Vì sao hối tiếc không phải lúc nào cũng là điều tồi tệ (nhưng đôi khi lại là thế)

Bức tranh tâm lý của những “giá như”, “lẽ ra”, và “đáng lẽ”
Trên hành trình cả đời người, một chút hối tiếc là điều không thể tránh khỏi: sai lầm, lạc bước, những quyết định thiếu suy xét, tất cả đều là phần tất yếu của kiếp làm người. Ai trong chúng ta rồi cũng có những khoảnh khắc tự hỏi: “Nếu mình làm điều kia thay vì điều này thì sao?”, hay “Phải chi ngày ấy mình hành động thay vì chần chừ…” Nhưng cách mỗi người đối diện và xử lý cảm giác hối tiếc lại không giống nhau.
Một cách nghịch lý, hối tiếc có thể trở thành động lực thúc đẩy hành động (“Tôi sẽ không để cơ hội như vậy trôi qua lần nữa!”), hoặc cũng có thể khiến ta tê liệt, đắm chìm trong niềm tiếc nuối những điều đã không thành (“Giá mà tôi rời đi ngay từ lần đầu tiên anh/cô ấy nói dối” hay “Giá mà tôi đừng nghỉ việc trước khi công ty lên sàn”). Có người, như thể đang đồng ca cùng Edith Piaf, khẳng định “Non, je ne regrette rien” – “Không, tôi không hối tiếc điều gì”, và nhìn thấy tia sáng trong cả những sai lầm đen tối nhất. Cách nhìn đó phần nào bắt nguồn từ điều nhà tâm lý học Daniel Gilbert gọi là “hệ miễn dịch tâm lý” hay còn gọi là khả năng lý giải hợp lý, kết hợp với một liều lớn suy nghĩ tích cực.
Lại có người, bước theo nhà thơ Robert Frost, tìm thấy sự thấu hiểu trong “con đường không chọn” và xem đó như một ân phúc giúp họ hiểu sâu hơn về đời sống. Và rồi có những người còn lại trong chúng ta – đồng cảm với câu nói của Arthur Miller – tin rằng “Có lẽ điều duy nhất ta có thể làm là kết thúc với những nuối tiếc đúng đắn.”
Điều đặc biệt về hối tiếc là nó dường như không được lập trình sẵn trong con người như niềm vui, nỗi sợ hay nỗi buồn. Trẻ sơ sinh không biết hối tiếc, cũng không có nét mặt phổ quát nào biểu hiện cảm xúc ấy. Theo một nghiên cứu, phải đến khoảng 7 tuổi, trẻ em mới bắt đầu cảm nhận được hối tiếc – khi chúng biết dùng lối suy nghĩ kiểu “nếu... thì...” vốn là nền tảng để khởi phát cảm xúc này.
Thậm chí, giới nghiên cứu vẫn còn tranh luận sôi nổi rằng: Liệu hối tiếc chủ yếu đến từ những quyết định và hành động đã thực hiện, hay từ những điều ta không làm? (Hai nhà đoạt giải Nobel là Daniel Kahneman và Amos Tversky nghiêng về nguyên nhân từ hành động; trong khi Thomas Gilovich và Victoria Husted Medvec lại đứng về phía nguyên nhân từ sự không hành động.)
Hối tiếc, dĩ nhiên, có đủ cấp độ, từ nhỏ nhặt đến khổng lồ. Nhưng quan trọng hơn cả, nó ảnh hưởng rất khác nhau đến cảm xúc, suy nghĩ và cả bản thân chúng ta. Một chuyện là tiếc vì bỏ lỡ trận bóng đá của con hay quên mất đợt giảm giá lớn ở cửa hàng. Nhưng lại là chuyện hoàn toàn khác khi nuối tiếc vì đã cưới người chồng/vợ hiện tại, hay vì không có con. Những nỗi tiếc nuối “lớn” ấy, những việc đã xảy ra và không thể đảo ngược, dù với ai, thường khó vượt qua nhất. (Tôi nói “với đa số chúng ta” là có chủ ý, bởi có những người, tôi xin không nêu tên, vì không bao giờ chịu nhận trách nhiệm cho hành động của mình, nên chẳng bao giờ biết đến loại hối tiếc này.)
Một nghiên cứu của Neal J. Roese và các cộng sự đã chỉ ra mối liên hệ giữa kiểu hối tiếc gắn liền với trầm cảm và các vấn đề tâm lý khác. Họ tập trung vào những nuối tiếc mang yếu tố tự trách và lặp đi lặp lại trong suy nghĩ, hay còn gọi là “ngẫm nghĩ thái quá”. Ví dụ như cứ mãi quay về nỗi hối hận vì không cưới người yêu thời trung học, hay vì đã lấy người mà giờ ta đang ly hôn. Có lẽ không quá bất ngờ, khi nghiên cứu cho thấy phụ nữ – vốn có xu hướng suy nghĩ nhiều hơn – thường dễ rơi vào trạng thái hối tiếc lặp đi lặp lại hơn nam giới. Nhưng phát hiện quan trọng nhất của nghiên cứu chính là sự gắn bó chặt chẽ giữa hối tiếc mang tính lặp lại và nỗi đau tinh thần, cảm xúc kéo dài.
Dù là một cảm xúc tiêu cực, hối tiếc lại có thể dẫn đến hai kết quả trái ngược: hoặc nó kéo ta chìm xuống với những lời “giá như”, hoặc nó đẩy ta vươn lên, sửa chữa những hành vi chưa đúng. Hãy thử nghĩ về những lựa chọn trong cuộc đời bạn từng khiến bạn hối tiếc, rồi tự hỏi: Hối tiếc ấy đã ảnh hưởng đến bạn như thế nào? Liệu sự nuối tiếc vì không nhận công việc tưởng chừng quá mạo hiểm hay khó khăn năm nào có khiến bạn sau này dám mạo hiểm, dám linh hoạt hơn? Hay việc hối tiếc về vai trò của bản thân trong một mối quan hệ đổ vỡ, dù là tình yêu, tình bạn, hay hợp tác làm ăn, có giúp bạn nỗ lực hơn để kết nối cảm xúc với người khác? Hay chỉ khiến bạn thêm mỏi mệt, cay đắng, rồi tự nhủ sẽ sống cô độc và tự lập cho nhẹ lòng?
Nói một cách khác, liệu hối tiếc có khiến bạn nhìn lại bản thân, hay khiến bạn buông xuôi?
Thật lạ lùng khi sự khác biệt giữa mỗi con người lại có thể quyết định cách hối tiếc vận hành trong đời sống của họ.
Chẳng có gì ngạc nhiên nếu bạn nghe rằng tính cách đóng vai trò không nhỏ trong việc một người cảm thấy hối tiếc đến mức nào và họ xử lý cảm xúc ấy ra sao. Barry D. Schwartz cùng các cộng sự đã từng nghiên cứu xem liệu khả năng hối tiếc có ảnh hưởng đến hành vi hay không. Họ chia con người thành hai nhóm: những người theo chủ nghĩa tối ưu, luôn muốn chọn phương án tốt nhất, tìm hiểu kỹ càng, đặt tiêu chuẩn cao, và những người theo chủ nghĩa vừa đủ, thấy hài lòng với lựa chọn “đủ tốt”.
Theo họ, những người thuộc nhóm “vừa đủ” ít bị chi phối bởi khả năng hối tiếc, và vì thế cũng ít khi cảm thấy hối tiếc. Nhưng kết quả họ tìm được lại đi ngược với直感: những người theo chủ nghĩa tối ưu lại dễ bị ảnh hưởng bởi sự so sánh xã hội – hay nhìn sang người khác để xem lựa chọn của họ có “đáng giá” hơn không, và luôn mang trong mình áp lực phải đạt được kết quả tốt nhất. Tuy vậy, họ lại ít hài lòng với chính những lựa chọn của mình hơn, và cũng dễ rơi vào cảm giác hối tiếc hơn. Dù trên thực tế, họ thường đạt được kết quả khách quan tốt hơn, nhưng vì quá tập trung vào sự hoàn hảo, họ lại khó cảm thấy mãn nguyện, và vì thế, càng dễ nuối tiếc.
Bạn hãy tự hỏi: bạn là người tối ưu hay người “vừa đủ”? Bạn có thường xuyên ngoái đầu nhìn lại để so xem người khác làm được những gì, hay bạn thấy mãn lòng với những điều mình đã chọn? Biết dừng lại ở mức “đủ tốt” có lẽ là một cách để giữ cho hối tiếc không tràn ngập cuộc đời mình.
Schwartz và nhóm nghiên cứu của ông đã xây dựng một thang đo mức độ hối tiếc, mà tôi chia sẻ dưới đây. Hãy thử tự vấn bản thân qua những câu hỏi này và xem mình nằm ở đâu:
- Mỗi khi đưa ra một lựa chọn, tôi thường tò mò không biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu tôi chọn khác đi.
- Sau mỗi quyết định, tôi lại cố tìm thông tin xem những lựa chọn khác đã mang lại kết quả ra sao.
- Dù quyết định tôi đưa ra có kết quả tốt, tôi vẫn cảm thấy mình có phần thất bại nếu biết rằng một lựa chọn khác sẽ tốt hơn.
- Khi nghĩ về cuộc sống của mình, tôi thường nghĩ đến những cơ hội mình đã để lỡ.
- Một khi đã quyết định, tôi không nhìn lại nữa.
Như bạn thấy, chính những suy nghĩ ấy có thể mở rộng cánh cửa cho sự hối tiếc len lỏi vào, hoặc như trong câu cuối cùng, là khép chặt cánh cửa ấy lại.
Cuối cùng, ai trong chúng ta rồi cũng sẽ hối tiếc về điều gì đó, một việc đã làm hay chưa làm, một lời đã nói hay giữ lại, một con đường đã bước hay đã bỏ qua. Nhưng có lẽ, điều quan trọng nhất là đảm bảo rằng hối tiếc sẽ dẫn ta đến sự thấu hiểu bản thân sâu sắc hơn, thúc đẩy ta hành động, chứ không phải khiến ta đứng yên bất động trong nỗi dằn vặt khôn nguôi.
Tác giả: Peg Streep
Nguồn: Why Regret May Not Always Be a Bad Thing (But Sometimes Is) | Psychology Today