là nhiều người trong chúng ta thậm chí còn chẳng đạt đến mức nhận thức nửa vời như Larkin. Ta chỉ có những mảnh ghép rời rạc, chứ không phải một câu chuyện hoàn chỉnh.

Lại càng bất ngờ hơn khi Larkin khẳng định: “Một khi đã đi hết chiều dài tâm trí mình, ta sẽ thấy điều ta nắm giữ rõ ràng như một danh sách hàng hóa”. Nhưng ngay cả khi tuổi đã cao, nhiều người vẫn chẳng có khái niệm rõ ràng về những gì mình thực sự sở hữu. Chính tôi cũng không có một hình dung trọn vẹn về bản thân. Không phải vì tôi muốn giống Montaigne, cũng chẳng phải vì tôi đã đọc Socrates bàn về sự vô minh hay Nietzsche viết về những lớp da người trong Untimely Meditations (1876):

“Làm sao con người có thể biết chính mình? Hắn là một thực thể tối tăm và bị che đậy; trong khi con thỏ chỉ có bảy lớp da, thì con người có thể lột bỏ bảy mươi lần bảy lớp da mà vẫn chẳng thể nói: ‘Đây là bản ngã thực sự của ta, đây không còn là một lớp vỏ ngoài nữa’.”

Và Nietzsche viết tiếp:

“Chưa kể, tự đào sâu vào chính mình là một việc đau đớn và nguy hiểm, như thể ta đang cố gắng tìm con đường ngắn nhất để thâm nhập vào lõi của bản thân. Một bước đi sai lầm thôi cũng có thể gây ra những tổn thương mà chẳng bác sĩ nào có thể chữa lành. Và hơn nữa, tại sao lại phải dấn thân vào hành trình này, khi mà mọi thứ—tình bạn, thù hận, diện mạo, cái bắt tay, những điều ta nhớ và quên, những cuốn sách ta đọc, nét chữ ta viết—đều đã là bằng chứng về con người ta?”

Tôi đã định dừng lại ở đây, nhưng đoạn trích còn tiếp tục theo một hướng khiến tôi phải suy nghĩ lại:

“Nhưng vẫn có một cách để truy vấn vấn đề quan trọng bậc nhất này. Hãy để tâm hồn tuổi trẻ nhìn lại cuộc đời mình và tự hỏi: cho đến lúc này, điều gì ta đã thực sự yêu mến, điều gì đã làm tâm hồn ta rung động, điều gì đã thu hút ta và đồng thời mang lại hạnh phúc? Hãy xếp những điều ấy lại trước mắt, và có lẽ, từ chính chúng và thứ tự của chúng, ta sẽ tìm thấy một quy luật—quy luật căn bản của bản ngã chân thật.”

Có lẽ, từ chính chúng… ta sẽ tìm thấy quy luật căn bản của bản ngã chân thật. Tôi dễ dàng đồng ý với nhận định này. Đây cũng là phát hiện vĩ đại nhất của Marcel Proust. Albert Camus cũng từng nhìn ra điều ấy. Nhưng Nietzsche còn cụ thể hơn: “… và thứ tự của chúng”.

Ở đây, tôi buộc phải hoặc là phản đối Nietzsche, hoặc nhượng bộ các nhà tự sự: rằng việc nắm bắt trình tự có thể đóng vai trò quan trọng trong quá trình tự thấu hiểu.

Tôi thừa nhận điều đó. Xem xét trình tự—hay nếu muốn, có thể gọi là “tự sự”—có thể quan trọng với một số người, trong một số trường hợp. Nhưng với hầu hết chúng ta, tôi nghĩ rằng sự tự nhận thức đến từ những mảnh vụn rời rạc hơn là từ một câu chuyện hoàn chỉnh. Và dù có chấp nhận nhượng bộ này, tôi vẫn bác bỏ quan điểm bao quát mà tôi đã đề cập từ đầu: quan điểm của Oliver Sacks rằng mọi cuộc đời đều là sự viết lại chính mình, rằng mỗi chúng ta đều dựng nên và sống một câu chuyện, rằng câu chuyện đó chính là chúng ta.

This essay is excerpted from On Life-Writing, edited by Zachary Leader and published by OUP in September 2015.

Nguồn: I am not a story | Aeon.co

menu
menu