Atlas về Trầm cảm: Con quỷ giữa ban trưa - Chương 2
CHƯƠNG II Suy Sụp Tinh Thần
Ác Quỷ giữa ban trưa
Atlas Về Trầm Cảm
Tác giả: ANDREW SOLOMON
Người dịch: December Child
CHƯƠNG II
Suy Sụp Tinh Thần
Tôi chưa từng trải qua trầm cảm cho tới mãi tận sau này, khi tôi hầu như đã giải quyết được các vấn đề của mình. Mẹ tôi mất vào ba năm trước đó và tôi đã bắt đầu chấp nhận được điều này; tôi vừa xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tay; tôi hòa thuận với gia đình mình; tôi đã vượt qua được cái ngưỡng hai năm của một mối quan hệ bền chặt; tôi vừa mới mua một căn hộ xinh xắn; tôi viết bài cộng tác cho tờ New Yorker. Đó là khi cuộc sống cuối cùng cũng đi vào quỹ đạo và khi mà tất cả những lời biện minh dành cho nỗi tuyệt vọng đều đã được dùng tới, và cơn trầm cảm lén lút lẩn vào đời ta êm ru như bước chân của loài mèo và phá hỏng mọi thứ, tôi cảm nhận sâu sắc rằng không có lời giải thích hợp lý nào dưới tình huống như vậy cả. Bị trầm cảm khi mà bạn vừa trải qua một chấn thương tâm lý hay khi mà cuộc đời bạn rõ ràng là một mớ bòng bong là một chuyện, nhưng nếu như chỉ ngồi đó và đâm ra trầm cảm trong khi bạn cuối cùng cũng thoát khỏi những tổn thương và cuộc đời bạn không có gì rối ren thì thật là khó hiểu và bất định. Dĩ nhiên là bạn có nhận thức được những nguyên nhân sâu xa: việc luôn tái diễn của cơn khủng hoảng tồn tại, nỗi đau thương thuở bé đã bị lãng quên từ lâu, những lỗi lầm nhỏ bé mà ta từng phạm phải với người đã khuất, kết thúc của một tình bạn chỉ bởi vì sự sơ suất của ta, sự thật rằng ta chẳng phải là đại văn hào Tolstoy, sự vắng mặt của thứ gọi là tình yêu hoàn hảo trong cái thế giới này, sự thôi thúc của lòng tham và độc ác nằm ngay sát trái tim ta – hay những điều tương tự như thế. Nhưng giờ đây, khi mà tôi nhìn lại, tôi tin rằng chứng trầm cảm của mình vừa là một tình trạng hợp lý, vừa không thể chữa được.
Tôi không hề, theo những ngữ nghĩa về mặt vật chất, có một cuộc sống khó khăn. Hầu hết mọi người đều sẽ tương đối hài lòng với những lá bài mà tôi có trong tay ngay từ điểm khởi đầu. Tôi đã trải qua những giai đoạn tốt đẹp hay tồi tệ, theo quan điểm của cá nhân tôi, nhưng sự suy sụp này vẫn không đủ để giải thích cho những gì xảy ra với tôi. Nếu cuộc đời tôi khó khăn hơn, tôi sẽ hiểu về chứng trầm cảm của mình rất khác. Thực ra, tôi đã từng có một tuổi thơ khá hạnh phúc với cha mẹ vô cùng yêu thương mình, và một người em trai mà cha mẹ cũng yêu thương không kém và là người vẫn luôn thân thiết với tôi. Chính sự trọn vẹn của gia đình đã khiến cho tôi không bao giờ nghĩ tới khả năng ly dị hay xung đột giữa cha mẹ tôi, những người mà thật ra là vô cùng thương yêu nhau; và cho dù họ có cãi và lúc này hay lúc khác về dăm ba chuyện, họ chẳng bao giờ nghi ngờ về sự hết lòng tận tụy của người này dành cho người kia và cho cả các con nữa. Chúng tôi luôn có đủ để có thể sống được thoải mái. Tôi không phải là một đứa trẻ nổi bật ở trường tiểu học hay trung học cơ sở, nhưng vào cuối thời trung học tôi cũng cảm thấy mình kha khá hạnh phúc giữa vòng tay bạn bè. Và tôi vẫn luôn là một học sinh giỏi.
Khi còn nhỏ tôi có hơi rụt rè, sợ bị cự tuyệt trong những tình huống buộc phải bộc lộ bản thân – nhưng có ai mà lại không như vậy? Vào thời điểm tôi học trung học, tôi nhận thấy đôi khi mình có những tâm trạng bất an, mà, dường như thật bất thường đối với một cậu thiếu niên. Có một thời điểm, vào năm lớp mười một, tôi từng cho rằng dãy phòng học của chúng tôi (đã tồn tại cả trăm năm nay) sẽ bị sụp đổ, và tôi vẫn nhớ việc từng buộc bản thân mình phải chống lại nỗi lo lắng ấy hết ngày này qua ngày khác. Tôi biết rằng như thế thật kỳ cục và rồi cảm thấy thật nhẹ nhõm khi, vào khoảng một tháng sau đó, cái cảm giác này biến mất.
Rồi tôi lên đại học, nơi tôi vô cùng hạnh phúc, và là nơi mà tôi đã gặp gỡ rất nhiều người trở thành bạn thân của tôi cho tới tận ngày nay. Tôi học tập và vui chơi hết mình và thức dậy với những trạng thái cảm xúc và cả những phạm vi kiến thức mới mẻ. Đôi lúc khi tôi ở một mình, tôi bỗng cảm thấy cô đơn, và cái cảm giác ấy không đơn giản chỉ là sự buồn rầu vì phải ở một mình, mà còn là cả sự sợ hãi nữa. Tôi có nhiều bạn, và tôi sẽ tới thăm một người trong số họ, và tôi thường có thể dễ dàng làm xao nhãng nỗi buồn của bản thân. Đấy chỉ là điều đôi khi xảy ra và không phải là một vấn đề nghiêm trọng. Tôi tiếp tục thực hiện chương trình thạc sĩ của mình tại Anh, và khi tôi hoàn thành việc học, tôi không gặp khó khăn gì khi theo đuổi nghiệp viết. Tôi ở lại London vài năm. Tôi có nhiều bạn ở đó, và một số trong những tình bạn đó trờ thành tình yêu. Theo nhiều cách, tất cả những điều ấy đều ít nhiều giống như nhau. Cho tới giờ tôi đã có được một cuộc sống tốt đẹp, và tôi cảm thấy biết ơn vì điều đó.
Khi bạn bắt đầu rơi vào cơn trầm cảm, bạn có khuynh hướng nhìn lại để tìm kiếm nguyên nhân gây ra nó. Bạn tự hỏi rằng nó đến từ đâu, liệu có phải nó vẫn luôn có đó, chỉ nằm ngay bên dưới bề mặt kia, hay là nó đột ngột ập đến với bạn như là một cơn ngộ độc thực phẩm. Kể từ lần suy sụp tinh thần đầu tiên, tôi đã dành ra hàng tháng trời để liệt kê về những khó khăn thuở trước, nếu như chúng có tồn tại. Tôi bị sinh ngược, và có một số tác giả đã liên hệ sự sinh ngược này tới những tổn thương ban đầu. Tôi bị mắc chứng khó đọc, dù mẹ tôi là người phát hiện ra vấn đề từ rất sớm, đã bắt đầu dạy tôi cách để bù đắp cho điều này khi tôi chỉ mới hai tuổi, và nó chưa bao giờ là trở ngại lớn đối với tôi cả. Là một đứa trẻ, tôi chỉ có thể nói từng từ và rất lộn xộn. Khi tôi hỏi mẹ về việc phát hiện tổn thương ban đầu của tôi, bà nói rằng việc biết đi không hề đến với tôi dễ dàng, rằng trong khi việc nói lại diễn ra một cách trôi chảy, khả năng tự giữ thăng bằng đến với tôi rất muộn và không được hoàn chỉnh. Tôi nghe kể lại rằng tôi suốt ngày bị ngã, và chỉ nhờ có sự khích lệ lớn mà tôi mới có thể cố gắng đứng dậy. Và việc không thích thể thao về sau này khiến tôi trở nên mờ nhạt ở trường tiểu học. Dĩ nhiên là việc không được bạn bè công nhận đã khiến tôi thất vọng, nhưng tôi vẫn có một vài người bạn và tôi vẫn luôn thích người lớn, những người cũng yêu quý tôi.
Tôi có rất nhiều những kí ức lạ kỳ, lộn xộn về thời thơ ấu, hầu như tất cả trong số đó đều là những hình ảnh hạnh phúc. Một vị bác sĩ tâm lý từng điều trị cho tôi đã nói rằng một chuỗi kí ức mờ nhạt thuở đầu đời mang đôi chút ý nghĩa với tôi đã cho bà gợi ý rằng tôi từng là đối tượng của nạn ấu dâm. Điều này là hoàn toàn có thể, nhưng tôi chưa bao giờ có thể dựng nên một kí ức thuyết phục về điều đó hay viện dẫn tới những chứng cớ khác để đi đến kết luận này. Nếu có điều gì đó xảy ra, thì nó hẳn phải tương đối nhẹ nhàng, bởi vì tôi là một đứa trẻ được chăm chút cực kỳ cẩn thận, và bất kỳ một vết bầm tím hay trầy xước nào trên cơ thể tôi đều sẽ bị phát hiện. Tôi vẫn còn nhớ cơn trầm cảm khi tham gia một trại hè vào năm sáu tuổi, khi bỗng nhiên và và không vì một lý do gì tôi phải đối diện với nỗi sợ hãi. Tôi có thể thấy nó đầy sống động: sân tennis ở phía trước, nhà ăn bên tay phải, và cách đó chừng năm mươi foot, là một cây sồi lớn mà tôi vẫn thường ngồi nghe kể chuyện dưới tán cây. Bỗng nhiên, tôi chẳng thể động đậy. Tôi choáng ngợp trước sự nhận biết rằng có điều gì đó thật kinh khủng sắp xảy ra với tôi, hiện tại hoặc sau này, và rằng, cho tới chừng nào mà tôi còn sống, tôi sẽ chẳng thể thoát khỏi nó. Cuộc đời, cho tới tận khi ấy dường như là một bề mặt chắc chắn ở nơi tôi đứng, bỗng nhiên trở nên thật mềm và dẻo quẹo, và tôi bắt đầu trượt qua nó. Nếu như đứng yên, có thể tôi vẫn ổn, nhưng ngay khi tôi di chuyển, tôi sẽ lại rơi vào nguy hiểm. Dường như việc tôi sang trái hay sang phải hay đi thẳng về phía trước là vô cùng quan trọng, nhưng tôi không biết được hướng đi nào mới cứu mạng tôi, ít nhất là trong thời điểm ấy. Thật may làm sao, một giáo viên bước tới chỗ tôi và giục tôi hãy nhanh lên, tôi đã muộn giờ học bơi rồi đấy, và tâm trạng ấy qua đi, nhưng tôi vẫn còn nhớ đến nó suốt một thời gian dài sau đó và mong sao nó đừng quay trở lại.
Tôi cho rằng điều này không phải là bất thường ở trẻ nhỏ. Cảm giác lo lắng liên quan tới sự tồn tại thường diễn ra ở người trưởng thành, dù có thể là đau đớn, thường như một trò may rủi; phát giác đầu tiên về sự yếu đuối của con người, gợi ý đầu tiên về cái chết, đều gây tổn hại và quá mức chịu đựng. Tôi đều đã nhìn thấy những điều này ở các con nuôi và các cháu của mình. Sẽ thật là lãng mạn và ngớ ngẩn khi nói rằng vào tháng Bảy năm 1969, tại Trại hè Grant Lake, tôi đã hiểu ra rằng tôi rồi sẽ chết vào một ngày nào đó, nhưng tôi quả thực đã sảy chân, không vì một lý do nào cả, vào sự yếu đuối của chính mình, vào cái thực tế rằng cha mẹ tôi chẳng thể kiểm soát nổi cái thế giới này và toàn bộ những gì diễn ra trong đó, và rằng tôi cũng chẳng bao giờ kiểm soát được nó cả. Tôi có một trí nhớ rất tệ, và sau cơn trầm cảm ở trại hè ấy tôi trở nên sợ hãi trước những điều có thể mất đi cùng thời gian, và mỗi khi đêm về tôi sẽ nằm trên giường và cố gắng nhớ lại những sự việc đã diễn ra trong ngày để tôi có thể lưu giữ chúng – một sự tích trữ vô hình. Tôi đặc biệt trân trọng nụ hôn chúc ngủ ngon của cha mẹ, và tôi thường ngủ với một tờ khăn giấy được kê dưới đầu để hứng lấy những nụ hôn nếu như chúng có lỡ rơi xuống, để mà tôi có thể gói chúng lại và lưu giữ chúng mãi về sau.
Kể từ khi bước vào trung học, tôi nhận thức được một cảm giác rối bời về tính dục, mà tôi có thể nói rằng đó là một trong những thách thức cảm xúc lớn nhất trong đời mình. Tôi chôn vùi vấn đề này đằng sau sự hòa đồng của bản thân để không phải đối mặt với nó, một sự phòng thủ đơn giản đã bị bộc lộ khi vào đại học. Tôi đã có vài năm bất định, một thời kỳ dài dính vào cả nam lẫn nữ; và điều này khiến cho mối quan hệ giữa tôi và mẹ trở nên căng thẳng. Tôi thường rơi vào một tâm trạng lo lắng dữ dội mà không vì lý do nào cả, một sự pha trộn lạ kỳ giữa nỗi buồn và sợ hãi không biết đến từ đâu. Đôi khi nó ập đến vào những lúc tôi ngồi trên xe buýt khi còn là một đứa trẻ. Đôi khi nó ập đến vào những tối thứ Sáu ở trường đại học, khi mà tiếng ồn ã của không khí hội hè nhấn chìm sự riêng tư trong bóng tối. Đôi khi nó ập đến lúc tôi đang đọc sách, và đôi khi nó ập đến lúc tôi đang làm tình. Nó vẫn luôn ập đến với tôi mỗi khi xa nhà, và cho đến giờ nó vẫn là một món trang sức của những chuyến đi xa. Cho dù tôi chỉ rời nhà cho một kỳ nghỉ cuối tuần, nó ùa đến ngay khi tôi vừa khóa lại cánh cửa sau lưng mình. Và nó cũng thường xuất hiện mỗi lúc tôi trở về. Mẹ tôi, cô bạn gái, và thậm chí là một trong những chú chó của chúng tôi nữa, sẽ chào đón tôi và tôi sẽ thấy thật buồn, và nỗi buồn ấy khiến cho tôi sợ hãi. Tôi đối phó với nó bằng cách hành xử theo kiểu áp đặt với mọi người, là điều vẫn luôn khiến tôi có thể xao lãng. Và tôi cứ phải huýt sáo một điệu vui vẻ mới có thể thoát được khỏi nỗi buồn đó.
Vào mùa hè sau năm cuối đại học, tôi bị suy sụp tinh thần nhẹ, nhưng vào thời điểm đó tôi không biết nó có nghĩa là gì. Khi ấy tôi đang chu du ở châu Âu, tận hưởng một mùa hè mà tôi vẫn hằng mơ ước, hoàn toàn tự do. Đó là một món quà tốt nghiệp mà cha mẹ dành cho tôi. Tôi trải qua một tháng tuyệt vời trên đất Ý, rồi sang Pháp, rồi ghé thăm một người bạn ở Morocco. Morocco khiến cho tôi khiếp sợ. Như thể tôi bỗng nhiên được giải phóng khỏi quá nhiều những bó buộc thông thường, và tôi luôn cảm thấy lo lắng, cái cảm giác mà tôi vẫn thường có mỗi khi đứng sau cánh gà ngay trước giờ diễn kịch ở trường. Tôi trở lại Paris, gặp thêm một vài người bạn ở đó, có một thời gian tuyệt vời, và rồi tôi tới Vienna, một thành phố mà tôi vẫn hằng mong được đặt chân tới. Tôi bị mất ngủ ở Vienna. Tôi tới nơi, đăng ký phòng ở một khách sạn tư nhân nhỏ, và gặp gỡ vài người bạn cũng đang ở Vienna. Chúng tôi lên kế hoạch cùng nhau đi Budapest. Chúng tôi đã có một buổi tối dễ chịu và rồi tôi quay về khách sạn và thức trắng cả đêm đó, hoảng hốt vì một sai lầm mà tôi cho rằng mình đã mắc phải, dù tôi cũng chẳng biết đó là gì. Ngày hôm sau, tôi thấy vô cùng khó chịu khi phải ăn sáng trong một căn phòng đầy những người lạ, nhưng khi rời khách sạn, tôi đã cảm thấy khá hơn và quyết định sẽ tham quan một số điểm nghệ thuật và nghĩ rằng chẳng qua là mình mệt quá. Bạn tôi có hẹn ăn tối với người khác, và khi họ thông báo với tôi như vậy, tôi cảm thấy bị chấn động tới tận xương tủy, như thể tôi đang được nghe kể về một âm mưu giết người nào đó vậy. Họ đồng ý đi uống cùng tôi sau bữa tối. Tối đó tôi không ăn. Chỉ là tôi chẳng thể nào đi vào một nhà hàng xa lạ và gọi món một mình (mặc dù tôi đã làm điều này vô số lần trước đó); cũng như tôi chẳng thể bắt chuyện với bất kỳ ai. Khi tôi cuối cùng cũng gặp được các bạn mình, toàn thân tôi run rẩy. Chúng tôi ra phố và tôi uống nhiều hơn nhiều so với những lần tôi từng uống trước đó, và tôi cảm thấy tạm thời bình tĩnh lại. Đêm ấy, tôi lại thức trắng với cái đầu đau đớn và những cơn quặn thắt nơi dạ dày, lo lắng một cách đầy ám ảnh về giờ khởi hành của chuyến tàu đi Budapest. Tôi vượt qua được ngày hôm sau, và trong suốt đêm thứ ba không ngủ liên tiếp, tôi hoảng sợ đến nỗi tôi chẳng thể đứng dậy để vào nhà vệ sinh suốt cả một đêm. Tôi gọi cho cha mẹ. “Con cần phải về nhà,” tôi nói. Họ nghe chừng có vẻ rất ngạc nhiên, vì trước chuyến đi này tôi đã phải kì kèo để có thêm được mỗi một ngày và một điểm đến, cố gắng kéo dài thời gian ở nước ngoài hết mức có thể. “Có chuyện gì thế con?” họ hỏi, và tôi chỉ có thể nói rằng tôi thấy không khỏe và mọi thứ diễn ra không được thú vị như tôi mong đợi. Mẹ tôi đồng cảm. “Du lịch một mình có thể sẽ vất vả,” bà nói. “Mẹ nghĩ là con sẽ gặp các bạn ở đó, nhưng dầu vậy, thì cũng vô cùng mệt mỏi.” Còn cha thì nói, “Nếu con muốn về nhà thì hãy dùng thẻ của cha để mua vé máy bay và cứ về đi.”
Tôi mua vé, gói ghém đồ đạc, và về nhà vào chiều hôm ấy. Cha mẹ đón tôi ở sân bay. “Có chuyện gì vậy?” họ hỏi, nhưng tôi chỉ có thể nói rằng tôi không thể ở đó lâu hơn được nữa. Trong vòng tay ôm ấp của họ, lần đầu tiên tôi cảm thấy thật an toàn sau nhiều tuần lễ. Tôi bật khóc vì nhẹ nhõm. Khi quay trở lại ngôi nhà mà tôi đã từng lớn lên, tôi thấy tuyệt vọng và cảm thấy hoàn toàn ngu ngốc. Tôi đã phá hỏng chuyến du lịch mùa hè của mình; tôi đã quay trở lại New York, nơi mà tôi chẳng có gì để làm ngoại trừ những việc lặt vặt cũ rích. Tôi đã không được thăm Budapest. Tôi gọi cho mấy người bạn, những người rất ngạc nhiên khi nghe thấy giọng tôi. Tôi thậm chí còn chẳng buồn giải thích về điều đã xảy ra. Tôi ở nhà suốt cả mùa hè đó. Tôi thấy chán, khó chịu, và lúc nào cũng cau có, mặc dù chúng tôi cũng có vài khoảng thời gian tốt đẹp cùng nhau.
Tôi gần như đã quên hết những gì diễn ra vào mấy năm sau đó. Sau mùa hè ấy, tôi tới Anh học cao học. Bắt đầu sự nghiệp học hành tại một ngôi trường mới ở một đất nước mới, tôi hầu như chẳng sợ hãi gì. Tôi bắt nhịp được ngay với cuộc sống mới, nhanh chóng kết bạn, đạt kết quả học tập tốt. Tôi yêu nước Anh, và dường như chẳng một điều gì có thể khiến tôi sợ hãi nữa. Cái bản thể sợ hãi đi cùng với quãng đời đại học trên nước Mỹ nay nhường chỗ cho một anh chàng khỏe mạnh, tự tin và dễ chịu nhường này. Khi tôi mở tiệc, mọi người đều muốn tham gia. Những người bạn thân thiết nhất của tôi (mà cho tới giờ vẫn là những người bạn thân nhất) là những người mà tôi sẽ ngồi cùng cả đêm, trong một sự thân thiết nhanh chóng và sâu sắc với niềm vui thích tuyệt vời. Tôi gọi điện về nhà mỗi tuần một lần, cha mẹ nhận thấy rằng tôi hạnh phúc qua giọng nói của mình. Tôi khao khát được có bầu có bạn mỗi khi tôi cảm thấy hoang mang, và tôi đã tìm thấy nó thật dễ dàng. Trong vòng hai năm, tôi gần như lúc nào cũng hạnh phúc, và chỉ thấy không vui vì thời tiết xấu, sự khó khăn trong việc khiến mọi người luôn yêu quý tôi, khi thiếu ngủ, và bắt đầu rụng tóc. Cái khuynh hướng trầm cảm duy nhất luôn hiện diện trong tôi là cảm giác hoài niệm: không giống như Edith Piaf[1], tôi tiếc nuối mọi điều chỉ bởi vì nó đã kết thúc, và ngay từ khi tôi mười hai tuổi, tôi đã thấy bi ai vì thời gian cứ thế trôi đi. Ngay cả khi ở trong tâm trạng tốt nhất, dường như tôi đang vật lộn với hiện tại trong một nỗ lực mơ hồ nhằm ngăn nó trở thành quá khứ.
Tôi nhớ những năm đầu tuổi hai mươi của mình trôi qua thật yên bình. Tôi quyết định, gần như là trong một ý định bất chợt, trở thành một kẻ mạo hiểm và sẽ phớt lờ những lo lắng của bản thân kể cả khi nó liên quan tới những hoàn cảnh đáng sợ đi chăng nữa. Mười tám tháng sau khi tôi hoàn thành chương trình thạc sĩ, tôi bắt đầu thường xuyên tới Moscow, Liên Xô và sống bán-thời gian cùng một vài nghệ sĩ mà tôi quen biết ở một ngôi nhà bị chiếm dụng bất hợp pháp. Khi một kẻ cố gắng cướp đồ của tôi vào một đêm nọ ở Istanbul, tôi đã chống cự thành công và hắn ta bỏ chạy mà không cướp được gì từ tôi. Tôi cho phép bản thân xem xét đến mọi khả năng tính dục; tôi bỏ lại sau lưng gần như mọi sự kiềm chế và nỗi sợ tình ái. Tôi nuôi tóc dài; rồi tôi cắt ngắn nó đi. Thi thoảng tôi có diễn cùng một ban nhạc rock; tôi cũng đi nghe cả opera. Tôi xây dựng một niềm khát khao trải nghiệm, và tôi đã có được nhiều trải nghiệm nhất có thể ở nhiều nơi chốn nhất có thể mà tôi có đủ khả năng để tới được đó. Tôi ở trong một mối quan hệ yêu đương và tạo nên một không khí hạnh phúc gia đình.
Và rồi vào tháng 8 năm 1989, khi tôi hai mươi lăm tuổi, mẹ tôi bị chẩn đoán mắc bệnh ung thư buồng trứng và cái thế giới hoàn hảo của tôi bắt đầu sụp đổ. Nếu như bà không đổ bệnh, cuộc đời tôi có lẽ sẽ rất khác; nếu như câu chuyện ấy ít bi thương hơn một chút, thì có lẽ tôi sẽ vượt qua cuộc đời này với một vài khuynh hướng trầm cảm nhưng sẽ không suy sụp; hoặc có lẽ tôi sẽ có một cơn suy sụp tinh thần về sau này như là một phần của cơn khủng hoảng tuổi trung niên; hay có lẽ tôi sẽ chỉ trải qua giống như lần ở châu Âu hồi trước. Nếu như phần đầu tiên của một sơ yếu lý lịch về cảm xúc là những trải nghiệm tiền thân, thì phần thứ hai sẽ là những trải nghiệm bị kích thích. Hầu hết những ca trầm cảm nặng đều có tiền căn là những cơn trầm cảm nhẹ hơn mà hầu như đã không được để ý tới hoặc đơn giản là không được lý giải. Dĩ nhiên là nhiều người chưa bao giờ trải qua trầm cảm đều có những trải nghiệm mà về sau này khi nhìn nhận lại sẽ được xem như là những cơn trầm cảm tiền căn nếu như chúng có dẫn tới bất cứ điều gì, và chúng không hề tồn tại trong ký ức là bởi vì ta không thể cụ thể hóa những gì mà chúng có thể báo trước.
Tôi sẽ không kể chi tiết về việc mọi thứ đã sụp đổ như thế nào bởi vì với những người đã từng biết đến chứng bệnh có tính tàn phá này thì điều đó là vô cùng rõ ràng và với những người chưa từng mắc phải nó thì căn bệnh vẫn luôn là thứ gì đó không thể giải nghĩa nổi như hồi tôi hai mươi nhăm tuổi vậy. Chỉ cần nói rằng lúc ấy mọi chuyện thật khủng khiếp. Năm 1991, mẹ tôi qua đời. Bà năm mươi tám tuổi. Tôi buồn tê tái. Bất kể bao nhiêu nước mắt đã tuôn rơi và nỗi đau đớn khôn cùng, bất kể sự ra đi của người mà ta vẫn hằng lệ thuộc vào, tôi khá ổn sau cái chết của mẹ. Tôi buồn và tôi tức giận, nhưng tôi không phát điên.
Mùa hè đó, tôi bắt đầu trị bệnh bằng phân tâm học. Tôi nói với bác sĩ trị liệu cho tôi rằng tôi cần có một lời hứa trước khi tôi có thể bắt đầu, tôi muốn bà ấy hứa rằng sẽ không dừng lại cho tới khi chúng tôi hoàn thành việc phân tích, bất kể có điều gì xảy ra đi nữa, trừ khi sức khỏe của bà không cho phép. Khi ấy bà đã gần bước sang tuổi bảy mươi. Bà đồng ý với tôi. Bà ấy là một người phụ nữ thông thái và duyên dáng làm tôi nhớ đến mẹ của mình. Tôi dựa dẫm vào cuộc hẹn hàng ngày của chúng tôi để kiềm chế nỗi đau khổ trong mình.
Đầu năm 1992, tôi phải lòng một người con gái gái thông minh, xinh đẹp, hào phóng, tử tế, và luôn xuất hiện thật tuyệt vời trong mọi mối giao thiệp của chúng tôi, nhưng đồng thời cũng là người cực kỳ khắt khe. Chúng tôi đã có một mối quan hệ dữ dội nhưng cũng thường hạnh phúc. Cô ấy mang thai vào mùa thu năm 1992 và buộc phải từ bỏ cái thai trong bụng, điều đó mang lại cho tôi cái cảm giác bất ngờ về sự mất mát. Cuối năm 1993, một tuần trước ngày sinh nhật thứ ba mươi của tôi, chúng tôi đồng ý chia tay trong đau đớn. Tôi rơi vào một cơn suy sụp khác.
Tháng 3 năm 1994, bác sĩ tâm lý của tôi nói với tôi rằng bà quyết định nghỉ hưu bởi vì việc đi lại giữa ngôi nhà của bà ở Princeton tới New York đã trở nên thật khó khăn. Tôi đã cảm thấy giữa chúng tôi không có được sự kết nối và đã từng cân nhắc đến việc chấm dứt điều trị; tuy nhiên, khi bà thông báo với tôi tin này, bỗng nhiên tôi bật khóc nức nở suốt một giờ liền. Tôi thường không khóc nhiều; tôi đã không khóc như vậy kể từ khi mẹ mất. Tôi cảm thấy cô đơn khủng khiếp và hoàn toàn bị phản bội. Chúng tôi có vài tháng (bà ấy không chắc là bao lâu; hóa ra là hơn một năm) để kết thúc việc điều trị trước khi bà nghỉ.
Cuối tháng đó, tôi phàn nàn với bác sĩ tâm lý về cảm giác mất mát, một sự chết lặng, đã tiêm nhiễm tới mọi mối quan hệ của tôi với người khác. Tôi chẳng màng đến yêu đương; đến công việc; đến gia đình; đến bạn bè. Việc viết lách của tôi trở nên trì trệ, rồi ngưng hẳn. “Tôi chẳng biết điều chi,” họa sĩ Gerhard Richter từng viết. “Tôi chẳng làm được việc gì. Tôi chẳng hiểu được điều gì. Tôi chẳng biết tới điều gì. Không gì cả. Và tất cả những khổ sở này thậm chí còn chẳng thể khiến tôi đau khổ.” Và cả tôi nữa cũng nhận ra rằng tất cả những cảm xúc mạnh mẽ đều đã ra đi, ngoại trừ nỗi lo lắng dai dẳng nhất định. Tôi vẫn luôn có một ham muốn tình dục mạnh mẽ mà thường dẫn tôi đến nhiều rắc rối; nay nó dường như đã bốc hơi. Tôi không hề cảm thấy nỗi khát khao quen thuộc về sự thân mật thể xác hay cảm xúc và chẳng hề bị hấp dẫn bởi những con người tôi gặp trên phố hay trước những người mà tôi đã biết và yêu; trong những lúc ân ái, tâm trí tôi cứ trôi dạt về mấy cái danh sách mua hàng và những việc tôi cần phải làm. Điều ấy khiến tôi cảm thấy rằng tôi đang đánh mất chính mình, và nó làm tôi hoảng hốt. Tôi đi đến quyết định lên lịch cho những khoái lạc của đời mình. Trong suốt mùa xuân năm 1994, tôi tới các bữa tiệc và cố gắng và thất bại trong việc tìm kiếm niềm vui; tôi gặp những người bạn và cố gắng và thất bại trong việc kết nối với họ; tôi mua những món đồ đắt đỏ mà tôi từng muốn sở hữu trong quá khứ và chẳng thu được một chút thỏa mãn nào từ chúng; và tôi ép mình vào những thái cực chưa từng có trước đây để đánh thức hứng thú tình dục trong mình, tôi xem những bộ phim khiêu dâm và cực đoan hơn cả là mua dâm. Tôi không những cảm thấy vô cùng hoảng sợ trước các hành vi mới này, mà tôi cũng chẳng thể có được bất kỳ sự thỏa mãn, hay sự khuây khỏa nào, từ đó. Bác sĩ của tôi và tôi cùng phân tích về tình huống này: tôi đã bị trầm cảm. Chúng tôi cố gắng tìm đến gốc rễ của vấn đề trong khi tôi cảm thấy sự xa cách đang dần dần tăng lên. Tôi bắt đầu phàn nàn rằng tôi cảm thấy bị nhấn chìm trong những tin nhắn trong hộp thoại của mình và tôi cứ khăng khăng vềs điều đó: tôi thấy những cuộc gọi, thường là của bạn bè, như một thứ gánh nặng không thể chịu đựng nổi. Mỗi khi tôi trả lời một cuộc gọi, nhiều cuộc gọi khác sẽ đổ vào. Tôi cũng bắt đầu sợ hãi cả việc lái xe. Khi tôi lái xe vào buổi tối, tôi chẳng thể nhìn rõ đường, và mắt tôi khô khốc. Tôi thường nghĩ tôi sẽ lạc tay lái mà đâm vào giải phân cách hoặc lao vào một chiếc xe khác. Nhiều khi tôi đang đi giữa đường cao tốc và bỗng nhiên tôi nhận ra rằng tôi chẳng biết phải lái xe như thế nào nữa. Trong cơn khiếp đảm, tôi sẽ đánh xe vào lề đường và đổ mồ hôi lạnh. Tôi bắt đầu dành những cuối tuần ở trong thành phố để tránh phải lái xe. Bác sĩ và tôi lục lại quá khứ của những buồn bã lo âu trong tôi. Hóa ra mối tình giữa tôi và bạn gái kết thúc là bởi vì một giai đoạn trầm cảm sớm, mặc dù tôi biết rằng có thể việc kết thúc mối quan hệ này cũng là nguyên nhân dẫn đến trầm cảm. Khi tôi xoáy sâu vào đầu mối này, tôi tiếp tục tìm ra những điểm khởi đầu khác của trầm cảm: kể từ cuộc chia tay; kể từ cái chết của mẹ; kể từ khi mẹ bắt đầu bị bệnh trong suốt hai năm trời; kể từ khi kết thúc mối quan hệ trước đó nữa; kể từ hồi dậy thì; kể từ lúc sinh ra. Rồi ngay sau đó, tôi chẳng thể nghĩ tới một thời điểm hay một hành vi nào mà lại không dẫn tới một triệu chứng. Dẫu vậy, những gì tôi trải qua chỉ là chứng trầm cảm loạn thần kinh (neurotic depression), gây ra bởi nỗi buồn rầu lo lắng, chứ chẳng bởi vì điên. Nó có vẻ như nằm trong sự kiểm soát của tôi; nó là một phiên bản kéo dài của thứ mà tôi từng phải chịu đựng trước đó, một thứ gì đó quen thuộc ở cấp độ này hay cấp độ khác với những người khỏe mạnh. Trầm cảm diễn ra cũng từ từ như là sự trưởng thành.
Vào tháng Sáu năm 1994, tôi bắt đầu cảm thấy chán chường. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của tôi được phát hành ở Anh, và sự yêu thích của công chúng dành cho nó chẳng có mấy ý nghĩa với tôi. Tôi đọc những bài bình luận một cách thờ ơ và cảm thấy mệt vào mọi lúc. Đến tháng Bảy, tôi quay về nhà ở New York. Tôi cảm thấy bị đọa đầy với những sự kiện xã hội, cho dù đó chỉ là những cuộc trò chuyện. Nó có vẻ như đòi hỏi nhiều nỗ lực hơn hẳn so với những giá trị mà nó mang lại. Tàu điện ngầm trở nên không thể chịu nổi. Bác sĩ tâm lý của tôi, lúc này vẫn chưa nghỉ hưu, nói rằng tôi đang trải qua một cơn trầm cảm nhẹ. Chúng tôi thảo luận về những nguyên nhân, như thể gọi tên của con quái vật có thể sẽ thuần hóa được nó. Tôi biết quá nhiều người và làm quá nhiều việc; tôi nghĩ rằng có lẽ tôi nên cố gắng buông bỏ.
Cuối tháng Tám, tôi bị sỏi thận, một chứng bệnh từng xảy ra với tôi trước đó. Tôi gọi cho bác sĩ riêng, người hứa rằng sẽ báo với bệnh viện và tôi sẽ được đưa thẳng tới phòng cấp cứu. Tuy nhiên, khi tôi tới bệnh viện, dường như không có ai nhận được thông báo. Cơn đau nơi túi mật vô cùng kinh khủng, và trong khi tôi ngồi đợi, cứ như thể có ai đó, đã nhúng hệ thần kinh trung ương của tôi vào dung dịch acid, khiến các dây thần kinh bong tróc đến tận lõi. Dù tôi có trình bày về cơn đau của mình rất nhiều lần cho rất nhiều người, chẳng một ai làm gì hết cả. Và rồi có thứ gì đó dường như chộp lấy tôi. Đứng giữa phòng cấp cứu của Bệnh viện New York, tôi bắt đầu la hét. Họ tiêm một mũi morphine vào tay tôi. Cơn đau dịu đi. Rồi ngay sau đó, nó quay trở lại: tôi cứ ra vào viện suốt năm ngày, tôi được đặt ống thông bốn lần; cuối cùng, tôi được kê liều morphine tối đa cho phép, được bổ sung bằng cách tiêm Demerol cứ sau vài giờ. Tôi được thông báo rằng những viên sỏi của tôi không rõ hình và vì thế mà tôi không phải là một ứng viên cho phương pháp tán sỏi thận qua da, một phương pháp giúp loại bỏ chúng nhanh chóng. Có thể tiến hành phẫu thuật nhưng cách này gây đau đớn và có thể sẽ nguy hiểm đến tính mạng. Tôi không muốn làm phiền đến cha mình, lúc này đang đi nghỉ ở Maine; giờ thì tôi muốn liên lạc với ông, bởi vì ông biết rõ bệnh viện này từ những ngày mẹ tôi còn điều trị ở đó, và có thể giúp sắp xếp mọi việc. Ông dường như không hề lo lắng. “Sỏi thận, sẽ khỏi thôi, cha đảm bảo là con sẽ không sao đâu, và cha sẽ gặp lại con khi cha về tới nhà,” ông nói. Trong khi ấy, tôi không ngủ quá ba tiếng mỗi đêm. Tôi đang thực hiện một dự án lớn, một bài báo về những chính trị gia khiếm thính, và trong một trạng thái đờ đẫn tôi đã làm việc với những người xác minh dữ kiện và các biên tập viên. Tôi cảm thấy đã để tuột mất sự kiểm soát cuộc đời của chính mình. “Nếu như cơn đau này không dừng lại,” tôi nói với một người bạn, “thì tôi sẽ tự sát.” Trước đây tôi không bao giờ nói thế.
Khi rời khỏi bệnh viện, lúc nào tôi cũng sợ hãi. Cả cơn đau và thuốc giảm đau đều khiến tinh thần tôi suy yếu. Tôi biết rằng viên sỏi thận vẫn còn đấy và rằng tôi có thể sẽ bị tái phát bất cứ lúc nào. Tôi sợ hãi khi phải ở một mình. Tôi cùng một người bạn trở về căn hộ của mình, thu dọn đồ đạc, và rời đi. Đó là một tuần lễ phiêu bạt; tôi chuyển từ nhà người này sang nhà người khác. Hầu hết những người bạn ấy đều phải đi làm vào ban ngày, và tôi sẽ ở trong nhà họ, tránh xa phố phường, chú ý để không rời điện thoại quá xa. Tôi vẫn tiếp tục uống thuốc giảm đau phòng bệnh và cảm thấy mình có lẽ hơi điên. Tôi tức giận với cha mình, tức giận một cách vô lý, ngang ngạnh, cáu bẳn. Cha xin lỗi vì điều mà tôi gọi là thái độ vô tâm của ông và cố gắng giải thích với tôi rằng ông chỉ muốn bày tỏ sự nhẹ nhõm của mình trước việc tôi không mắc phải một căn bệnh chết người. Ông nói rằng ông đã tin vào khả năng chịu đựng khổ sở tương đối của tôi trong điện thoại. Tôi rơi vào một cơn cuồng loạn khiến tôi chẳng thể suy nghĩ được điều gì. Tôi từ chối nói chuyện với ông hoặc báo cho ông biết nơi tôi đang ở. Lúc này hay lúc khác tôi sẽ gọi điện và để lại tin nhắn trong hộp thoại của ông: “Con ghét cha và con ước gì cha chết đi” thường là câu mở đầu của những lời nhắn này. Thuốc ngủ giúp tôi vượt qua những đêm này. Tôi bị tái phát nhẹ một lần và phải quay lại bệnh viện; chẳng có gì nghiêm trọng, nhưng nó khiến tôi sợ chết khiếp. Ngẫm lại, tôi có thể nói rằng đó là tuần lễ mà tôi thực sự đã phát điên.
Cuối tuần đó, tôi tới Vermont để dự đám cưới của mấy người bạn. Đó là một cuối tuần đẹp trời vào lúc cuối hè. Tôi gần như đã hủy bỏ chuyến đi, nhưng sau khi có được thông tin chi tiết về bệnh viện nằm gần nơi tổ chức đám cưới, tôi quyết định cố gắng thực hiện nó. Tôi đến nơi vào thứ Sáu vừa đúng giờ tiệc tối và khiêu vũ (tôi không tham gia khiêu vũ), và tôi nhìn thấy một người quen sơ hồi đại học vào mười năm trước. Chúng tôi nói chuyện, và tôi cảm thấy như thể mình đã trải qua nhiều cảm xúc hơn cả mấy năm qua. Tôi thấy bản thân mình tỏa sáng; tôi thấy ngây ngất và không hiểu được tại sao lại không có điều tốt đẹp nào nảy sinh từ đó. Tôi rơi từ cảm xúc này sang cảm xúc khác theo một cách gần như vô lý.
Sau đám cưới ở Vermont, sự trượt dốc trở nên ổn định hơn. Tôi làm việc ngày càng ít đi và kém hiệu quả hơn. Tôi hủy bỏ kế hoạch đi Anh để dự một đám cưới khác, cảm thấy rằng chuyến đi ấy vượt quá sức của tôi, mặc dù, chỉ một năm trước đó, tôi đi London thường xuyên mà chẳng gặp mấy khó khăn. Tôi bắt đầu cảm thấy rằng không ai có thể yêu được tôi và rằng tôi sẽ chẳng bao giờ yêu được nữa. Tôi không còn một chút cảm giác ham muốn nào nữa cả. Tôi bắt đầu ăn uống thất thường bởi vì hiếm khi tôi cảm thấy đói. Bác sĩ tâm lý của tôi nói rằng đó vẫn là dấu hiệu của sự trầm cảm, và tôi cảm thấy mệt mỏi với cái từ ấy và mệt mỏi với cả vị bác sĩ. Tôi nói rằng tôi không điên nhưng sợ rằng có thể tôi sẽ phát điên và theo bà tôi có phải dùng thuốc chống trầm cảm hay không, và bà ấy bảo với tôi rằng tránh sử dụng thuốc là một điều dũng cảm và rằng chúng tôi có thể giải quyết được mọi việc. Cuộc nói chuyện ấy là điều cuối cùng mà tôi là người khởi xướng; đó là những cảm xúc cuối cùng mà tôi có được trong suốt một thời gian dài.
Chứng trầm cảm điển hình có một số yếu tố xác định – thường liên quan tới sự tự thu mình lại, mặc dù trầm cảm kích động (agitated depression) và trầm cảm không điển hình[2] (atypical depression) có thể sẽ có nét tiêu cực mãnh liệt hơn so với hơi hướng thụ động - và thường khá dễ nhận ra; nó làm xáo trộn giấc ngủ, sự thèm ăn, và mức năng lượng trong cơ thể. Nó có khuynh hướng làm tăng độ nhạy cảm trước sự cự tuyệt, và nó có thể đi cùng với việc mất đi sự tự tin hoặc tự trọng. Nó dường như phụ thuộc vào cả chức năng của vùng dưới đồi (mà kiểm soát giấc ngủ, sự thèm ăn, và năng lượng) lẫn chức năng của vỏ não (giúp diễn giải các trải nghiệm thành triết lý sống và thế giới quan). Cơn trầm cảm diễn ra như một phương diện của chứng bệnh hưng trầm cảm (maniac depressive) (hay rối loạn lưỡng cực – bipolar) bị ảnh hưởng bởi tính di truyền (khoảng 80 phần trăm) nhiều hơn nhiều so với bệnh trầm cảm thông thường (khoảng 10 đến 50 phần trăm); mặc dù dạng bệnh này được điều trị rộng rãi hơn, nhưng việc kiểm soát nó lại không hề dễ dàng hơn, đặc biệt là khi các loại thuốc chống trầm cảm có thể khởi phát cơn hưng cảm. Nguy hiểm lớn nhất ở chứng bệnh hưng trầm cảm là đôi khi nó bùng lên ở những trạng thái hỗn hợp, mà một trong số đó là hưng trầm cảm – đầy những cảm giác tiêu cực và phóng đại về chúng. Đây chính là điều kiện tiên quyết dẫn đến hành vi tự tử, và nó cũng có thể bị gây ra bởi việc sử dụng các loại thuốc chống trầm cảm không có chất ổn định tâm trạng (là một phần thiết yếu của thuốc chống rối loạn lưỡng cực). Trầm cảm có thể làm kiệt sức hoặc là không điển hình/ kích động. Ở dạng đầu, bạn cảm thấy không muốn làm gì cả; ở dạng sau, bạn cảm thấy muốn tự sát. Một cơn suy sụp tinh thần là một giao điểm vào trong sự điên loạn. Đó là, ở đây ta hãy mượn một phép ẩn dụ từ trong thế giới vật chất, một hoạt động không điển hình của vật chất được xác định bởi các biến ẩn. Đó cũng còn là một kết quả cộng dồn: dù cho bạn có thấy được chúng hay không, những yếu tố dẫn đến một cơn suy sụp tinh thần sẽ được tập hợp qua nhiều năm, thường là trong suốt cuộc đời. Chẳng cuộc đời nào mà lại không có sự hiện diện của nỗi thất vọng, nhưng một số người thì tiến quá gần tới mép vực trong khi những người khác lại có thể xoay xở để đôi khi chỉ rơi vào nỗi buồn ở một vị trí an toàn cách xa bờ vực. Một khi bạn bước qua cái ranh giới an toàn đó, mọi quy tắc đều thay đổi. Mọi thứ được viết ra bằng tiếng Anh thì giờ đây trở thành tiếng Trung; mọi thứ diễn ra nhanh chóng thì giờ đây trở nên chậm chạp; giấc ngủ nghĩa là sự rõ ràng trong khi thức giấc lại là một chuỗi những hình ảnh rời rạc, vô nghĩa. Các cảm giác sẽ dần dần rời bỏ bạn trong cơn trầm cảm. “Sẽ có thời điểm bỗng nhiên bạn có thể cảm thấy được các hóa chất,” Mark Weiss, một người bạn bị trầm cảm từng nói với tôi như vậy. “Nhịp thở của tôi thay đổi và hơi thở của tôi trở nên khó chịu. Nước tiểu của tôi có mùi tởm lợm. Khuôn mặt tôi vỡ vụn ra trong gương. Tôi biết khi nào thì nó xuất hiện.”
--------------------------------
[1] Édith Giovanna Gassion, thường được biết đến với nghệ danh Édith Piaf và trước đó là La Môme Piaf (19/12/1915 – 10/10/1963) là nữ ca sĩ huyền thoại của Pháp thế kỷ 20. Édith Piaf được biết tới qua rất nhiều bài hát nổi tiếng như La Vie en rose, Non, je ne regrette rien, Hymne à l'amour, Mon légionnaire hay Milord. Bà còn là một diễn viên sân khấu và điện ảnh cũng như là người đỡ đầu cho nhiều ca sĩ mới mà sau đó đã trở thành ngôi sao của ca nhạc Pháp như Yves Montand và Charles Aznavour.
[2] trầm cảm không điển hình (atypical depression): các dấu hiệu và triệu chứng đặc trưng bao gồm quá phấn khích với các sự kiện mang tính tích cực, tăng cảm giác thèm ăn gây ra tăng cân, ngủ nhiều hơn, thường trên 10 giờ một ngày, nhạy cảm với lời phê bình, gây ảnh hưởng đến mối quan hệ, công việc và hoạt động xã hội.
Vào năm tôi ba tuổi, tôi quyết định rằng tôi muốn trở thành một nhà văn. Kể từ đó, tôi vẫn luôn mong đợi được xuất bản cuốn tiểu thuyết của mình. Khi tôi ba mươi, cuốn tiểu thuyết đầu tay của tôi được phát hành, và tôi đã lên lịch cho một chương trình giao lưu đọc sách, và tôi ghét cay ghét đắng cái ý tưởng ấy. Một người bạn thân tình nguyện tổ chức một bữa tiệc đọc sách cho tôi vào ngày 11 tháng Mười. Bình thường tôi rất thích tiệc tùng và tôi yêu sách, và tôi biết rằng mình nên thấy phấn khích trước điều này, nhưng thực tế tôi lại quá đỗi lờ đờ để gửi lời mời tới nhiều người, và quá mệt để có thể đứng lâu trong suốt bữa tiệc. Các chức năng ghi nhớ và cảm xúc được thực hiện thông qua bộ não, nhưng thùy trán và hệ viền là chìa khóa dẫn tới cả hai điều này, và khi ta tác động đến hệ viền, mà kiểm soát các cảm xúc, thì ta cũng sẽ tác động đến trí nhớ. Tôi chỉ nhớ được về bữa tiệc đó với những đường nét hư ảo và những màu sắc nhạt nhòa: thức ăn màu xám, con người màu be, ánh đèn mờ đục trong những căn phòng. Tôi nhớ được rằng tôi đổ mồ hôi như tắm trong suốt buổi tiệc, và tôi chỉ mong được rời đi. Tôi cố gắng giải nghĩa về tất cả những điều này là bởi vì sự căng thẳng. Tôi quyết tâm, bằng mọi giá, phải giữ vững thể diện, một sự thôi thúc hiệu quả đối với tôi vào thời điểm đó. Tôi đã làm được: không một ai để ý thấy có điều gì bất thường. Tôi đã vượt qua được tối đó.
Khi về đến nhà vào đêm đó, tôi bắt đầu cảm thấy sợ hãi. Tôi nằm trên giường, không ngủ, ôm chặt chiếc gối của mình để cảm thấy dễ chịu hơn. Hai tuần rưỡi sau đó, sự việc ngày một tệ hơn. Ngay trước sinh nhật lần thứ ba mươi mốt của tôi, tôi hoàn toàn suy sụp. Toàn bộ cơ thể tôi dường như sụp đổ. Khi ấy tôi không chịu rời khỏi nhà với ai hết. Cha tôi xung phong tổ chức một bữa tiệc sinh nhật cho tôi, nhưng tôi không thể chịu được cái ý tưởng ấy, và chúng tôi đồng ý rằng thay vì vậy chúng tôi sẽ tới một nhà hàng yêu thích cùng với bốn người bạn thân thiết nhất của tôi. Vào ngày trước ngày sinh nhật, tôi chỉ rời nhà có một lần, để mua một ít nhu yếu phẩm cần thiết. Trên đường từ cửa hàng về nhà, tôi bỗng nhiên mất kiểm soát phần ruột dưới và tự làm bẩn mình. Tôi có thể cảm thấy vết bẩn lan ra khi tôi vội vã về nhà. Về tới nhà, tôi thả túi đồ xuống, chạy vội vào phòng tắm, thay đồ, và lên giường nằm.
Đêm ấy tôi không ngủ mấy, và tôi chẳng thể thức dậy vào sáng ngày hôm sau. Tôi biết rằng tôi sẽ chẳng thể tới được nhà hàng nào hết cả. Tôi muốn gọi cho các bạn và hủy cuộc hẹn, nhưng mà tôi không thể. Tôi nằm yên trên giường và nghĩ đến việc nói, cố gắng tìm cách để làm điều đó. Tôi chuyển động đầu lưỡi nhưng chẳng có âm thanh nào phát ra. Tôi đã quên mất cách nói chuyện. Rồi tôi bắt đầu khóc, nhưng chẳng có nước mắt, chỉ có tiếng thở nặng nề. Tôi nằm ngửa. Tôi muốn xoay người, nhưng tôi cũng chẳng thể nhớ ra được cách để làm điều đó. Tôi cố gắng suy nghĩ về nó, nhưng cái phần việc ấy dường như quá đỗi gian nan. Tôi nghĩ rằng có thể tôi đã bị đột quỵ, và rồi tôi lại khóc mất một lúc. Vào khoảng ba giờ chiều, tôi cố gắng rời giường và đi vào phòng tắm. Tôi run rẩy quay trở lại giường. Thật may mắn làm sao, cha lại gọi cho tôi. Tôi trả lời điện thoại. “Cha phải hủy bữa tối nay thôi,” tôi nói với ông, giọng tôi run rẩy. “Sao thế con?” ông cứ hỏi tôi, nhưng tôi nào có biết.
Có một thời điểm, nếu như bạn vấp chân hoặc trượt ngã, trước khi bạn kịp chống tay để ngăn cú ngã lại, khi mà bạn cảm thấy mặt đất đang lao về phía mình và bạn chẳng thể làm được điều gì để ngăn nó lại, bạn sẽ cảm thấy một nỗi kinh hoàng trong khoảng một giây. Tôi đã cảm thấy như thế hết giờ này qua giờ khác. Trở nên lo lắng ở một mức độ cực đoan như thế này quả thật là kỳ lạ. Bạn cảm thấy vào mọi lúc rằng bạn muốn làm một điều gì đó, rằng có một số tác động không có nghĩa lý gì đối với bạn, rằng có một nhu cầu cấp bách và khó chịu khôn cùng mà không thể giải tỏa nổi của cơ thể, như thể dạ dày bạn đang liên tục co thắt trong cơn nôn mửa nhưng bạn lại không có miệng để mà nôn ra. Với cơn trầm cảm, tầm nhìn của bạn thu hẹp và bắt đầu đóng lại; cứ như thể bạn đang cố gắng xem TV qua một màn hình nhiễu khủng khiếp, khi mà bạn chỉ có thể nhìn thấy những hình ảnh thật mù mờ; khi mà bạn chẳng thể nhận rõ mặt người, trừ khi ở thật gần; khi mà chẳng có gì mang một đường nét rõ ràng. Không khí có vẻ đặc quánh lại, như thể chứa đầy thứ cháo đặc sệt. Bị trầm cảm giống như là bị mù vậy, lúc ban đầu bóng tối dần buông xuống, rồi bao phủ trọn vẹn; giống như là bị điếc, nghe được ngày càng ít hơn cho tới khi một sự im lặng khủng khiếp bao trùm lấy bạn, cho tới khi bạn chẳng thể phát ra một âm thanh nào nhằm phá vỡ sự yên lặng này. Nó có cảm giác như thể quần áo của bạn dần dần biến thành gỗ trên cơ thể bạn, một sự cứng ngắc nơi khuỷu tay và đầu gối dần biến thành một sức nặng khủng khiếp và sự cô lập bất động sẽ làm bạn héo mòn và vào một lúc nào đó sẽ hủy hoại bạn.
Cha đến nhà của tôi cùng với một người bạn của tôi, cùng với cả em trai và vị hôn thê của cậu ấy. Thật may, cha tôi có sẵn chiều khóa nhà. Suốt hai ngày tôi chưa ăn gì, và họ cố cho tôi ăn một ít súp. Mọi người nghĩ rằng tôi hẳn phải bị nhiễm một thứ virus gì kinh khủng lắm. Tôi ăn một thìa rồi nôn thốc ra khắp người mình. Tôi không thể ngừng khóc. Tôi căm ghét ngôi nhà này nhưng chẳng thể rời đi. Ngày hôm sau, bằng cách nào đó, tôi cũng cố tới được văn phòng của bác sĩ tâm lý. “Tôi nghĩ rằng tôi cần phải uống thuốc thôi,” tôi nói, nhấn mạnh những lời ấy. “Tôi rất tiếc,” bà ấy nói, và gọi cho một nhà tâm thần dược học, người đồng ý sẽ gặp tôi sau một giờ nữa. Cuối cùng bà ấy, dù rất chậm trễ, cũng nhận ra rằng chúng tôi cần phải gọi giúp đỡ. Theo lời của một nhà phân tích tâm lý mà tôi biết, vị cấp trên của của ông ấy kể rằng vào những năm 1950, nếu như anh muốn bắt đầu cho một bệnh nhân dùng thuốc, thì anh cần phải dừng việc phân tích tâm lý lại. Phải chăng chính sự nệ cổ ấy đã cho phép bác sĩ tâm lý của tôi khuyến khích tôi tránh xa việc dùng thuốc? Hay là bà đã quá tin vào cái vẻ bề ngoài mà tôi cố gắng duy trì? Tôi không biết được.
Nhà tâm thần dược học như thể vừa bước ra từ một bộ phim về quá khứ: văn phòng của ông có giấy dán tường màu vàng mù tạt nhạt in hình những chiếc bánh nướng và hàng chồng sách với những tựa đề như Addicted to Misery[1] và Suicidal Behavior: The Search for Psychic Economy[2]. Ông ấy tầm bảy mươi tuổi, hút xì gà, có chất giọng của người Trung Âu, và mang dép đi trong nhà. Ông có lối cư xử lịch lãm của thời tiền chiến và một nụ cười tử tế. Ông hỏi nhanh tôi một loạt các câu hỏi – tôi cảm thấy gì vào buổi sáng và buổi chiều? Tôi thấy khó khăn như thế nào với việc có thể cười trước một điều gì đó? Tôi có biết là tôi sợ hãi điều gì không? Liệu giấc ngủ của tôi có bị gián đoạn và cơn thèm ăn của tôi có thay đổi không? – và tôi cố gắng hết mức có thể để trả lời các câu hỏi của ông. “Ôi chà,” ông bình tĩnh nói khi tôi thổ lộ nỗi sợ hãi của mình. “Thực ra là rất bình thường. Cậu đừng lo lắng, chúng ta sẽ khiến cậu nhanh chóng bình phục.” Ông kê đơn thuốc với Xanax, rồi cân nhắc một chút và ghi ra Zoloft. Ông hướng dẫn tôi về việc sử dụng các loại thuốc. “Cậu hãy quay lại đây vào ngày mai nhé,” ông mỉm cười. “Thuốc Zoloft đôi khi không hiệu quả. Xanax sẽ làm dịu sự lo lắng của cậu ngay lập tức. Đừng lo về khả năng gây nghiện của nó hay những điều tương tự, vì đó không phải là vấn đề của cậu vào lúc này. Khi mà ta đã phần nào xua đi được nỗi bất an, ta sẽ thấy rõ được chứng trầm cảm hơn và sẽ tập trung vào nó. Đừng lo, cậu có nhóm triệu chứng rất điển hình.”
Ngày đầu tiên dùng thuốc, tôi chuyển tới ở cùng cha. Khi ấy cha tôi đã gần bảy mươi tuổi, và hầu hết đàn ông ở cái lứa tuổi ấy không thể dễ dàng chịu đựng những thay đổi hoàn toàn trong cuộc sống. Cha của tôi không chỉ xứng đáng được ca ngợi vì sự hi sinh cao cả của ông, mà còn bởi sự linh hoạt trong tâm trí và tinh thần đã cho phép ông tìm ra cách để làm chỗ dựa tinh thần cho tôi trong những thời điểm khó khăn, và cả bởi sự dũng cảm đã giúp ông trở thành chỗ dựa tinh thần cho tôi nữa. Ông tới đón tôi ở phòng khám và đưa tôi về nhà. Tôi không mang theo quần áo sạch để thay, nhưng tôi thật sự không cần tới chúng vì suốt một tuần sau đó tôi hiếm khi nào rời khỏi giường. Vào thời điểm ấy, hoảng loạn là thứ cảm giác duy nhất mà tôi có. Xanax sẽ giúp đẩy lùi cơn hoảng loạn nếu như tôi uống đủ liều, nhưng đủ liều của thứ thuốc ấy cũng đủ để khiến tôi hoàn toàn rơi vào giấc ngủ trầm, hỗn loạn, mơ nhiều. Những ngày ấy diễn ra như thế này: tôi thức dậy, biết rằng tôi đang trải qua sự hoảng loạn tột độ. Tất cả những gì tôi muốn chỉ là uống đủ thuốc chống hoảng loạn để tôi có thể quay trở lại với giấc ngủ, và rồi tôi muốn ngủ cho tới tận khi tôi khỏe lại. Khi tôi thức dậy vào vài giờ sau đó, tôi lại muốn dùng thêm thuốc ngủ. Việc tự sát, cũng giống với việc tự mặc đồ, là quá đỗi phức tạp để đưa vào tâm trí tôi; tôi không dành hàng giờ để nghĩ về việc tôi có thể làm điều đó như thế nào. Tất cả những gì tôi muốn ở “nó” là dừng lại; tôi thậm chí còn chẳng thể nói rõ “nó” là cái gì. Tôi không thể nói nhiều; các từ ngữ, vốn là điều quá đỗi quen thuộc với tôi, dường như bỗng nhiên trở thành phép ẩn dụ vô cùng phức tạp, khó hiểu khiến cho việc sử dụng chúng đòi hỏi nhiều năng lượng hơn so với mức mà tôi có thể gom góp được. “Chứng bệnh u sầu dẫn đến việc mất đi ý nghĩa … tôi trở nên câm lặng và tôi chết,” Julia Kristeva[3] từng viết. “Những kẻ mắc chứng u sầu là những kẻ ngoại quốc trong thứ ngôn ngữ mẹ đẻ của chính mình. Thứ ngôn ngữ chết mà họ nói phủ bóng đen lên sự tự vẫn của họ.” Trầm cảm, cũng giống như tình yêu, chứa đựng những điều sáo rỗng, và rất khó để nói về nó mà không rơi vào lối sử dụng những câu chữ hoa mỹ bóng bẩy; nó sống động đến mức thật khó tin khi biết rằng những người khác không có chút khái niệm gì về điều tương tự. Có lẽ ngòi bút của Emily Dickinson là hùng hồn nhất khi viết về cơn suy sụp tinh thần:
Trí óc tôi như có một đám tang[4]
Những người Khóc than đi tới đi lui
Giậm chân—không ngừng—cho tới lúc
Cảm giác ấy vỡ vụn—
Rồi khi tất cả họ đã ngồi xuống,
Buổi Lễ, như một hồi Trống—
Dội mãi—không ngừng—cho tới lúc
Tôi tưởng Tâm trí mình tê liệt—
Rồi sau đó tôi nghe tiếng họ khiêng Hòm
Kẽo kẹt xuyên qua Linh hồn tôi
Vẫn những gót giầy đóng cá ấy,
Rồi Không gian—bắt đầu ngân vang,
Như mọi Tầng Trời là một quả Chuông,
Và Hiện hữu, chỉ là một Vành Tai,
Và tôi, chạy đua cùng Im Lặng, lạ lùng thay
Như thuyền đắm, cô độc, ngay đây—
Rồi một mạn thuyền Lí trí bục vỡ
Tôi rơi xuống, chìm nghỉm—
Vùng vẫy đâu cũng đập phải một Cõi,
Và rồi —không còn biết gì nữa—
Có rất ít bài viết về thực tế rằng những cơn suy sụp tinh thần là hoàn toàn trái với lẽ thường; trong quá trình tìm kiếm chân giá trị cho chính mình, và tìm kiếm để đề cao sự đau khổ của những người khác, một người có thể dễ dàng bỏ sót thực tế này. Tuy nhiên, điều này lại trở nên thật và đúng, và rất đỗi hiển nhiên khi bạn bị trầm cảm. Một phút trong cơm trầm cảm giống như một năm cuộc đời của loài chó, bởi vì ở đó tồn tại một ý niệm không chân thực về thời gian. Tôi vẫn nhớ việc mình nằm bất động trên giường, bật khóc vì quá mức sợ hãi trước việc phải tắm rửa, và cùng lúc cũng biết rằng việc tắm rửa chẳng có gì để mà sợ hãi. Trong tâm trí tôi cứ hiện lên những bước hành động riêng rẽ: mày lật người lại và đặt chân xuống sàn nhà; mày đứng dậy; mày đi từ đây tới phòng tắm; mày mở cửa phòng tắm ra; mày bước tới bên bồn tắm; mày vặn vòi nước; mày xát xà phòng lên người; mày tráng người; mày bước ra khỏi bồn tắm; mày lau người; mày quay về giường. Mười hai bước, mà với tôi dường như còn khó nhọc hơn cả Đàng Thánh Giá[5]. Nhưng tôi biết rằng, về mặt logic, việc tắm gội là một việc đơn giản, rằng suốt nhiều năm tôi đã tắm gội mỗi ngày và rằng tôi đã làm điều này thật chóng vánh và đương nhiên đến nỗi chẳng cần phải bàn luận gì thêm. Tôi biết rằng mười hai bước này là có thể làm được. Tôi biết rằng tôi thậm chí còn có thể nhờ người khác giúp tôi thực hiện một vài bước trong đó. Khi nghĩ vậy tôi cảm thấy nhẹ nhõm hơn hẳn trong giây lát. Một ai đó có thể mở giúp tôi cửa phòng tắm. Tôi biết tôi có thể tự thực hiện hai hoặc ba bước, vì thế với toàn bộ sức lực tồn tại trong cơ thể mình tôi ngồi dậy; tôi xoay người và đặt chân xuống đất; và rồi tôi cảm thấy bất lực và sợ hãi đến nỗi tôi ngã lăn ra và úp mặt xuống giường, chân tôi vẫn còn ở dưới đất. Thi thoảng tôi lại khóc, không chỉ thổn thức về những điều mà tôi không làm nổi, mà còn trước cái thực tế rằng việc tôi không làm được những điều ấy mới xuẩn ngốc làm sao. Trên khắp thế gian này con người ta vẫn thường tắm rửa mỗi ngày. Tại sao, ôi tại sao, tôi lại chẳng thể là một trong số họ? Và rồi tôi sẽ nghĩ ra rằng những con người ấy cũng có gia đình và công việc và tài khoản ngân hàng và hộ chiếu và những dự định ăn tối và những vấn đề, những vấn đề thực thụ, ung thư và nghèo khổ và cái chết của con cái họ và nỗi cô đơn và sự thất bại; và nếu đem so sánh thì tôi gặp phải quá ít vấn đề, ngoại trừ việc tôi không thể lật người lại, cho tới tận vài giờ sau đó, khi mà cha tôi hoặc một người bạn nào đó ghé qua và đặt giúp chân tôi lên giường. Và khi ấy, cái ý tưởng về việc tắm rửa sẽ thành ra thật ngớ ngẩn và thiếu chân thật, và tôi sẽ thấy nhẹ nhõm vì đã có thể đặt lại chân lên giường, và tôi sẽ nằm an toàn trên giường và cảm thấy thật nực cười. Và đôi khi ở một phần yên lặng nào đó bên trong con người tôi có một tiếng cười nho nhỏ trước sự ngớ ngẩn này, và cái khả năng của tôi để thấy được điều đó, tôi nghĩ, chính là điều đã giúp tôi vượt qua được. Trong tận cùng tâm trí tôi luôn có một tiếng nói, rõ ràng và từ tốn, nói rằng, đừng ủy mị như vậy nữa; đừng cường điệu hóa mọi việc lên như thế. Hãy cởi quần áo ra, mặc đồ ngủ vào, lên giường; vào buổi sáng, hãy thức dậy, và làm bất cứ điều gì cần phải làm. Tôi nghe thấy tiếng nói ấy vào mọi lúc, tiếng nói ấy giống như là giọng nói của mẹ. Có một nỗi buồn và nỗi cô đơn khủng khiếp khi tôi ngẫm lại về những thứ đã mất đi. “Liệu có một ai – ngoại trừ nhân viên đầy nhiệt huyết của một trung tâm văn hóa mới mở, mà là bất kỳ ai, kể cả bác sĩ nha khoa của tôi nữa – bận tâm tới việc tôi đã rút khỏi cuộc chơi?” Daphne Merkin[6] viết như vậy trong một bài tự luận về cơn trầm cảm của mình. “Liệu người ta có than khóc vì tôi nếu như tôi không bao giờ trở lại, chẳng bao giờ nữa quay về vị trí của mình?”
Đến tối, tôi đã có thể xuống được giường. Hầu hết cơn trầm cảm đều xuất hiện một lần trong ngày, khá hơn vào thời điểm trong ngày và rồi lại trở nặng vào buổi sáng. Vào bữa tối, tôi cảm thấy không thể ăn nổi, nhưng tôi có thể dậy và ngồi trong bếp cùng với cha mình, người đã hủy bỏ mọi kế hoạch để ở bên tôi. Tôi cũng có thể nói chuyện vào khi ấy. Tôi cố gắng giải thích điều này diễn ra như thế nào. Cha gật đầu, cam đoan với tôi rằng nó sẽ qua đi, và cố ép tôi ăn. Ông cắt nhỏ thức ăn cho tôi. Tôi bảo ông rằng đừng đút cho tôi, tôi không phải là đứa trẻ năm tuổi, nhưng khi tôi không thể dùng nĩa để xiên miếng thịt cừu trong đĩa của mình, ông đã giúp tôi. Trong suốt lúc ấy, ông nhớ lại việc cho tôi ăn hồi tôi còn nhỏ xíu, và ông bắt tôi hứa, đùa thôi, rằng tôi sẽ cắt thịt cừu cho ông khi ông đã già và rụng hết răng. Ông đã liên hệ với vài người bạn của tôi, vài người đã gọi cho tôi, và sau bữa tối tôi cảm thấy đủ khỏe để gọi lại cho họ. Đôi khi, một người sẽ tới thăm sau bữa tối. Lạ thay, tôi thường có thể đi tắm trước khi lên giường đi ngủ! Và kể cả khi vượt qua được sa mạc mà không uống giọt nước nào cũng chẳng thể tuyệt vời hơn cái chiến thắng và sự sạch sẽ ấy. Trước khi ngủ, thuốc Xanax đã phát huy tác dụng nhưng tôi vẫn chưa buồn ngủ, tôi sẽ nói đùa với cha và với các bạn mình về căn bệnh này, và sự thân mật hiếm hoi xoay quanh căn bệnh ấy sẽ khiến nó hiện hữu ở trong căn phòng, và đôi khi tôi lại cảm thấy quá nhiều và lại khóc, và rồi sẽ đến lúc phải tắt đèn, để tôi có thể quay về với giấc ngủ. Đôi khi những người bạn thân thiết sẽ ngồi lại bên tôi cho tới lúc tôi thiếp đi. Một người bạn từng nắm lấy tay tôi trong lúc cô ấy hát một khúc hát ru. Có những tối, cha sẽ đọc cho tôi nghe từ những quyển sách mà ông từng đọc cho tôi hồi tôi còn nhỏ. Tôi sẽ ngăn ông lại. “Hai tuần trước, con vừa mới phát hành cuốn tiểu thuyết của con,” tôi nói. “Con từng làm việc mười hai tiếng liền và tới bốn bữa tiệc trong cùng một buổi tối, vào một số ngày. Có chuyện gì đang xảy ra thế?” Cha sẽ khẳng định với tôi, một cách vui vẻ, rằng tôi sẽ sớm có thể làm được điều đó. Ông cũng sẽ nói với tôi rằng tôi sẽ sớm tự xây được cho mình một chiếc máy bay từ đống bột nhão và dùng nó để bay tới Hải vương tinh, đối với tôi điều ấy rõ ràng đến mức dường như cuộc đời thực của tôi, cái cuộc đời mà tôi từng sống trước đây, đã hoàn toàn chấm dứt. Lúc này hay lúc khác, cơn hoảng loạn sẽ biến mất trong chốc lát. Và một nỗi tuyệt vọng bình thản xuất hiện. Sự không thể giải nghĩa nổi của toàn bộ những điều này đã chối bỏ mọi thứ logic. Thật vô cùng xấu hổ khi phải nói với người khác rằng tôi bị trầm cảm, khi mà cuộc đời tôi dường như có quá nhiều điều tốt đẹp và tình yêu và sự thoải mái về vật chất; với tất cả mọi người ngoại trừ những người bạn thân của tôi, tôi đã viện tới thứ “virus nhiệt đới lạ lùng” rằng tôi “phải gói ghém đồ đạc vào hè năm ngoái và đi du lịch.” Câu hỏi về việc cắt thịt cừu trở thành một biểu tượng đối với tôi. Bạn tôi, nhà thơ Elizabeth Prince, từng viết
Đêm ấy
đã khuya và ẩm ướt: Khi
New York bước vào tháng Bảy
tôi trốn trong phòng mình,
căm ghét sự chịu đựng lặng câm này.
Sau này tôi đọc được miêu tả của Leonard Woolf về bệnh trầm cảm của Virginia[7] trong nhật ký của ông: “Nếu để cô ấy một mình, cô ấy sẽ không ăn uống gì và rồi chết vì đói. Cũng rất nhọc mới có thể khiến cô ấy ăn uống đủ để đảm bảo sức khỏe. Xâm chiếm sự điên rồ của cô ấy thường là cảm giác tội lỗi, thứ bản chất khởi nguyên và chặt chẽ mà tôi không bao giờ có thể phát hiện ra; nhưng nó tác động theo một cách riêng biệt đến thức ăn và việc ăn uống. Ở giai đoạn cấp tính ban đầu, muốn tự sát của chứng trầm cảm, cô ấy sẽ ngồi hàng giờ và chôn mình trong nỗi u sầu tuyệt vọng, yên lặng, không hề phản ứng trước bất kỳ lời nói nào dành cho cô ấy. Khi tới bữa ăn, cô ấy sẽ chẳng để ý đến việc trên đĩa của mình có những thứ gì. Tôi thường có thể khiến cô ấy ăn một lượng nhất định, nhưng đấy là cả một sự chật vật. Mọi bữa ăn đều mất tới một hay hai tiếng; tôi phải ngồi bên cạnh cô ấy, đặt một cái thìa hay cái nĩa vào trong tay cô ấy, và luôn luôn phải nhẹ nhàng yêu cầu cô ấy ăn và cùng lúc chạm vào tay hay cánh tay của cô ấy. Cứ khoảng mỗi năm phút cô ấy sẽ tự động ăn một thìa đầy.”
Khi bị trầm cảm, bạn thường được bảo rằng khả năng nhận định của bạn đã bị tổn hại, nhưng một phần của chứng trầm cảm chính là sự tác động của nó tới nhận thức. Rằng việc bạn bị suy sụp tinh thần không có nghĩa là cuộc đời bạn không phải là một mớ hỗn độn. Nếu có những vấn đề mà bạn đã có thể lảng tránh hoặc đi đường vòng trong nhiều năm, chúng sẽ quay trở lại và xuất hiện ngay trước mặt bạn, và một khía cạnh của trầm cảm chính là sự nhận biết sâu sắc rằng những lời an ủi của bác sĩ khi cam đoan rằng chẳng qua là sự phán đoán của bạn gặp vấn đề là hoàn toàn không đúng. Bởi vì khi ấy bạn sẽ chạm vào những điều thật sự kinh khủng trong cuộc đời mình. Bạn có thể chấp nhận tương đối rằng về sau này, khi các loại thuốc đã phát huy tác dụng, bạn sẽ có thể khỏe hơn để đối phó với những điều khủng khiếp ấy, nhưng bạn sẽ chẳng thể hoàn toàn thoát khỏi nó. Khi bạn bị trầm cảm, quá khứ và tương lai hòa vào khoảnh khắc hiện tại, như là thế giới của một đứa trẻ ba tuổi vậy. Bạn không thể nhớ ra lúc nào bạn cảm thấy khá hơn, hay ít nhất là cũng chẳng rõ rằng; và bạn chắc chắn chẳng thể hình dung về một thời điểm trong tương lai khi mà bạn sẽ cảm thấy khá hơn. Cảm thấy khó chịu, thậm chí là cực kỳ khó chịu, là một trải nghiệm mang tính tạm thời, trong khi trầm cảm là vĩnh viễn. Những cơn suy sụp tinh thần khiến bạn không còn nhìn nhận được bất cứ điều gì.
Có rất nhiều điều xảy ra trong một giai đoạn trầm cảm. Có những thay đổi trong chức năng của chất dẫn truyền thần kinh: sự thay đổi trong chức năng của synap; sự tăng lên hay giảm đi của tính dễ kích thích của các neuron; thay đổi biểu hiện gen; sự giảm mức chuyển hóa ở thùy trán (thường xuyên) hoặc giảm chuyển hóa ở cùng một khu vực; sự tăng tuyến giáp mà sản sinh ra hormone (TRH); sự gián đoạn chức năng của hạch hạnh nhân và có thể là cả vùng dưới đồi (các khu vực trong não); thay đổi mức độ của melatonin (một loại hormone mà tuyến tùng tiết ra từ chất serotonin); sự tăng lên của chất prolactin (lactat tăng ở những người có khuynh hướng lo lắng bất an sẽ dẫn đến những cơn hoảng loạn); làm giảm nhiệt độ cơ thể trong hai mươi bốn giờ; sự biến đổi trong việc tiết ra chất cortisol trong hai mươi bốn giờ; gián đoạn của sự kết nối giữa đồi thị, hạch đáy não, và thùy trán (một lần nữa, các trung tâm nằm ở bộ não); sự tăng lưu lượng máu đến thùy trán của bán cầu não trội; giảm lưu lượng máu tới thùy chẩm (kiểm soát thị lực); làm giảm dịch tiết dạ dày. Rất khó để có thể biết được điều gì đã gây ra toàn bộ những hiện tượng này. Đâu là nguyên nhân dẫn đến trầm cảm; đâu là triệu chứng; đâu chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên? Bạn có thể cho rằng sự tăng lên của mức độ TRH có nghĩa là TRH đã gây ra những cảm xúc xấu, nhưng thực ra sử dụng TRH liều cao có thể là một phương pháp điều trị tạm thời hiệu quả đối với chứng bệnh trầm cảm. Bởi vì hóa ra, cơ thể bắt đầu sản sinh ra TRH trong suốt giai đoạn trầm cảm vì khả năng chống trầm cảm của nó. Và TRH, nhìn chung không phải là một chất chống trầm cảm, có thể được tận dụng như là một chất chống trầm cảm tức thời sau một giai đoạn trầm cảm nặng bởi vì bộ não, mặc dù gặp phải rất nhiều vấn đề trong cơn trầm cảm, cũng đồng thời trở nên đặc biệt nhạy cảm với những thứ có thể giúp giải quyết các vấn đề đó. Các tế bào não thay đổi chức năng của chúng một cách dễ dàng, và trong một giai đoạn trầm cảm, tỷ lệ giữa sự thay đổi bệnh lý (mà dẫn tới trầm cảm) và sự thích nghi (chống lại nó) sẽ quyết định việc bạn tiếp tục mắc bệnh hay khỏe lại. Nếu như bạn sử dụng các loại thuốc mà lợi dụng hoặc hỗ trợ các yếu tố thích nghi đủ để áp đảo các yếu tố bệnh lý, thì bạn sẽ thoát khỏi cái chu kỳ này và bộ não của bạn có thể quay trở lại với những thói quen thường nhật của nó.
Bạn càng bị trầm cảm nhiều lần, thì bạn sẽ càng có nguy cơ bị trầm cảm nhiều lần hơn nữa, và nhìn chung những cơn trầm cảm, theo thời gian, sẽ ngày càng nặng và diễn ra gần nhau hơn. Sự leo thang này là một manh mối về việc căn bệnh này diễn ra như thế nào. Cuộc tấn công ban đầu của trầm cảm thường liên quan tới sự kiện gây kích động hoặc bi kịch; những người có gen tố bẩm mắc phải chứng trầm cảm là, như Kay Jamison – một nhà tâm lý học uy tín với những bài viết, mang tính học thuật lẫn phổ thông, đã có công lớn trong việc làm thay đổi suy nghĩ của công chúng về chứng rối loạn cảm xúc – đã nhận xét, “một giàn thiêu khô khốc và giòn tan, trơ khấc trước những tàn lửa không thể tránh được phát ra từ đời sống.” Sự tái phát ở một khía cạnh nào đó đã phá vỡ hoàn cảnh. Nếu như bạn kích thích sự co giật của một con vật mỗi ngày, sự co giật ấy cuối cùng sẽ trở thành một thứ phản xạ; con vật sẽ trải qua cơn co giật một lần mỗi ngày bất kể bạn có dừng việc kích thích lại hay không. Cũng tương tự như vậy, bộ não đã trải qua cơn trầm cảm một vài lần sẽ tiếp tục quay lại với trầm cảm hết lần này đến lần khác. Điều này gợi ý rằng trầm cảm, dù xuất phát từ một bi kịch bên ngoài, cũng hoàn toàn làm thay đổi cấu trúc, cũng như là sinh hóa của bộ não. “Vì thế nó không phải là một chứng bệnh vô hại như chúng ta vẫn tưởng,” Robert Post, truởng khoa Tâm sinh học của Viện Sức khỏe Tâm thần Quốc gia (National Institute of Mental Health – NIMH) giải thích. “Nó có khuynh hướng sẽ tái phát; nó có khuynh hướng sẽ trở nặng; và vì thế một người nên có tâm lý chuẩn bị sẵn sàng trước việc phải đối mặt nhiều lần với cơn trầm cảm và cân nhắc tới các liệu pháp ngừa bệnh về mặt dài hạn nhằm tránh những hậu quả khủng khiếp.” Kay Jamison vỗ mạnh vào bàn khi nói đến chủ đề này. “Trầm cảm không phải là một thứ vô hại. Anh biết đấy, bên cạnh việc ở trong tình trạng đau khổ, kinh sợ, bất lực, đa phần, nó cũng giết chết con người ta. Không chỉ qua việc tự vẫn thôi đâu, mà còn thông qua việc làm tăng nhịp tim, làm giảm khả năng miễn dịch, v.v.” Thông thường, các bệnh nhân có phản ứng với thuốc sẽ ngừng phản ứng nếu họ cứ liên tục uống rồi ngừng thuốc; với mỗi một cơn trầm cảm, có 10% nguy cơ rủi ro tăng lên của việc trầm cảm sẽ trở thành chứng bệnh mãn tính và không thể thoát khỏi. “Nó gần giống như căn bệnh ung thư nguyên phát mà rất nhạy cảm với thuốc, nhưng mà một khi căn bệnh đã di căn, thì nó không phản ứng với thuốc nữa,” Post giải thích. “Nếu như anh gặp phải quá nhiều cơn trầm cảm, nó sẽ biến đổi hệ hóa sinh của cơ thể anh theo chiều hướng xấu, có thể là mãi mãi. Khi đó, nhiều chuyên gia điều trị vẫn tiếp tục tìm kiếm theo một hướng hoàn toàn sai lầm. Nếu giờ đây các cơn trầm cảm diễn ra một cách tự động, thì việc lo lắng tới tình huống gây khó chịu đã đẩy lùi quá trình ban đầu nào có ích gì? Khi ấy đã là quá muộn.” Đó chính là ý nghĩa của việc sửa chữa chỉ có thể tạo ra những mảnh chắp vá mà chẳng bao giờ có thể trả lại sự nguyên vẹn như trước nữa.
Ba sự việc riêng biệt – việc giảm thụ thể serotonin; tăng cortisol, một hormone gây căng thẳng thần kinh; và trầm cảm – có liên quan đến nhau. Trình tự của chúng vẫn còn chưa được rõ: đó gần như là câu chuyện đau buồn về gà con, gà mái và quả trứng. Nếu bạn làm tổn thương hệ thống serotonin trong não của động vật, mức độ cortisol sẽ tăng lên. Nếu bạn làm tăng mức cortisol, chất serotonin sẽ giảm xuống. Nếu bạn khiến một người bị căng thẳng, yếu tố giải phóng corticotropin (corticotropin releasing factor - CRF) tăng lên và dẫn tới mức độ cortisol tăng cao. Nếu bạn làm cho một người bị căng thẳng, mức độ serotonin sẽ giảm xuống. Vậy điều này có nghĩa là gì? Cốt lõi của thập kỷ này là serotonin, và biện pháp được sử dụng nhiều nhất để chữa trầm cảm ở nước Mỹ là tăng cường mức độ hoạt động của serotonin trong não. Mỗi khi bạn tác động tới serotonin, bạn cũng làm biến đổi hệ thống căng thẳng và làm thay đổi mức độ của cortisol có trong não. “Tôi không nói rằng cortisol là nguyên nhân gây ra trầm cảm,” Elizabeth Young – một chuyên gia nghiên cứu về lĩnh vực này tại trường Đại học Michigan, cho biết, “nhưng nó có thể làm trầm trọng thêm một tình trạng nhỏ và tạo ra một hội chứng thực sự.” Cortisol, một khi được sinh ra, sẽ liên kết với các thụ thể glucocorticoid trong não. Các loại thuốc chống trầm cảm làm tăng số lượng thụ thể glucocorticoid này – mà sau đó chúng sẽ hấp thụ lượng cortisol dư thừa đang trôi nổi xung quanh đó. Điều này là vô cùng quan trọng đối với sự điều tiết của toàn cơ thể. Thụ thể glucocorticoid thực sự có khả năng bật và tắt một số gen, và khi bạn có một số thụ thể liên quan bị tràn ngập trong quá nhiều cortisol, hệ thống sẽ bị quá tải. “Nó giống như là một hệ thống sưởi,” Young nói. “Nếu bộ phận cảm ứng nhiệt của bộ ổn nhiệt nằm ở điểm giá lạnh, máy sưởi sẽ không bao giờ tắt cho dù thực tế trong căn phòng đang rất nóng bức. Nếu như anh đặt thêm một vài cái cảm ứng nhiệt quanh căn phòng, anh có thể khiến cho hệ thống hoạt động bình thường trở lại.”
Trong những trường hợp thông thường, mức độ cortisol tuân theo các quy tắc khá đơn giản. Mô hình sinh học của cortisol là tăng lên vào buổi sáng (là thứ khiến bạn rời khỏi giường) và rồi giảm xuống trong ngày. Ở những bệnh nhân trầm cảm, cortisol có khuynh hướng duy trì ở mức cao suốt cả ngày. Đã có trục trặc nào đó với các mạch ức chế mà đáng lẽ ra phải dừng việc sản sinh ra chất cortisol lại trong ngày, và đây có thể là một phần lý do tại sao cảm giác giật mình khi tỉnh giấc xảy ra vào buổi sáng lại tiếp tục kéo dài cả ngày đối với những người bị trầm cảm. Có thể kiểm soát trầm cảm bằng cách giải quyết trực tiếp hệ thống cortisol, thay vì tác động tới nó thông qua hệ thống serotonin. Dựa trên nghiên cứu cơ bản được thực hiện tại Michigan, các nhà nghiên cứu ở nơi khác đã chữa cho các bệnh nhân kháng trị với thuốc chống trầm cảm bằng ketoconazole, một loại thuốc làm giảm cortisol, và gần như 70 phần trăm số bệnh nhân này cho thấy sự cải thiện rõ rệt. Hiện tại, ketoconazole gây ra quá nhiều tác dụng phụ để được xem là loại thuốc chống trầm cảm hiệu quả, nhưng có rất nhiều công ty dược lớn đang nghiên cứu những loại thuốc liên quan có thể sẽ không mang lại những tác động tiêu cực ấy. Tuy nhiên, sự điều trị như vậy cần phải được tiến hành cẩn trọng bởi vì chất cortisol là cần thiết cho phản ứng chiến đấu-hoặc-bỏ chạy; cho năng lượng tiết ra do tuyến thượng thận là thứ giúp cho một người có thể chiến đấu khi đối mặt với khó khăn; cho sự kháng viêm; cho việc ra quyết định và sự quyết tâm; và quan trọng hơn cả, là trong việc khiến hệ thống miễn dịch hoạt động khi gặp phải một căn bệnh truyền nhiễm.
Các nghiên cứu về cấu trúc của cortisol gần đây đã được thực hiện trên khỉ đầu chó và kiểm soát viên không lưu. Những con khỉ đầu chó có lượng cortisol cao trong một thời gian dài có khuynh hướng bị hoang tưởng, không thể phân biệt giữa một mối đe dọa thực tế và một tình huống khó chịu nhẹ, như là sẽ đánh nhau quyết liệt vì một quả chuối nằm gần một cái cây với những trái chín sai trĩu trịt như thể đấy là vấn đề sống còn của chúng vậy. Với những kiểm soát viên không lưu, ở những người có tinh thần khỏe mạnh có sự tương liên giữa mức độ mà họ phải làm việc thêm giờ và mức độ chất cortisol của cơ thể họ, trong khi những người ở trong tình trạng tâm lý kém có mức cortisol tăng vọt và đạt mức báo động cao trong mọi tình huống. Khi mà sự tương liên giữa stress/cortisol bị bóp méo, bạn có thể trở nên kích động thái quá trước những trái chuối; bạn sẽ thấy rằng mọi thứ diễn ra với bạn thật là căng thẳng. “Và đó chính là một dạng của trầm cảm, và rồi dĩ nhiên bản thân việc bị trầm cảm cũng vô cùng căng thẳng,” Young nhận xét. “Đó là một vòng xoắn ốc đi xuống.”
Một khi bạn bị căng thẳng đủ để gây ra một sự tăng thêm kéo dài của mức độ cortisol trong cơ thể bạn, hệ thống cortisol của bạn sẽ bị hủy hoại, và trong tương lai nó sẽ không dễ dàng dừng lại một khi nó đã được kích hoạt. Do đó, sự dâng cao của chất cortisol sau một tổn thương tinh thần nhỏ có thể sẽ không trở lại bình thường như là nó vẫn thường diễn ra trong những tình huống thông thường. Cũng giống như bất kỳ thứ gì từng bị hỏng một lần, hệ thống cortisol sẽ có xu hướng bị phá vỡ hết lần này tới lần khác, dưới sức ép ngày càng nhẹ hơn. Những người bị nhồi máu cơ tim sau một căng thẳng về thể chất sẽ có khả năng tái phát rất lớn ngay cả khi đang ngồi trên ghế bành – trái tim lúc này đã hơi kiệt sức, và đôi khi nó chỉ đơn giản là bỏ cuộc dù không căng thẳng mấy. Điều tương tự cũng xảy ra đối với tâm trí của chúng ta.
Thực tế là những thứ như là thuốc men không hề mâu thuẫn với căn nguyên tâm lý xã hội. “Vợ tôi là bác sĩ điều trị rối loạn tuyến nội tiết,” Juan López – một đồng nghiệp của Young nói, “và cô cô ấy có bệnh nhân là những đứa trẻ bị bệnh tiểu đường. Vâng, tiểu đường rõ ràng là một chứng bệnh của tuyến tụy, nhưng những yếu tố bên ngoài lại tác động tới nó. Không chỉ những gì mà anh ăn vào, mà còn là việc anh căng thẳng ra sao – những đứa trẻ sống trong những gia đình cực kỳ tồi tệ thường sẽ phát điên và lượng đường trong máu của chúng sẽ bị rối loạn. Thực tế rằng điều này xảy ra không hề khiến cho tiểu đường trở thành một căn bệnh tâm lý.” Trong lĩnh vực trầm cảm, căng thẳng tâm lý gây ra biến đổi về mặt sinh học và ngược lại. Nếu một người bị căng thẳng thần kinh tột độ, CRF được giải phóng và thường kiến tạo nên thực tế sinh học của bệnh trầm cảm. Các kỹ thuật tâm lý nhằm ngăn ngừa bản thân bạn khỏi việc bị căng thẳng quá độ có thể giúp bạn giữ cho mức CRF cũng như mức cortisol của mình ở mức thấp. “Anh có những gen của mình,” López nói, “và anh chẳng thể làm gì được với điều đó. Nhưng đôi khi anh có thể kiểm soát cách chúng bộc lộ bản thân.”
----------------------
[3] Julia Kristeva (sinh ngày 24 tháng 6 năm 1941) là nhà phân tâm học, phê bình văn học, triết học, nữ quyền và là một tiểu thuyết gia nổi tiếng sinh ra tại Sliven, Bulgaria.
[4] Bài thơ số #280 trong chùm thơ của Emily Dickinson. Đây là bản dịch của dịch giả Trịnh Lữ: https://trinhlu.wordpress.com/translations-2/chum-tho-emily-dickinson/
[5] Đàng Thánh Giá hay Đường Thánh Giá (Latinh: Via Crucis) là một loạt gồm mười bốn hình ảnh nghệ thuật, thường là điêu khắc, mô tả diễn tiến Cuộc thương khó của Giêsu, từ khi ngài bị kết án đến khi bị đóng đinh trên thập giá và cuối cùng là an táng trong hầm mộ.
[6] Daphne Miriam Merkin là một nhà phê bình văn học, nhà tiểu luận và tiểu thuyết gia người Mỹ. Bà là tác giả của cuốn tiểu thuyết Enchantment (1984) và hai tập tiểu luận Dreaming of Hitler (1997) và The Fame Lunches (2014), và một cuốn hồi ký This Close to Happy: A Reckoning With Depression (2017).
[7] Chỉ nhà văn Virginia Woolf
Trong công trình nghiên cứu của mình, López đã quay trở lại với những mô hình động vật đơn giản nhất. “Nếu anh làm cho một con chuột bị stress,” ông nói, “con chuột ấy sẽ có lượng hormone stress ở mức cao. Nếu như anh nhìn vào các thụ thể serotonin của nó, chúng gần như đã bị rối loạn bởi vì stress. Bộ não của một con chuột bị căng thẳng thần kinh nặng trông rất giống với bộ não của một con chuột bị trầm cảm. Nếu anh cho nó dùng thuốc chống trầm cảm làm thay đổi serotonin, cortisol của nó cuối cùng sẽ bình thường trở lại. Như thể ở một số dạng trầm cảm có liên quan nhiều hơn đến tế bào thần kinh có thể giải phóng serotonin,” López nói, “và một số thì liên quan đến cortisol hơn, và hầu hết các trường hợp là sự pha trộn của cả hai độ nhạy này theo một cách nào đó. Sự giao thoa của hai hệ thống này là một phần của sinh lý bệnh học.” Các thí nghiệm trên chuột đã cho ta thấy được vài điều, nhưng vỏ não trước trán, khu vực của bộ não mà con người sở hữu và khiến cho chúng ta phát triển hơn loài chuột, cũng chứa rất nhiều thụ thể cortisol, và chúng có lẽ cũng liên quan đến sự phức tạp của chứng bệnh trầm cảm ở người. Bộ não của những người từng tự tử cho thấy mức độ cực kỳ cao của chất CRF – “nó vô cùng cao, như thể là họ đã bơm vào chất đó vậy.” Tuyến thượng thận của họ lớn hơn hẳn so với những người chết bởi những nguyên nhân khác bởi vì mức độ cao của chất CRF đã thực sự dẫn tới sự mở rộng của hệ thống thượng thận. Nghiên cứu gần đây nhất của López chỉ ra rằng các nạn nhân tự tử thực sự cho thấy sự giảm sút đáng kể của các thụ thể cortisol ở vỏ não trước trán (có nghĩa là chất cortisol ở khu vực đó không được dọn sạch nhanh như mong muốn). Bước tiếp theo, López nói, là nhìn vào bộ não của những người phải chịu sức ép vô cùng lớn và những người có thể vượt qua nó. “Hóa sinh của cơ chế đối phó của họ là gì?” López đặt ra câu hỏi. “Làm thế nào mà họ có thể duy trì khả năng phục hồi như vậy? Mô hình giải phóng CRF trong não họ là gì? Các thụ thể của họ trông ra sao?”
John Greden, trưởng khoa của López và Young, lại tập trung vào những tác động lâu dài của việc duy trì căng thẳng và những cơn trầm cảm. Nếu như bạn có quá nhiều stress và mức cortisol quá cao trong một thời gian quá dài, bạn sẽ bắt đầu hủy hoại những neuron kiểm soát vòng hồi tiếp và giảm mức cortisol xuống sau khi stress đã được xử lý. Rốt cuộc, điều này dẫn đến tổn thương vùng đồi thị và hạch hạnh nhân, làm mất các mô mạng lưới thần kinh. Bạn càng ở lâu trong tình trạng trầm cảm, bạn càng chịu tổn thương nặng nề hơn, mà có thể dẫn đến biến chứng viêm dây thần kinh ngoại biên: thị lực của bạn bắt đầu giảm xuống và mọi thứ khác đều có thể gặp phải vấn đề. “Điều này phản ánh một sự thật hiển nhiên rằng chúng ta không chỉ cần phải điều trị trầm cảm khi nó xuất hiện,” Greden nhấn mạnh, “mà còn cần phải ngăn ngừa nó tái phát. Cách tiếp cận của chúng ta đối với sức khỏe cộng đồng ở thời điểm này là rất sai lầm. Những người bị trầm cảm tái phát cần phải dùng thuốc suốt đời, chứ không phải là dùng rồi lại ngưng, bởi vì bên cạnh sự khó chịu của việc phải trải qua nhiều đau đớn của những cơn trầm cảm, những con người ấy thực sự đang phá hủy mô thần kinh của chính họ.” Greden hi vọng rằng trong tương lai sự hiểu biết của chúng ta về những hậu quả đối với cơ thể sẽ dẫn chúng ta đến những chiến lược giúp loại bỏ điều này. “Có thể chúng ta sẽ thử tiêm chọn lọc một số kích thích tố tăng trưởng mô thần kinh vào những khu vực nhất định của bộ não để làm một số loại mô sinh sản và phát triển. Có lẽ chúng ta sẽ sử dụng các biện pháp kích thích khác, như là kích thích từ hoặc dòng điện, để kích thích sự phát triển ở những khu vực nhất định.”
Tôi cũng hi vọng là như vây. Việc sử dụng thuốc rất đắt đỏ - không chỉ về mặt kinh tế mà còn cả về mặt tinh thần nữa. Thật nhục nhã khi phải phụ thuộc vào chúng. Và việc phải theo dõi việc dùng thuốc và cất giữ các đơn thuốc cũng vô cùng bất tiện. Và cũng thật là độc hại khi biết rằng nếu thiếu đi những sự can thiệp vĩnh viễn này bạn sẽ không còn là con người mà bạn vẫn thường cho là nữa. Tôi không biết tại sao tôi lại cảm thấy như vậy – tôi đeo kính áp tròng và nếu không có chúng tôi gần như trở nên mù dở, và tôi không hề thấy xấu hổ về kính áp tròng hay sự cần thiết của chúng đối với tôi (mặc dù nếu được lựa chọn, thì tôi vẫn chọn có được đôi mắt sáng). Sự hiện diện thường xuyên của những viên thuốc trầm cảm đối với tôi mà nói chính là một lời nhắc nhở về sự yếu đuối và không hoàn hảo; và tôi là một kẻ cầu toàn và muốn rằng sự việc không bị nắm gọn trong lòng bàn tay của Chúa.
Mặc dù những tác dụng đầu tiên của thuốc chống trầm cảm bắt đầu phát huy hiệu quả sau một tuần dùng thuốc, nhưng phải mất tới sáu tháng mới có thể thu được lợi ích đầy đủ từ chúng. Zoloft làm tôi cảm thấy rất tệ, vì thế bác sĩ cho tôi chuyển sang dùng Paxil sau vài tuần. Tôi không quá thích Paxil, nhưng nó có vẻ hiệu quả và gây ra ít tác dụng phụ với tôi hơn. Mãi tận sau này tôi mới biết rằng trong khi có hơn 80 phần trăm bệnh nhân trầm cảm có phản ứng với thuốc, thì chỉ có 50 phần trăm bệnh nhân có phản ứng với loại thuốc đầu tiên được kê cho họ - hay, thực ra, với bất kỳ một loại thuốc cụ thể nào. Trong khi ấy, là cả một chu kỳ khủng khiếp: những triệu chứng của trầm cảm gây ra trầm cảm. Sự cô đơn làm ta phiền muộn, nhưng trầm cảm cũng dẫn đến cô đơn. Nếu như bạn không thể hoạt động, cuộc đời bạn sẽ vô cùng bề bộn; nếu như bạn không thể nói chuyện và có hứng thú tình dục, đời sống tình cảm và xã hội của bạn sẽ tan biến, và điều ấy thật sự gây tuyệt vọng. Trong hầu hết thời gian, tôi khó chịu trước tất cả mọi thứ để không phải khó chịu trước một điều cụ thể nào; đó là cách duy nhất giúp tôi có thể chịu được những ảnh hưởng của mất mát, niềm vui, và phẩm giá mà căn bệnh mang lại cho tôi. Tôi cũng, thật phiền phức, có một chuyến giao lưu đọc sách ngay sau sinh nhật của mình. Tôi phải đi tới các hiệu sách và các địa điểm khác nhau và phải đứng trước những người lạ để đọc to cuốn tiểu thuyết mình vừa mới viết. Đấy là cái công thức cho thảm họa, nhưng tôi quyết tâm phải vượt qua được nó. Trước buổi đọc đầu tiên, ở New York, tôi ngâm mình bốn giờ trong bồn tắm, và rồi một người bạn thân cũng đang phải vật lộn với chứng trầm cảm đã giúp tôi giội người bằng nước lạnh. Anh ấy không chỉ giúp tôi mở vòi nước mà còn giúp tôi thực hiện những việc khó khăn mệt mỏi như cài khuy áo và kéo khóa quần, và đưa tôi ra ngoài. Rồi tôi tới điểm hẹn và đọc. Tôi cảm thấy như thể trong miệng mình đầy những phấn rôm, và tôi không thể nghe rõ, và tôi cứ nghĩ rằng tôi có thể sẽ ngất xỉu, nhưng tôi đã làm được. Rồi một người bạn khác đưa tôi về nhà, và tôi nằm trên giường suốt ba ngày. Tôi đã ngừng khóc; và nếu tôi uống đủ Xanax, tôi có thể giữ cho sự căng thẳng nằm trong tầm kiểm soát. Tôi vẫn thấy những hoạt động thường ngày là bất khả thi, và tôi thức dậy mỗi ngày trong hoảng loạn, từ rất sớm và phải mất tới vài giờ mới có thể tạm vượt qua được nỗi sợ hãi để mà rời giường; nhưng tôi có thể buộc bản thân mình ra ngoài xã hội trong một hay hai giờ mỗi lần.
Sự xuất hiện của trầm cảm thường chậm, và mọi người dừng lại ở các giai đoạn khác nhau của nó. Một nhân viên sức khỏe tâm thần miêu tả cuộc đấu tranh không ngừng nghỉ của bản thân với chứng trầm cảm: “Nó không bao giờ thực sự rời bỏ tôi, nhưng tôi chiến đấu với nó mỗi ngày. Tôi đang dùng thuốc, và điều này thực sự có ích, và tôi vừa quyết định rằng tôi sẽ không chịu thua trước nó. Anh biết đấy, tôi có một cậu con trai cũng phải vật lộn với chứng bệnh này, và tôi không muốn thằng bé nghĩ rằng đây là một lý do để không có được một cuộc sống tốt đẹp. Tôi thức dậy mỗi ngày, tôi làm bữa sáng cho các con. Có những ngày tôi có thể tiếp tục làm việc, nhưng có những ngày tôi phải lên giường nằm ngay sau đó, nhưng tôi đều thức dậy mỗi ngày. Tôi đến văn phòng này vào một lúc nào đó trong ngày. Đôi khi tôi muộn một vài giờ, nhưng tôi chưa bao giờ nghỉ hẳn một ngày vì chứng trầm cảm.” Khuôn mặt cô đẫm nước mắt khi nói những lời này, nhưng quai hàm cô xiết lại và cô nói tiếp. “Một ngày vào tuần trước tôi thức dậy và nó thật tệ. Tôi cố gắng xuống giường, đi vào bếp, đếm từng bước một, để mở tủ lạnh ra. Và rồi tất cả những thứ cần cho bữa sáng ở ngay trong tủ lạnh, vậy mà tôi chẳng thể với lấy chúng. Khi các con của tôi xuất hiện, tôi chỉ đứng đó, nhìn chằm chằm vào tủ lạnh. Tôi ghét khi cứ như vậy, khi trở nên như thế trước mặt các con tôi.” Chúng tôi nói về trận chiến hàng ngày: “Một người như Kay Jamison, hay một người giống như anh, vượt qua được điều này với rất nhiều sự giúp đỡ,” cô nói. “Cha mẹ tôi đều đã mất, và tôi đã li dị, và tôi thấy thật khó khăn khi tìm kiếm sự giúp đỡ.”
Các biến cố cuộc đời thường là tác nhân gây nên trầm cảm. “Một người có khả năng ít bị trầm cảm trong một hoàn cảnh ổn định hơn nhiều so với một người ở trong cảnh bấp bênh,” Melvin McInnis của viện Johns Hopkins nhận định. George Brown, thuộc trường Đại học London là nhà tiên phong trong lĩnh vực nghiên cứu về các biến cố cuộc đời thì nhận định, “Quan điểm của chúng tôi là hầu hết trầm cảm đều có nguồn gốc từ sự chống đối xã hội; cũng có cả đặc tính bệnh nữa, nhưng hầu hết mọi người đều có thể rơi vào chứng trầm cảm điển hình nếu gặp phải một số tình huống cụ thể. Mức độ tổn thương là khác nhau, dĩ nhiên là vậy, nhưng tôi cho rằng, có ít nhất hai phần ba dân số phải chịu đủ mức độ tổn thương.” Dựa trên kết quả nghiên cứu chi tiết mà ông đã thực hiện trong suốt hai mươi nhăm năm, các sự kiện đe dọa nghiêm trọng cuộc sống chính là nguyên nhân gây ra trầm cảm ban đầu. Những sự kiện này thường liên quan đến sự mất mát – sự ra đi của một người được ta quý trọng, của một vai trò, của một ý tưởng về bản thân ta – và ở mức tệ hại nhất chúng liên quan tới sự nhục nhã hoặc một cảm giác bế tắc. Trầm cảm cũng có thể bị gây ra bởi sự thay đổi tích cực. Sinh con, thăng chức, hoặc kết hôn cũng có khả năng gây ra trầm cảm giống cái chết hoặc sự mất mát.
Theo truyền thống, sẽ có một ranh giới giữa mô hình trầm cảm nội sinh[1] và trầm cảm phản ứng[2], trầm cảm nội sinh bắt đầu ngẫu nhiên từ bên trong, trong khi trầm cảm phản ứng là một phản ứng cực đoan trước một tình huống đau buồn. Sự phân biệt đã gần như biến mất trong thập kỷ qua, vì rõ ràng là hầu hết các ca trầm cảm đều là sự pha trộn giữa các yếu tố phản ứng và nội sinh. Russell Goddard, giáo sư trường ĐH Yale, kể cho tôi nghe câu chuyện về cuộc chiến của ông với trầm cảm: “Tôi dùng thuốc Asendin[3] và nó dẫn đến loạn thần; vợ tôi phải đưa tôi đến ngay bệnh viện.” Ông có kết quả tốt hơn với Dexedrine. Chứng trầm cảm của ông thường trở nặng bởi các sự kiện gia đình. “Tôi biết rằng đám cưới của con trai tôi sẽ gây xúc động,” ông nói với tôi, “và bất cứ điều gì gây xúc động, dù tốt hay xấu, đều khiến tôi bị tái phát. Tôi muốn có sự chuẩn bị trước. Tôi luôn ghét cái ý tưởng phải sử dụng đến liệu pháp sốc điện, nhưng tôi đã tới viện và thực hiện điều đó. Nhưng nó chẳng ích gì. Vào thời điểm diễn ra đám cưới, tôi chẳng thể rời khỏi giường. Điều ấy khiến tôi vô cùng đau đớn, nhưng tôi chẳng làm thế nào để tới được đám cưới.” Điều này gây áp lực khủng khiếp cho gia đình và các mối quan hệ gia đình. “Vợ tôi biết là cô ấy chẳng thể làm gì để giúp được tôi,” Goddard giải thích. “Cô ấy đã học được rằng tốt nhất cứ để mặc tôi, tạ ơn Chúa.” Nhưng gia đình và bạn bè thường không thể làm được điều đó, và không thể cảm thông. Một số người gần như quá nuông theo. Nếu như bạn đối xử với một người như thể người đó bị tàn tật, thì anh ta sẽ nhìn nhận bản thân mình như một người tàn tật, và điều đó có thể khiến anh ta trở nên tàn tật thật, có lẽ là tàn tật hơn cả cái mức mà anh ta thật sự mắc phải. Sự tồn tại của dược phẩm càng làm tăng thêm sự thiếu khoan dung của xã hội. “Con có vấn đề ư?” tôi đã từng nghe thấy một phụ nữ nói như vậy với con trai mình trong bệnh viện. “Con đã uống cái thuốc Prozac đó và con đã khỏi bệnh và giờ thì con lại gọi cho mẹ.” Xác định chính xác mức độ chịu đựng không chỉ là cần thiết đối với bệnh nhân mà còn với cả gia đình bệnh nhân nữa. “Người nhà phải tự bảo vệ mình,” Kay Jamison từng có lần nói với tôi, “trước sự lây lan của nỗi tuyệt vọng.”
Điều vẫn còn chưa rõ ràng là khi nào thì trầm cảm gây ra các biến cố cuộc đời, và khi nào thì các biến cố cuộc đời gây ra trầm cảm. Hội chứng và triệu chứng hòa lẫn vào nhau và gây ra nhau: hôn nhân thất bại dẫn đến biến cố cuộc đời tồi tệ bởi vì trầm cảm dẫn tới sự gắn kết tệ hại, mà cũng lại là nguyên nhân của những cuộc hôn nhân tồi tệ. Dựa trên các nghiên cứu được thực hiện ở Pittsburgh, cơn trầm cảm đầu tiên thường liên quan chặt chẽ tới biến cố cuộc đời; cơn trầm cảm thứ hai, ít có sự liên quan hơn; và vào lần thứ tư hay thứ năm thì biến cố cuộc đời hầu như không còn đóng vai trò gì nữa cả. Brown đồng ý rằng sau một điểm nhất định, trầm cảm “tự nó giải thoát” và trở nên ngẫu nhiên và nội sinh, tách biệt với các sự kiện trong cuộc sống. Mặc dù hầu hết những người bị trầm cảm đều đã trải qua những sự kiện đặc trưng, nhưng chỉ có một phần năm trong số những người đã trải qua những sự kiện kiểu đó sẽ mắc phải trầm cảm. Rõ ràng là stress làm tăng tỷ lệ trầm cảm. Sự căng thẳng lớn nhất là sự nhục nhã; tiếp theo đó là sự mất mát. Sự phòng ngự tốt nhất, dành cho những người có loại gen dễ bị tổn thương, là một “cuộc hôn nhân đủ tốt”, mà sẽ hấp thụ những sự bẽ bàng đến từ bên ngoài và giúp giảm thiểu chúng. “Tâm lý xã hội tạo ra sự thay đổi về mặt sinh học,” Brown cho biết. “Vấn đề nằm ở chỗ sự tổn thương ban đầu phải bị gây ra bởi những sự kiện bên ngoài.”
Chỉ ngay trước khi bắt đầu chuyến đọc sách của mình, tôi bắt đầu dùng thuốc Navane, một loại thuốc làm giảm rối loạn thần kinh có tác dụng chống lo âu, mà, chúng tôi hi vọng, sẽ giúp tôi ít phải thường xuyên uống Xanax hơn. Buổi đọc sách tiếp theo diễn ra ở California. Tôi đã nghĩ rằng tôi không thể đi được; tôi biết là tôi không thể đi một mình. Cuối cùng, cha tôi đã đưa tôi tới đó; trong khi tôi ở vào tình trạng lơ mơ vì Xanax, ông đã đưa tôi lên và xuống máy bay, rời khỏi sân bay, về khách sạn. Tôi bị ảnh hưởng của thuốc nặng đến mức tôi gần như ngủ thiếp đi, nhưng ở trong trạng thái đó tôi vẫn có thể tự thực hiện những hoạt động này, điều mà tôi không thể tưởng tượng nổi vào một tuần trước đó. Tôi biết rằng mình càng tự làm được nhiều việc, thì tôi sẽ càng ít muốn chết, nên việc đi lại càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Khi chúng tôi tới San Francisco, tôi lên giường và ngủ liền mười hai tiếng. Rồi, trong suốt bữa tối đầu tiên của tôi ở đó, bỗng nhiên tôi cảm thấy nó biến mất. Chúng tôi ngồi trong căn phòng ăn rộng lớn, ấm cúng của khách sạn, và tôi tự gọi món cho mình. Tôi đã ở cùng với cha trong nhiều ngày, nhưng tôi chẳng có một khái niệm nào về những gì diễn ra với cuộc đời ông, ngoại trừ tôi; chúng tôi nói chuyện vào tối đó như thể vừa mới gặp lại nhau sau vài tháng xa cách. Khi lên đến trên phòng, chúng tôi tiếp tục nói chuyện cho tới đêm khuya, và khi tôi cuối cùng cũng lên giường đi ngủ, tôi gần như ở trong cơn phấn khích. Tôi ăn một ít sô-cô-la được bày trong phòng, viết một bức thư, đọc vài trang sách trong cuốn tiểu thuyết mà tôi mang theo. Tôi cảm thấy mình đã sẵn sàng trước thế giới.
Sáng ngày hôm sau, tôi cảm thấy tồi tệ như tôi vẫn từng cảm thấy. Cha giúp tôi rời giường, mở vòi hoa sen cho tôi. Ông cố gắng cho tôi ăn, nhưng tôi quá sợ hãi để mà nhai thức ăn. Tôi cố gắng uống một ít sữa. Tôi gần như nôn ra mấy lần, nhưng không làm vậy. Tôi khổ sở với cái cảm giác đau khổ ảm đạm, giống như điều mà một người sẽ trải qua nếu người đó lỡ đánh rơi và làm vỡ một vật quý giá. Những ngày này, 0,25 mg Xanax cũng có thể khiến tôi ngủ trong mười hai tiếng. Ngày hôm ấy, tôi uống 8 mg Xanax và vẫn căng thẳng đến mức chẳng thể ngồi yên. Vào buổi tối tôi thấy khá hơn nhưng không đỡ được bao nhiêu. Đó là những gì mà một cơn suy sụp diễn ra ở vào giai đoạn ấy: một bước tiến, hai bước lùi, hai bước tiến, một bước lùi. Một chiếc hộp của những bước tiến và lùi là những gì mà bạn sẽ phải trải qua.
Trong suốt giai đoạn tiếp theo, các triệu chứng bắt đầu thuyên giảm. Tôi cảm thấy khỏe hơn vào sớm hơn, và lâu hơn, và thường xuyên hơn. Chẳng mấy chốc, tôi đã tự ăn được. Thật khó để có thể giải thích về việc mất đi một khả năng đã từng tồn tại, nhưng với tôi nó gần giống như những gì tôi từng hình dung về cái ngày mình đã rất già. Bà dì Beatrice của tôi thật đáng ngưỡng mộ ở cái tuổi chín mươi tám, bởi vì bà đã gần chín mươi chín tuổi rồi và hàng ngày, bà vẫn thức dậy và mặc quần áo. Nếu thời tiết dễ chịu, bà sẽ đi dạo quanh tám khu nhà. Bà vẫn rất quan tâm tới trang phục của mình của mình, và bà thích buôn điện thoại hàng tiếng đồng hồ. Bà nhớ hết ngày sinh nhật của mọi người và thỉnh thoảng bà còn ra ngoài ăn trưa. Khi vượt qua một cơn trầm cảm, bạn sẽ ở vào cái điểm mà bạn có thể thức dậy và mặc quần áo mỗi ngày. Nếu trời đẹp, bạn có thể đi dạo, và thậm chí bạn còn có thể dùng bữa trưa ở ngoài. Bạn nói chuyện điện thoại. Dì Bea không hề thở nhọc sau một cuốc đi bộ; bà đi chậm rãi, nhưng bà có được một quãng thời gian tuyệt vời và vui mừng vì được rời khỏi nhà. Vì vậy khi mà bạn qua khỏi cơn trầm cảm, việc bạn hoàn toàn bình thường trong một bữa ăn trưa không hề có nghĩa là bạn đã khá hơn, cũng chỉ giống như khả năng đi bộ qua tám khu nhà của dì Bea có nghĩa là bà đã từng khiêu vũ suốt đêm hồi mới mười bảy tuổi.
Bạn chẳng hề vượt qua cơn suy sụp tinh thần một cách nhanh chóng và dễ dàng. Mọi thứ cứ trở nên gập ghềnh trúc trắc. Mặc dù một số triệu chứng của căn bệnh trầm cảm dường như đã được cải thiện, tôi lại có phản ứng bất thường, không may với Navane. Vào cuối tuần thứ ba, tôi không thể đứng thẳng. Tôi đi lại trong vài phút và rồi tôi sẽ phải nằm xuống. Tôi không thể kiểm soát được bất cứ điều gì ngoại trừ việc hít thở. Tôi sẽ tới các buổi đọc sách và sẽ bám vào bục giảng. Vào giữa buổi đọc, tôi sẽ bắt đầu lược bớt các đoạn văn để có thể kết thúc sớm. Khi kết thúc buổi đọc, tôi sẽ ngồi xuống và bám chặt vào ghế. Ngay khi rời khỏi phòng, đôi khi tôi vờ rằng tôi cần đi vệ sinh, và tôi sẽ lại nằm xuống đâu đó. Tôi không biết chuyện gì đang diễn ra. Tôi nhớ rằng có lần từng đi dạo với một người bạn ở gần khu học xá Berkeley, bởi vì cô ấy đề nghị rằng khí trời sẽ tốt cho tôi. Chúng tôi đi bộ một vài phút và rồi tôi bắt đầu thấy mệt. Tôi buộc mình phải tiếp tục, nghĩ rằng thời tiết và không khí trong lành sẽ có tác dụng; tôi đã nằm trên giường suốt năm mươi giờ qua. Kể từ khi tôi cắt giảm liều lượng thuốc Xanax, để ngăn bản thân khỏi ngủ một lèo năm mươi tiếng, tôi lại bắt đầu phải trải qua trạng thái lo lắng tột độ. Nếu như bạn chưa khi nào nếm trải cảm giác lo lắng, bạn hãy hình dung nó như là một sự đối lập với sự thanh thản. Tất cả thanh thản – cả bên trong lẫn bên ngoài – đều bị tước đoạt khỏi cuộc đời tôi trong thời điểm đó.
Trầm cảm nhiều khi kết hợp với các triệu chứng lo âu. Việc nhìn nhận riêng biệt giữa trầm cảm và lo âu là hoàn toàn có thể, nhưng theo như James Ballenger của trường ĐH Y South Carolina, một chuyên gia hàng đầu về lo âu, thì “chúng là cặp anh em sinh đôi.” George Brown nói ngắn gọn, “Trầm cảm là một phản ứng trước những mất mát trong quá khứ, và lo âu là phản ứng trước mất mát của tương lai.” Thomas Aquinas cho rằng sợ hãi ứng với buồn rầu còn hi vọng thì ứng với ước mơ; hoặc, nói theo cách khác, lo âu là một dạng điềm báo của trầm cảm. Tôi phải trải qua vô số lo âu khi tôi trầm cảm, và cảm thấy cực kỳ chán nản khi mà tôi lo lắng, vì thế tôi hiểu ra rằng sự thu mình lại và nỗi sợ hãi là không thể tách rời. Lo âu không phải là sự hoang tưởng; những người bị mắc chứng rối loạn lo âu cũng nắm bắt vị trí của họ trên thế giới này giống như là những người bình thường khác. Sự khác biệt đối với lo âu nằm ở cái cách mà một người cảm nhận về sự nắm bắt ấy. Có khoảng một nửa số bệnh nhân chỉ thuần túy mắc chứng rối loạn lo âu đã phát triển thành trầm cảm trong vòng năm năm. Ở mức độ mà trầm cảm và lo âu thường được quyết định bởi gen, chúng thường có chung một bộ gen (mà cũng gắn liền với các gen gây nghiện rượu). Các ca trầm cảm bị làm trầm trọng thêm bởi lo âu sẽ có tỷ lệ tự vẫn cao hơn so với các ca trầm cảm đơn thuần, và chúng cũng khó hồi phục hơn nhiều. “Nếu như bạn hứng chịu hàng loạt những cuộc tấn công nghiêm trọng mỗi ngày,” Ballenger nói, “nó sẽ khiến Hannibal[4] cũng phải quỳ xuống. Những con người ấy bị đánh bại thành đống bột nhão, như một bào thai nằm lặng lẽ trên giường.”
Từ 10 đến 15 phần trăm dân số Hoa Kỳ mắc phải một số loại rối loạn lo âu. Một phần, các nhà khoa học nghĩ, là bời vì vùng locus coeruleus[5] trong não kiểm soát cả việc sản sinh ra chất norepinephrine[6] lẫn phần ruột dưới, có ít nhất một nửa số bệnh nhân bị chứng rối loạn lo âu cũng dễ bị hội chứng ruột kích thích; và bất kỳ ai có tâm trạng lo lắng mãnh liệt đều biết rằng thức ăn có thể di chuyển nhanh và dữ dội qua hệ tiêu hóa như thế nào. Cả norepinephrine và serotonin đều có liên quan tới lo âu. “Hai trong ba lần, các biến cố cuộc đời đều có liên quan, và đó luôn là sự mất cảm giác an toàn,” Ballenger nhận xét. Khoảng một phần ba số cơn hoảng loạn, đặc hữu của một số dạng trầm cảm, xảy ra trong khi ngủ, trong giấc ngủ sâu delta, không mơ màng. “Thực ra, chứng rối loạn hoảng sợ bị kích thích bởi những thứ khiến cho tất cả chúng ta lo lắng,” Ballenger nói. “Khi chúng tôi chữa trị cho họ, đó gần như là việc đưa một người trở lại mức độ lo lắng thông thường.” Chứng rối loạn hoảng sợ thực sự là sự rối loạn về quy mô. Ví dụ như là, việc đi lại giữa đám đông theo một nghĩa nào đó khiến cho hầu hết mọi người đều căng thẳng cho dù họ không bị rối loạn lo âu đi chăng nữa; nhưng nếu như một người bị mắc chứng bệnh này, thì đối với người đó nó sẽ trở nên khủng khiếp đến mức không thể nói thành lời. Chúng ta đều cẩn trọng ít nhiều mỗi khi đi qua một cây cầu – liệu cây cầu này có chịu nổi sức nặng? liệu nó có đủ an toàn? – nhưng đối với một người bị chứng rối loạn lo âu mà nói, việc đi qua một cây cầu bằng thép chắc chắn có tuổi đời vài thập kỷ cũng đáng sợ như là việc phần đông chúng ta vượt qua hẻm núi Grand Canyon trên một sợi dây thừng vậy.
Trước sự lo lắng của tôi, người bạn của tôi ở Berkeley và tôi bắt đầu vận động một chút và chúng tôi cứ tiếp tục đi bộ và rồi tôi không thể đi tiếp nữa. Tôi nằm xuống, mặc nguyên bộ quần áo đẹp, xuống mặt bùn. “Thôi nào, hãy ngồi xuống một gốc cây nào đó vậy,” cô ấy nói. Tôi cảm thấy tê liệt. “Làm ơn hãy để mình lại đây,” tôi nói, và tôi cảm thấy nước mắt trào ra. Trong suốt một giờ tôi nằm trong vũng bùn, cảm thấy như thể nước từ trong cơ thể mình đang rỉ ra, và rồi bạn tôi gần như đã phải vác tôi vào trong xe ô tô. Những sợi dây thần kinh từng bị bóc sống theo một cách nào đó giờ đây dường như đã bị bọc lại bằng chì. Tôi biết rằng đó là một thảm họa, nhưng sự nhận biết thực là vô nghĩa. Sylvia Plath đã viết rất hay về cơn suy sụp của mình trong cuốn tiểu thuyết The Bell Jar: “Tôi không thể khiến bản thân mình phản ứng. Tôi cảm thấy rất tĩnh lặng và trống rỗng, cái cách mà một mắt bão ắt phải cảm thấy, di chuyển lờ đờ giữa những tiếng ồn ào vây quanh.” Tôi cảm thấy như thể đầu óc mình đã bị giam cầm bởi Lucite[7], như là những chú bướm mãi mãi bị nhốt trong thứ vật chất dày đặc trong suốt của cái chặn giấy.
Việc đọc sách trước đám đông là một trong những nỗ lực khó khăn nhất trong cuộc đời tôi: nó là thách thức lớn nhất mà tôi từng đối mặt trước đó hoặc cả về sau này. Vị chuyên gia xuất bản đã tổ chức chuyến lưu diễn đọc sách của tôi đã đi cùng tôi trong một nửa số buổi đọc ấy và trở thành một người bạn thân thiết. Cha đi cùng với tôi trong nhiều chuyến; khi chúng tôi xa nhau, ông luôn gọi cho tôi cứ mỗi vài giờ một lần. Một số người bạn thân cũng chăm lo cho tôi, và tôi không khi nào phải ở một mình. Tôi có thể nói với bạn rằng tôi chẳng phải là một người bạn đồng hành vui vẻ gì; và cái tình yêu sâu sắc ấy và sự nhận biết về tình yêu sâu sắc tự thân nó không phải là phương thuốc chữa lành. Tôi cũng có thể nói rằng nếu như không có tình yêu sâu sắc và sự nhận biết về tình yêu sâu sắc, tôi sẽ không thể tìm thấy nó trong chính bản thân mình để có thể vượt qua được toàn bộ chuyện này. Tôi có lẽ sẽ tìm một nơi nào đó trong khu rừng để mà nằm xuống và tôi sẽ nằm lại đó cho tới khi lạnh cóng và chết đi.
Cơn hoảng loạn biến mất vào tháng Mười hai. Là vì thuốc đã phát huy tác dụng hay bởi vì chuyến lưu diễn đã kết thúc, tôi cũng không biết nữa. Rốt cuộc, tôi chỉ phải hủy bỏ một buổi đọc sách; từ ngày 1 tháng Mười một và ngày 15 tháng Mười hai, tôi đã tới mười một thành phố. Tôi có được cho mình một vài ô cửa sổ ngẫu nhiên trong cơn trầm cảm, như thể vào một lúc nào đó sương mù bất chợt tan đi. Jane Kenyon, một nhà thơ cũng từng phải vật lộn với chứng trầm cảm trầm trọng trong phần lớn đời mình, đã viết về căn bệnh như thế này:
…Với sự ngạc nhiên
và nỗi cay đắng của một người bị bỏ rơi
vì một tội ác mà cô ta chẳng hề thực hiện
tôi quay trở về với gia đình và bè bạn,
để tô hồng nhưng bông thục quỳ trên giấy vẽ;
tôi trở về với chiếc bàn, cái ghế, và những trang sách.
Vì vậy vào ngày 4 tháng Mười hai, tôi đi bộ lên nhà một người bạn ở khu Upper West Side, và tôi đã có một khoảng thời gian khá ổn ở đó. Trong vài tuần tiếp theo, tôi thấy vui không phải vì mình đã trở lại bình thường, mà là bởi vì cái thực tế rằng tôi đã có được niềm vui đó. Tôi vượt qua được Giáng sinh và năm mới và tôi hành động đồng điệu với vẻ cái bề ngoài của mình. Tôi đã sụt năm mươi pound, và giờ đây tôi bắt đầu lấy lại cân nặng. Cha và các bạn của tôi đều chúc mừng tôi vì sự tiến bộ đáng ngạc nhiên này. Tôi cảm ơn họ. Tuy nhiên, trong lòng mình, tôi thực rõ thứ rời đi chỉ là những triệu chứng. Tôi ghét phải uống thuốc hàng ngày. Tôi ghét cái việc tôi từng gặp phải cơn suy sụp tinh thần và đánh mất tâm trí mình. Tôi ghét cái từ cổ lỗ sĩ nhưng chính xác suy sụp tinh thần ấy, với ngụ ý của nó về việc một cỗ máy trở nên đình trệ. Tôi thấy nhẹ nhõm vì đã vượt qua được chuyến lưu diễn đọc sách, nhưng tôi kiệt sức vì tất cả những gì tôi phải làm để vượt qua được nó. Tôi đã bị khuất phục trước thế giới này, bởi những con người và những cuộc đời mà tôi không thể dẫn dắt, bởi những công việc mà tôi chẳng thể thực hiện – thậm chí là chịu khuất phục trước cả những phần việc mà tôi chưa muốn hay cần phải thực hiện. Tôi lại quay trở về vị trí mà tôi từng ở vào hồi tháng Chín, chỉ là vào lúc này tôi đã biết nó có thể tồi tệ đến nhường nào. Tôi quyết tâm sẽ không không bao giờ trải qua một điều gì giống như vậy nữa.
Cái giai đoạn bán hồi phục này có thể diễn ra trong thời gian dài. Đây cũng là quãng thời gian nguy hiểm. Trong thời điểm tồi tệ nhất của căn bệnh trầm cảm, khi tôi khó có thể cắt được một miếng thịt cừu, tôi không thể tự hại chính mình. Nhưng trong giai đoạn gần hồi phục này, tôi cảm thấy đủ khỏe để có thể tự sát. Lúc này tôi có thể làm được khá nhiều việc mà tôi vẫn luôn có thể làm được, ngoại trừ việc tôi vẫn đang ở trong tình trạng mất đi khoái cảm, sự bất lực trong việc cảm nhận niềm vui thú. Tôi cứ ép mình phải cư xử cho đúng lề thói, nhưng lúc này đây khi tôi đã có đủ năng lượng để tự hỏi rằng tại sao tôi lại ép buộc bản thân mình như vậy, tôi chẳng tìm ra được một lý do thích hợp. Tôi nhớ có một tối nọ, khi một người quen đã thuyết phục tôi cùng ra ngoài xem phim với anh ta. Tôi đã đi cùng để chứng minh sự hoan hỉ của chính mình và suốt nhiều giờ đã phải thể hiện cái dáng vẻ vui tươi mà mọi người đều có, dù trong lòng tôi cảm thấy đau đớn trước những điều mà họ thấy vui. Khi về đến nhà, tôi cảm thấy cơn hoảng loạn quay trở lại, và một nỗi buồn khổng lồ xâm chiếm lấy tôi. Tôi chạy vào phòng tắm và nôn liên tục, dù tôi nhận biết sâu sắc rằng nỗi cô đơn của tôi là một loại virus ẩn nấp trong cơ thể mình. Tôi nghĩ rằng tôi sẽ chết trong cô độc, và rằng chẳng có lý do tốt đẹp nào để mà tiếp tục sống nữa, và tôi nghĩ cái thế giới bình thường và chân thực mà tôi đã từng lớn lên, mà tôi tin rằng những người khác sống trong đó, sẽ chẳng bao giờ chấp nhận tôi. Và khi những phát hiện này ập vào đầu tôi như những viên đạn, tôi nôn ọe lên khắp sàn buồng tắm, và chất chua trong dịch vị dạ dày dâng lên trong thực quản tôi, và khi mà tôi cố hít thở, tôi lại hít vào dịch mật của mình. Tôi đã ăn rất nhiều để cố gắng lấy lại cân nặng, và tôi cảm thấy như thể tất cả số thức ăn đó đang dâng ngược lên, như thể dạ dày tôi đang lộn từ trong ra ngoài và tôi nằm rũ ra sàn nhà.
Tôi nằm trên sàn phòng tắm khoảng hai mươi phút, rồi bò ra ngoài và nằm xuống giường mình. Tâm trí tỉnh táo của tôi thấy rõ rằng tôi đã điên trở lại, và sự nhận thức ấy khiến tôi càng thêm mệt mỏi; nhưng tôi biết rằng việc để cho sự điên rồ này tự do phát tác là một ý tưởng tồi. Tôi cần phải nghe thấy giọng nói của người khác, dù chỉ chốc lát thôi, để có thể xuyên thủng nỗi cô đơn đáng sợ trong tôi. Tôi không muốn gọi cho cha bởi vì tôi biết rằng ông sẽ lại lo lắng, và bởi vì tôi hi vọng tình trạng này chỉ mang tính tạm thời. Tôi muốn nói chuyện với một ai đó có đầu óc lành mạnh và có thể an ủi mình (một sự thôi thúc tệ hại: những người điên mới là những người bạn tốt hơn khi mà ta ở trong trạng thái điên rồ; bởi vì họ biết cảm giác điên ấy là như thế nào). Tôi cầm lấy điện thoại và nhấn số gọi cho một trong những người bạn lớn tuổi nhất của mình. Hồi trước chúng tôi đã từng nói chuyện về việc dùng thuốc, về sự hoảng loạn, và bà ấy đã rất thông thái và phóng khoáng trong những câu trả lời của mình.
Tôi cứ nghĩ bà ấy có thể giúp tôi khơi gợi lại bản thể trước đây của mình. Lúc ấy đã là hai giờ rưỡi sáng. Chồng bà nghe điện thoại, và rồi đưa nó cho bà. “Xin chào?” bà nói. “Chào chị,” tôi trả lời, rồi dừng lại. “Có chuyện gì thế?” bà ấy hỏi. Rõ ràng là tôi không thể giải thích được chuyện gì đang xảy ra. Tôi chẳng có gì để nói. Rồi tôi nhận một cuộc gọi khác; đó là người đã đi xem phim cùng với tôi, gọi điện bởi vì anh ta nghĩ rằng đã đưa nhầm cho tôi chiều khóa cùng với tiền lẻ được thối lại khi chúng tôi mua lon soda. Tôi kiểm tra túi của mình và tìm thấy chùm chìa khóa của anh ấy. “Tôi phải cụp máy đây,” tôi nói với người bạn lớn tuổi của mình, và dập máy. Đêm ấy, tôi leo lên sân thượng và nhận thấy mặt trời đã ló lên và tôi cảm thấy buồn không thể tả và rằng chẳng thể nào, nếu như ta sống ở New York, lại có thể tự tử từ trên nóc của một tòa nhà sáu tầng.
Tôi không muốn ngồi trên mái nhà, dù tôi nhận thức được rằng nếu như tôi không cho phép bản thân mình có được sự nhẹ nhõm từ việc cân nhắc tới khả năng tự tử, thì bên trong con người tôi sẽ sớm nổ tung và tôi rồi sẽ tự tử thật. Tôi cảm thấy những xúc tua chết chóc của nỗi tuyệt vọng này đang quấn lấy tay chân mình. Rồi chẳng mấy chốc chúng sẽ quấn chặt lấy những ngón tay mà tôi cần dùng tới để uống thuốc hay để kéo cò súng, và khi tôi chết, chúng sẽ là chuyển động duy nhất còn sót lại. Tôi biết rằng tiếng nói lý trí (“Vì Chúa, hãy xuống dưới nhà đi!”) là tiếng nói lý trí, nhưng tôi cũng biết rằng bằng lý trí tôi sẽ phủ nhận mọi nguồn độc hại trong mình, và tôi cảm thấy có một sự tuyệt vọng ngất ngây kỳ lạ trước cái ý nghĩ về sự kết thúc. Nếu như tôi chỉ là một tờ giấy bỏ đi! Thì rồi tôi sẽ buông rơi bản thân mình thật lặng lẽ và sẽ thấy thật vui sướng về sự vắng mặt, vui mừng trong nấm mồ nếu như đó là nơi chốn duy nhất có thể cho phép một sự mừng vui nào đó.
Sự nhận biết của bản thân tôi rằng trầm cảm là thứ ủy mị và việc có thể cười được đã giúp tôi rời khỏi mái nhà. Cũng như là ý nghĩ về cha tôi, người đã quá vất vả vì tôi. Tôi không thể khiến mình tin đủ vào bất kỳ một thứ tình yêu nào đó để hình dung được sự ra đi của tôi sẽ được để tâm tới, nhưng tôi biết cha sẽ buồn ra sao khi đã phải cố gắng nhường ấy để cứu tôi mà chẳng thể thành công. Và tôi cứ nghĩ mãi về việc cắt thịt cừu cho ông vào một ngày nào đó, và tôi biết là tôi đã hứa làm điều đó, và tôi vẫn luôn tự hào về việc luôn giữ vững lời hứa của mình, và cha tôi cũng chưa bao giờ thất hứa với tôi cả, và rằng, rốt cuộc, đó là điều đã đưa tôi xuống cầu thang. Vào khoảng sáu giờ sáng, ướt sũng người vì mồ hôi và ở trong sương giá và bắt đầu phát sốt, tôi trở về căn hộ của mình. Tôi thật sự không muốn chết nhưng tôi cũng chẳng muốn sống thêm một chút nào nữa.
----------------
[1] trầm cảm nội sinh (endogenous depression): chứng trầm cảm diễn ra không phải do sự phản ứng trước một sự kiện hoặc kinh nghiệm đau buồn. Thể trầm cảm này có thời kỳ đầu tiến triển từ vài tuần đến vài tháng với các hiện tượng mất ngủ, mệt mỏi, giảm khí sắc, lo lắng đến sức khỏe và tương lai; thời kỳ toàn phát có 3 triệu chứng đặc trưng là ức chế cảm xúc, ức chế tư duy và ức chế vận động. Trầm cảm nội sinh có đặc điểm là biểu biện nặng lên vào buổi sáng và nhẹ đi về buổi tối, tiến triển thường xuất hiện từng giai đoạn, giữa các giai đoạn khí sắc bình ổn hoàn toàn, không làm biến đổi nhân cách và không đi đến sa sút tâm thần. Ngoài thể lâm sàng điển hình đã nêu trên, còn có các thể lâm sàng không điển hình được ghi nhận như: trầm cảm sững sờ, trầm cảm kích động, trầm cảm nghi bệnh, trầm cảm ám ảnh, trầm cảm hoang tưởng, trầm cảm ẩn, trầm cảm ở trẻ em...
[2] trầm cảm phản ứng (reactive depression) là một thể của trầm cảm tâm sinh. Trầm cảm phản ứng là một thể của loạn thần phản ứng với một hoạt động tâm thần có thể làm rối loạn đến mức mất tính toàn vẹn, tính thống nhất; có những rối loạn về hoạt động nhận thức, ý thức, tiếp xúc, hành vi.
[3] Asendin: một loại thuốc chống trầm cảm nặng
[4] Hannibal Lecter: nhân vật hư cấu trong series truyện trinh thám kinh dị của Thomas Harris, trrong đó tác phẩm Sự Im Lặng Của Bầy Cừu được nhiều người biết đến hơn cả. Lecter được giới thiệu lần đầu vào năm 1981 trong cuốn tiểu thuyết kinh dị Hình xăm Rồng Đỏ, là một bác sĩ tâm thần xuất sắc và là một kẻ ăn và giết người hàng loạt.
[5] locus coeruleus: vùng thân não liên quan đến các kích thích và cảm xúc
[6] norepinephrine: chất dẫn truyền thần kinh quan trọng điều chỉnh tâm trạng và hành vi
[7] Lucite: tên thương mại của Polymethyl methacrylate – kính acrylic, thủy tinh hữu cơ, nhựa acrylic hoặc thủy tinh acrylic.
Những điều đã cứu sống bạn có thể là tầm thường mà cũng có thể vô cùng lớn lao. Một trong số đó, chắc chắn, là cảm giác về sự riêng tư; việc tự sát cũng có nghĩa là phơi bày nỗi bất hạnh của bạn với cả thế giới này. Một người đàn ông nổi tiếng, vô cùng đẹp trai, thông minh, có hôn nhân hạnh phúc, có những tấm áp phích được dán trên tường của các cô bé nữ sinh trung học mà tôi biết, từng nói với tôi rằng ông đã trải qua những cơn trầm cảm trầm trọng ở độ tuổi hai mươi và đã nhiều lần suy nghĩ nghiêm túc đến việc tự tử. “Chỉ có lòng tự đại là đã cứu được tôi,” ông nói, khá thành thật. “Tôi không thể chịu đựng nổi cái ý nghĩ rằng sau này người đời sẽ nói về tôi rằng tôi không thể thành công, hay là tôi không thể đối mặt với sự thành công, hay cười nhạo tôi.” Những người nổi tiếng và thành công thường có khuynh hướng bị trầm cảm. Bởi vì thế giới này là không hoàn mỹ, những người cầu toàn thường có khuynh hướng bị thất vọng. Trầm cảm hạ thấp lòng tự trọng, nhưng trong nhiều tính cách, nó không hề xóa bỏ sự kiêu ngạo, mà cũng là một cơ chế chiến đấu tốt theo như tôi được biết. Khi mà bạn quá đỗi suy sụp đến mức tình yêu trở thành vô nghĩa, sự ngạo mạn và cảm giác về bổn phận là thứ cứu rỗi cuộc đời bạn.
Những hai ngày sau sự việc trên mái nhà tôi mới gọi điện cho người bạn lớn tuổi kia, người chỉ trích tôi vì đã đánh thức bà dậy và rồi biến mất. Khi bà quở trách, tôi bị áp đảo bởi một cảm giác kỳ lạ về cái cuộc đời mà tôi đang sống, mà tôi biết rằng tôi chẳng thể giải thích được. Đờ đẫn vì cơn sốt và sợ hãi, tôi chẳng nói gì. Bà không bao giờ còn thực sự nói chuyện với tôi nữa. Tôi sẽ nói về bà như là một người yêu thích sự bình thường, và tôi thì đã trở nên quá đỗi dị thường. Trầm cảm vô cùng hà khắc với bạn bè. Bạn khiến cho những gì là tiêu chuẩn của thế giới trở thành những yêu cầu vô lý từ họ, và thường thì họ không có được sự mềm dẻo hay linh hoạt hay sự hiểu biết hay thiên hướng để đối phó với nó. Nếu như bạn may mắn, một số người sẽ làm bạn ngạc nhiên trước khả năng thích nghi của họ. Bạn bày tỏ những gì mà bạn có thể và hi vọng. Dần dà, tôi học được cách chấp nhận mọi người theo đúng như con người họ. Một số người bạn có thể đối mặt trực tiếp với cơn trầm cảm nặng, còn một số khác thì không. Hầu như mọi người đều chẳng mấy thích thú với nỗi bất hạnh của người khác. Một số ít có thể chấp nhận được cái ý nghĩ về một chứng bệnh trầm cảm tách biệt hẳn với thực tại bên ngoài; trong khi nhiều người sẽ thích cho rằng nếu như bạn đang chịu đựng căn bệnh này, thì hẳn sẽ phải có giải pháp hợp lý và logic dành cho nó.
Phần lớn bạn bè thân thiết của tôi đều hơi bị điên. Mọi người nhìn nhận sự bộc trực ở tôi như là một lời mời gọi để họ cũng bộ lộ sự bộc trực của mình, và tôi có rất nhiều bạn bè mà tôi có thể tìm kiếm sự tin tưởng như thế nơi các bạn học và người tình cũ, sự thoải mái trong việc hiểu rõ về nhau. Tôi cố gắng cẩn trọng với những người bạn có tâm trí quá đỗi lành mạnh. Trầm cảm tự thân nó là một sự hủy hoại, và nó sinh ra những xung lực hủy diệt: tôi dễ dàng thất vọng trước những người không hiểu được nó và đôi khi phạm sai lầm vì nói thẳng vào mặt những ai làm tôi thất vọng. Sau mỗi một cơn trầm cảm, lại có một đống việc cần phải sửa chữa. Tôi nhớ tôi yêu quý những người bạn mà tôi đã từng nghĩ tới việc buông tay. Tôi cố gắng xây dựng lại những gì mà tôi đã phá hủy. Sau bất kỳ một cơn trầm cảm nào cũng là khoảng thời gian để gắn lại những mảnh vỏ trứng bị vỡ và đổ lại sữa vào trong chiếc hộp ban đầu của nó.
Vào mùa xuân năm 1995, giai đoạn cuối của việc phân tích tâm lý của tôi đã bị kéo dài. Bác sĩ của tôi đang dần dần thu xếp việc về hưu, và mặc dù tôi không muốn phải chia tay bà, tôi nhận thấy cái tiến trình từng bước một ấy thật là đau khổ, như thể chậm rãi lột ra từng mảng da vậy. Nó như là tái hiện lại cái chết kéo dài của mẹ tôi vậy. Tôi cuối cùng cũng tự mình kết thúc nó, một ngày nọ tôi đột ngột bước vào phòng khám và tuyên bố dõng dạc và rõ ràng rằng tôi sẽ không quay lại đấy nữa.
Qua phân tích tâm lý, tôi đã nghiên cứu về quá khứ của mình một cách chi tiết. Từ đó tôi kết luận rằng mẹ tôi cũng bị trầm cảm. Tôi còn nhớ có lần bà đã miêu tả về tình trạng cô độc của bà khi còn nhỏ. Khi trưởng thành bà là một người hay cáu kỉnh. Bà sử dụng chủ nghĩa thực dụng như một tấm khiên kiên cố nhằm che chắn bản thân trước nỗi buồn không kiểm soát được. Điều ấy, may mắn lắm, chỉ có hiệu quả một phần. Tôi tin rằng bà đã giữ mình khỏi bị cơn suy sụp tinh thần bằng cách kiểm soát và đưa cuộc sống của mình vào khuôn phép; bà là một người phụ nữ có tính kỷ luật tự giác vô cùng cao. Giờ thì tôi tin rằng tính kỷ luật mà bà may mắn có được được hình thành bởi nỗi đau mà bà đã che giấu trong lòng. Tôi thấy đau lòng trước những nỗi đau mà bà đã phải chịu đựng, thứ mà tôi gần như không phải chịu đựng – cuộc đời của bà, của chúng tôi, thực ra sẽ thay đổi như thế nào nếu thuốc Prozac ra đời khi mà tôi còn bé? Tôi thích nhìn thấy những biện pháp điều trị tốt hơn với ít tác dụng phụ hơn, nhưng tôi cũng thấy biết ơn vì được sống trong cái kỷ nguyên của những giải pháp này hơn là cái thời của sự tranh đấu u mê. Vì vậy mà rất nhiều kinh nghiệm sống của mẹ tôi về cách vượt qua khó khăn trong đời sống hóa ra lại là không cần thiết đối với tôi, và nếu như bà chỉ cần sống lâu hơn một chút nữa, thì nó hóa ra cũng sẽ không cần thiết với bà. Điều này có vẻ thật cay đắng khi mà hồi tưởng lại. Tôi tự hỏi, rất đỗi thường xuyên, bà sẽ nói gì về căn bệnh trầm cảm của tôi, liệu bà có nhận thấy được điều gì trong đó, liệu chúng tôi có cùng bị nhấn chìm trong cơn suy sụp của tôi – nhưng bởi vì cái chết của bà chí ít cũng là một phần nguyên nhân dẫn đến sự suy sụp này, tôi sẽ chẳng bao giờ biết được. Tôi thường không có những câu hỏi ấy cho tới khi tôi đã mất đi người mà tôi muốn hỏi. Tuy nhiên, tôi thấy ở mẹ mình hình mẫu của một người mà nỗi buồn luôn luôn ngự trị.
Khi tôi ngừng uống thuốc, tôi thực hiện điều này thật nhanh chóng. Tôi biết rằng như thế thật ngu ngốc, nhưng tôi chỉ mong không phải dùng tới thuốc nữa. Tôi nghĩ rằng tôi có thể tìm ra tôi là ai một lần nữa. Đó không phải là một chiến lược tốt. Đầu tiên, tôi chưa từng bao giờ trải qua bất cứ điều gì giống với những triệu chứng của việc ngưng sử dụng Xanax: tôi không thể ngủ an ổn, và tôi cảm thấy lo lắng và băn khoăn một cách kỳ lạ. Lúc nào tôi cũng cảm thấy như thể mình đã nốc hàng lít rượu cognac rẻ tiền vào đêm trước. Mắt tôi đau đớn và dạ dày tôi khó chịu, mà có lẽ đến từ việc ngừng sử dụng Paxil. Ban đêm, khi tôi không thể ngủ say, tôi liên tục gặp phải những cơn ác mộng khủng khiếp, và khi thức dậy tim tôi đập dữ dội. Nhà tâm thần dược học đã nhắc đi nhắc lại với tôi rằng khi mà tôi đã sẵn sàng để dừng uống thuốc, tôi cần phải làm điều đó thật từ từ và dưới sự giám sát của ông, nhưng quyết định của tôi dâng lên đột ngột và tôi sợ sẽ mất đi cái quyết tâm đó.
Tôi cảm thấy hơi giống với con người cũ của tôi, nhưng năm vừa qua quả thật tồi tệ, làm tôi chấn động sâu sắc, vì vậy dù lúc này đã bình thường trở lại, tôi cũng nhận ra rằng tôi chẳng thể nào như trước nữa. Điều này không có vẻ gì là phi lý, nó giống như một nỗi khiếp sợ hơn; nó cũng không phải là sự giận dữ; nó hoàn toàn có thể hiểu được. Tôi thấy đã quá đủ với cuộc đời, và tôi muốn tìm ra cách để kết thúc nó theo cách ít gây tổn thương nhất tới những người quanh mình. Tôi cần một điều gì đó mà tôi tin tưởng, một thứ gì đó để chỉ ra, để những con người ấy có thể hiểu được rằng tôi đã tuyệt vọng đến nhường nào. Tôi đã phải từ bỏ trở ngại vô hình vì một sự bày tỏ. Trong đầu tôi có một câu hỏi nhỏ rằng có phải hành vi cụ thể mà tôi lựa chọn là rất riêng biệt và liên quan tới chứng loạn thần kinh nơi tôi, nhưng cái quyết định về việc hành xử với nỗi khao khát được từ bỏ bản thân là điển hình của cơn trầm cảm kích động. Tất cả những gì tôi phải làm là bị bệnh, và điều ấy sẽ trở thành tấm vé được cho phép của tôi. Ao ước về một chứng bệnh hiển hiện hơn, mà sau này tôi được biết, là một điều rất phổ biến ở những người bị trầm cảm, những người thường tự gây tổn hại cho mình để trạng thái thể xác cũng ngang bằng với trạng thái tinh thần. Tôi biết rằng việc tôi tự vẫn sẽ hủy hoại gia đình tôi và mang đến nỗi buồn cho bạn bè tôi, nhưng tôi cảm thấy rằng họ sẽ hiểu cho lựa chọn của tôi.
Tôi không biết làm thế nào để khiến cho mình bị ung thư hay bị bệnh đa xơ cứng hay những chứng bệnh chết người khác, nhưng tôi biết rõ làm thế nào để bị AIDS, vì thế tôi đã quyết định sẽ làm vậy. Trong một công viên ở London, ở vào một giờ vắng lặng sau nửa đêm, một gã đàn ông thấp bé, mập mạp với đôi mắt kính gọng đồi mồi tiến tới và gạ gẫm tôi. Gã tụt quần mình và cúi xuống. Tôi xông tới. Tôi cảm thấy như thể toàn bộ điều này đang diễn ra với một ai đó khác; tôi nghe thấy tiếng chiếc kính của gã ta rơi xuống, và tôi chỉ nghĩ rằng: rồi tôi sẽ sớm chết, và vì thế mà tôi sẽ chẳng bao giờ già đi và trở nên đáng buồn như người đàn ông này. Có tiếng nói trong đầu tôi vang lên rằng tôi đã khởi động cái quá trình này và tôi sẽ chết sớm, và với cái ý nghĩ ấy tôi cảm thấy bản thân mình như được giải phóng và cảm thấy biết ơn. Tôi cố luận ra người đàn ông này sống như thế nào, làm sao mà ông ta có thể thức dậy và làm mọi việc vào ban ngày để có thể tới được đây vào ban đêm. Đó là một đêm trăng hạ huyền và khí xuân tràn ngập khắp đất trời.
Tôi không định chết từ từ vì bệnh AIDS; tôi chỉ muốn tự sát với việc bị nhiễm HIV như là một cái cớ. Về đến nhà, tôi bỗng nhiên cảm thấy sợ hãi và gọi cho một người bạn thân và kể với anh ấy về những gì mà tôi đã làm. Anh ấy an ủi tôi và tôi lên giường đi ngủ. Khi tôi thức dậy vào sáng hôm sau, tôi cảm thấy như những gì tôi đã từng cảm thấy vào ngày đầu tiên đi học đại học hay tham dự trại hè hay nhận một công việc mới. Đây hẳn phải là một chương mới trong cuộc đời tôi. Ăn xong trái cấm, tôi quyết định thưởng thức thêm món táo thắng nước đường. Sự kết thúc đã ở trong tầm tay. Tôi có một cảm giác mới mẻ về sự hiệu quả. Cái cơn trầm cảm cùng với sự chán nản vô mục đích đã biến mất. Trong vòng ba tháng tiếp theo, tôi tìm kiếm những trải nghiệm khác với những người lạ mà tôi cho là đã bị nhiễm bệnh, chấp nhận rủi ro trực tiếp và lớn hơn bao giờ hết. Tôi thấy rất tiếc khi mình chẳng có được một chút khoái cảm nào từ những lần giao hoan ấy, nhưng tôi lại quá bận tâm tới cái kế hoạch của mình để mà cảm thấy ghen tị với những kẻ có được nó. Tôi không bao giờ hỏi tên của những người đó, không bao giờ về nhà với họ hay mời họ tới nhà mình. Tôi đi hàng tuần, thường là vào thứ Tư, tới một địa điểm địa phương mà tôi sẽ có được trải nghiệm một cách kinh tế và sẽ dễ dàng bị lây nhiễm.
Trong khi ấy, tôi đã trải qua các triệu chứng điển hình của chứng trầm cảm kích động. Tôi bị lo lắng, mà hầu như chỉ có chút ít là hoảng loạn; thứ mà tôi cảm thấy nhiều hơn cả là sự hận thù, đau đớn, tội lỗi, căm ghét bản thân. Chưa bao giờ trong đời tôi cảm thấy tạm bợ đến thế. Tôi ngủ rất kém, và tôi vô cùng cáu kỉnh. Tôi ngừng nói chuyện với ít nhất là sáu người, trong đó có một người mà tôi nghĩ là tôi đã yêu người đó. Tôi dập mạnh điện thoại khi nghe thấy ai đó nói điều mà tôi không muốn nghe. Tôi chỉ trích tất cả mọi người. Thật khó ngủ khi đầu óc tôi cứ quay cuồng với những sự bất công nhỏ xíu từ trong quá khứ, mà giờ đây thành ra không thể tha thứ. Tôi không thể thực sự tập trung vào bất cứ điều gì: tôi thường là một người ham đọc vào mùa hè, nhưng mùa hè đó tôi còn chẳng thể đọc nổi một tờ tạp chí. Tôi bắt đầu giặt quần áo hàng đêm vì tôi không ngủ được, để giữ cho bản thân mình bận rộn và xao lãng. Khi bị muỗi đốt, tôi gãi vết ngứa cho tới khi chảy máu, rồi sau đó lại bóc lớp vảy ra; tôi cũng cắn móng tay nên ngón tay tôi lúc nào cũng chảy máu; tôi bị thương và trầy xước khắp mọi nơi trên cơ thể, dù tôi chẳng bao giờ tự rạch người mình. Tình huống của tôi khác xa nhiều so với triệu chứng sinh dưỡng[1] mà đã cấu thành nên cơn suy sụp tinh thần của tôi thuở trước, nên đối với tôi mà nói tôi thấy mình không rơi vào căn bệnh như lúc trước.
Rồi vào một ngày đầu tháng Mười, sau một trong những cuộc truy hoan thiếu an toàn mà chẳng vui vẻ gì, lần này là với một cậu nhóc theo chân tôi đến khách sạn và phát tín hiệu gạ tình trong thang máy, tôi nhận ra rằng tôi có thể sẽ lây bệnh cho người khác – một điều không nằm trong kế hoạch của tôi. Tôi bỗng nhiên phát hoảng rằng tôi đã lây bệnh cho một ai đó; tôi muốn tự sát, nhưng tôi không hề muốn cả thế giới này phải chết theo tôi. Tôi có khả năng nhiễm bệnh trong bốn tháng; tôi quan hệ không an toàn khoảng mười lăm lần; và giờ là lúc để dừng lại trước khi tôi lây bệnh khắp nơi. Việc biết rằng tôi sẽ chết cũng xua tan cơn trầm cảm và theo một cách thật lạ kỳ nó làm giảm mong muốn được chết trong tôi. Tôi bỏ lại đằng sau giai đoạn đó của cuộc đời mình. Tôi lại trở thành một kẻ lịch lãm hào hoa. Vào sinh nhật tuổi ba mươi hai của mình, tôi nhìn quanh quất nơi những người bạn tới dự buổi lễ, và tôi đã có thể mỉm cười, biết rằng đây sẽ là bữa tiệc sinh nhật cuối cùng, rằng tôi sẽ không còn một sinh nhật nào nữa, rằng tôi sẽ sớm chết. Việc ăn mừng thật mệt mỏi; tôi để mặc những món quà nằm yên trong lớp giấy bọc của chúng. Tôi tính toán xem mình sẽ phải chờ đợi thêm bao lâu nữa. Tôi đã viết một bức thư cho mình vào tháng Ba tới mà sẽ là sáu tháng kể từ lần quan hệ cuối cùng của tôi, khi mà tôi có thể lấy kết quả xét nghiệm, sự xác nhận dành cho số phận của tôi. Và trong suốt thời gian đó, tôi cố gắng hành xử thật bình thường.
Tôi làm việc cật lực trong một số dự án viết lách, tổ chức lễ Tạ ơn và Giáng sinh cho gia đình mình, và khá đa cảm trước những ngày lễ cuối cùng của cuộc đời. Rồi một vài tuần sau năm mới, tôi nhìn lại chi tiết những cuộc gặp gỡ của mình cùng với một người bạn là chuyên gia về HIV, và anh ấy bảo với tôi rằng tôi có thể không sao cả. Ban đầu tôi vô cùng thất vọng, nhưng rồi giai đoạn trầm cảm kích động của tôi biến mất, bất cứ điều gì đã dẫn tôi tới cái hành vi ấy, giờ đây cũng đã biến mất. Tôi không nghĩ rằng những trải nghiệm về HIV có tính cứu chuộc; thời gian chỉ đơn giản là trôi đi, chữa lành lối suy nghĩ bệnh hoạn đã đẩy tôi đến sự cực đoan ấy ngay từ điểm ban đầu. Trầm cảm, thứ sẽ đến bên bạn cùng với sức mạnh của một cơn suy sụp, từ từ rời đi, lặng lẽ. Cơn suy sụp tinh thần đầu tiên của tôi đã kết thúc.
Sự khăng khăng về tính bình thường, niềm tin vào một thứ logic nội tại khi đối mặt với sự bất thường không thể nhầm lẫn, là đặc hữu của chứng trầm cảm. Đây là câu chuyện của bất kỳ ai trong cuốn sách này, câu chuyện mà tôi đã gặp hết lần này đến lần khác. Tuy nhiên, trạng thái bình thường của mỗi người là hoàn toàn khác nhau: sự bình thường, mà có lẽ còn mang tính riêng biệt hơn cả tính khác thường. Bill Stein, một chuyên gia xuất bản mà tôi quen biết, đến từ một gia đình mà cả chứng trầm cảm và tổn thương về tinh thần đều ở vào tỷ lệ cao. Cha của anh, là một người Đức gốc Do Thái, rời Bavaria theo visa thương mại vào đầu năm 1938. Ông bà anh đã xếp hàng chờ tới lượt bên ngoài ngôi nhà của gia đình ở Kristallnacht, vào tháng Mười một năm 1938, và mặc dù họ không bị bắt, họ đã phải chứng kiến cảnh rất nhiều bạn bè và hàng xóm của mình bị đưa tới Dachau[2]. Cú sốc tinh thần của việc là một người Do Thái ở thời Đức quốc xã thật khủng khiếp, và bà của Bill bị suy sụp trong suốt sáu tháng, mà dẫn đến hành động tự vẫn của bà vào ngày lễ Giáng sinh. Tuần tiếp theo, thị thực xuất cảnh được cấp cho cả ông và bà của Bill. Cha của anh đã phải di cư một mình.
Cha mẹ Bill kết hôn ở Stockholm vào năm 1939 và chuyển tới Brazil trước khi định cư tại Mỹ. Cha anh luôn từ chối nói về quá khứ; “thời kỳ đó của nước Đức,” Bill kể lại, “đơn giản là không tồn tại.” Họ sống trên một con phố dễ thương ở vùng ngoại ô trù phú trong một thứ bong bóng hão huyền. Có lẽ một phần là bởi vì sự phủ nhận của bản thân, cha của Bill phải trải qua một cơn suy sụp tinh thần nghiêm trọng ở tuổi năm mươi bảy và đã tái phát liên tục cho tới tận khi ông qua đời ba mươi năm sau đó. Những cơn trầm cảm của ông tuân theo một trình tự mà sau này đã kế thừa lại cho con trai mình. Cơn suy sụp đầu tiên của ông diễn ra khi con trai ông tròn năm tuổi; ông tiếp tục bị suy sụp một cách định kỳ, với một cơn trầm cảm sâu kéo dài từ hồi Bill học lớp sáu cho tới tận khi anh tốt nghiệp trung học cơ sở.
Mẹ của Bill xuất thân từ một gia đình người Đức gốc Do Thái giàu có và quyền uy hơn nhiều và đã rời Đức để tới Stockholm vào năm 1919. Là một người phụ nữ có cá tính mạnh mẽ, bà từng tát vào mặt một tên đại úy Đức quốc xã hành xử thô lỗ với mình; “Tôi là một công dân Thụy Điển,” bà nói với hắn, “và tôi sẽ không để bị nói chuyện theo lối đó.”
Ở tuổi lên chín, Bill Stein đã trải qua những thời kỳ trầm cảm dài. Trong khoảng hai năm, anh luôn sợ hãi mỗi khi đi ngủ và hoảng loạn mỗi khi cha mẹ anh lên giường đi ngủ. Rồi cảm giác u ám của anh biến mất trong vài năm. Sau vài đợt phát bệnh nhỏ, chúng trở lại khi anh bước vào đại học, hoàn toàn mất kiểm soát vào năm 1974, trong suốt học kỳ thứ hai của năm đầu tiên. “Tôi có một người bạn cùng phòng khá bạo lực, và áp lực học tập thì rất lớn. Tôi cứ sợ rằng mình bị chứng khó thở,” anh kể lại, “Tôi không thể chịu được áp lực. Vì thế tôi đi tới bệnh xá của trường và họ cho tôi thuốc Valium.”
Cơn trầm cảm không biến mất trong mùa hè. “Thường thì khi tôi bị trầm cảm sâu, hệ tiêu hóa của tôi sẽ mất kiểm soát. Tôi nhớ mùa hè đó đặc biệt dữ dội theo cách này. Tôi khiếp sợ năm học thứ hai. Tôi không thể đối mặt với kỳ thi hay bất cứ điều gì. Khi tôi quay lại trường và vượt qua năm học đầu tiên và nhận điểm A, tôi thật sự nghĩ rằng hẳn ai đó đã nhầm lẫn gì rồi. Khi sự việc hóa ra không phải vậy, nó khiến tôi cảm thấy phấn khởi, và kéo tôi ra khỏi cơn trầm cảm.” Nếu như có những yếu tố kích thích cơn suy sụp tinh thần, thì cũng có cả những yếu tố tạo ra sự chuyển ngược, như trong trường hợp của Stein. “Tôi trở về trạng thái bình thường vào ngày hôm sau, tôi thực sự không bao giờ suy sụp ở trường nữa. Tuy nhiên, tôi thật sự đã mất hết tham vọng. Nếu như hồi đó anh nói với tôi về những gì tôi làm hiện giờ, về những con người mà tôi làm việc cùng, tôi sẽ rất sốc. Khi ấy tôi là kẻ không có tham vọng.” Bất kể việc chấp nhận sự rút lui của mình, Stein luôn nỗ lực điên cuồng. Anh tiếp tục được nhận điểm A. “Tôi không biết tại sao tôi lại bận tâm,” anh nói, “tôi không muốn học trường luật hay gì đó. Tôi chỉ nghĩ rằng có lẽ điểm cao sẽ giúp tôi an toàn, sẽ thuyết phục được tôi rằng tôi cũng có chút năng lực.” Sau khi tốt nghiệp, Stein dạy học ở một trường cấp ba công ở nông thôn New York. Đó là một thảm họa, anh chẳng thể quản nổi một lớp học và chỉ làm được công việc đó trong vòng một năm. “Tôi ra đi trong thất bại. Tôi sụt rất nhiều ký. Tôi rơi vào một cơn trầm cảm khác. Và rồi cha của một người bạn nói với tôi rằng ông có thể giới thiệu một công việc cho tôi, và tôi nhận lấy nó để cho có việc mà làm.”
Bill Stein là một người đàn ông trầm lặng, cực kỳ thông minh và có cái tôi bị kìm nén. Anh khiêm tốn đến mức gần như là một khiếm khuyết. Bill bị trầm cảm nhiều lần, mỗi lần kéo dài khoảng sáu tháng, gần như là theo mùa, thường trở nặng nhất vào tháng Tư. Cơn trầm cảm tồi tệ nhất diễn ra vào năm 1986, đến sớm bởi sự hỗn loạn trong công việc, sự ra đi của một người bạn thân, và nỗ lực ngừng sử dụng Xanax của Bill, thứ thuốc mà anh chỉ mới sử dụng trong vòng một tháng nhưng đã bị nghiện. “Tôi mất căn hộ của mình,” Stein kể. “Tôi mất việc, Tôi đã mất hầu hết bạn bè. Tôi không thể ở một mình trong nhà. Đáng lý ra tôi sẽ chuyển từ căn hộ hộ cũ mà tôi đã bán đến căn hộ vừa mới được sửa sang lại, nhưng tôi không thể. Tôi suy sụp nhanh chóng và nỗi lo lắng đánh bại tôi. Tôi sẽ thức dậy vào ba hay bốn giờ sáng với những cơn lo lắng dồn dập mãnh liệt đến mức tôi cảm thấy sẽ dễ chịu hơn nhiều nếu lao mình ra ngoài cửa sổ. Khi tôi ở bên những người khác, tôi luôn cảm thấy như thể sắp ngất đi vì căng thẳng. Tôi đã đi cả một vòng thế giới để đến được Australia, khá ổn, vào ba tháng trước đó, và lúc này đây thế giới đã cướp đi nó khỏi tay tôi. Tôi đang ở New Orleans khi căn bệnh thật sự ập tới và bỗng nhiên tôi biết rằng tôi cần phải về nhà, nhưng tôi không thể lên máy bay. Mọi người lợi dụng tôi; tôi là một con gia súc bị thương trên đồng cỏ.” Anh hoàn toàn suy sụp vào khi ấy. “Khi mà anh thực sự cảm thấy tồi tệ, anh sẽ có cái vẻ lờ đờ trên gương mặt mình, như thể anh đang bị choáng váng. Anh hành xử lạ lùng bởi vì sự thiếu trọn vẹn của mình; trí nhớ ngắn hạn của tôi biến mất. Và rồi nó còn trở nên tồi tệ hơn nữa. Tôi không thể kiểm soát hệ tiêu hóa của mình và đi cả ra quần. Rồi tôi sống trong sự sợ hãi rằng tôi sẽ không thể rời khỏi nhà, và đó lại là một cú sốc nữa. Cuối cùng, tôi lại dọn về nhà cha mẹ mình.” Nhưng cuộc sống ở nhà cũng chẳng tốt hơn. Cha của Bill suy sụp trước áp lực bệnh tật của con trai và rốt cuộc bản thân ông cụ cũng phải nhập viện. Bill đến ở với chị gái mình, rồi một người bạn từ thời đi học chăm sóc anh trong bảy tuần. “Điều đó thật kinh khủng,” anh nói. “Khi đó, tôi nghĩ, rằng tôi sẽ bị bệnh tâm thần trong suốt phần đời còn lại. Cơn suy sụp kéo dài hơn một năm. Dường như trôi nổi với cơn suy sụp thì tốt hơn là chiến đấu chống lại nó. Tôi nghĩ rằng khi ấy anh sẽ phải buông tay và hiểu rằng thế giới này sẽ được tái tạo lại và có lẽ sẽ chẳng bao giờ còn giống như những gì mà anh từng biết trước đó.”
Anh bước tới cửa một bệnh viện nhiều lần nhưng chẳng thể quyết tâm để đăng ký khám bệnh. Anh cuối cùng cũng xin khám tại Bệnh viện Mt. Sinai của New York vào tháng Chín năm 1986, và yêu cầu được trị liệu bằng liệu pháp co điện giật (electroconvulsive therapy – ECT). ECT đã giúp được cha của anh nhưng lại không hiệu quả với Stein. “Đó là chốn vô nhân tính nhất mà tôi có thể tưởng tượng ra, từ thế giới bên ngoài kia đi vào một nơi mà anh không được phép mang theo dao cạo râu hay cái bấm móng tay. Phải mặc quần áo bệnh nhân. Phải ăn tối lúc bốn rưỡi chiều. Bị rầy la như thể anh là một kẻ trì độn bên cạnh việc bị mắc căn bệnh trầm cảm. Nhìn thấy những bệnh nhân khác trong những căn buồng có tường lót đệm. Anh không được trang bị điện thoại trong phòng mình bởi vì người ta sợ rằng anh có thể tự treo cổ bằng dây điện thoại và bởi vì họ muốn kiểm soát việc anh tiếp cận với thế giới bên ngoài. Đây đâu phải là một sự nhập viện thông thường. Anh bị tước đoạt những quyền lợi của mình trên chiếc giường bệnh tâm thần này. Tôi không cho rằng bệnh viện là nơi thích hợp với các bệnh nhân trầm cảm trừ khi họ đã hoàn toàn bất lực hoặc muốn tìm đến giải pháp tự tử trong tuyệt vọng.”
Phương pháp điều trị sốc cũng thật khủng khiếp. “Người giám sát chúng tôi là một vị bác sĩ nhìn rất giống Herman Munster[3]. Việc điều trị diễn ra ở tầng hầm của bệnh viện Mt. Sinai. Tất cả bệnh nhân được điều trị theo phương pháp này đều đi xuống đó, vào trong địa ngục sâu thẳm, và tất cả chúng tôi đều khoác áo choàng ngủ, và có cảm giác như thể chúng tôi đang ở trong một giáo phái nào đó. Bởi vì tôi giữ bình tĩnh khá tốt, họ sắp xếp tôi là người được điều trị cuối cùng, và tôi đứng quanh quẩn ở đó cố gắng xoa dịu tất cả những người đang hoảng loạn chờ đến lượt mình, trong khi nhân viên giám sát bước vào và len qua chúng tôi để đi tới tủ đựng đồ của họ, mà cũng được đặt ở dưới đó. Nếu là Dante, tôi sẽ rất giỏi trong việc diễn tả điều này như thế nào. Tôi đã từng muốn được chữa trị bằng phương pháp ấy, nhưng căn phòng và những con người này – khiến tôi cảm thấy nó như là một cảnh man rợ trong thí nghiệm của Mengele[4]. Nếu như anh muốn làm những việc này, hãy thực hiện chúng trên tầng tám cùng với những ô cửa sổ có ánh nắng và những màu sắc tươi sáng! Giờ thì tôi sẽ không bao giờ cho phép điều đó xảy ra nữa.
“Tôi vẫn nuối tiếc trước việc mất ký ức,” anh nói. “Tôi có một trí nhớ đặc biệt, như là ảnh chụp, và nó không bao giờ quay trở lại. Khi rời khỏi đó, tôi chẳng thể nhớ được số khóa tủ của mình, và cả những cuộc nói chuyện.” Ban đầu, khi mới ra viện, anh cũng không thể nộp đơn tham gia công việc tình nguyện, nhưng không lâu sau anh lại có thể bắt đầu hoạt động trở lại. Anh chuyển tới Santa Fe trong sáu tháng và ở cùng một người bạn. Vào mùa hè anh quay trở về New York để sống một mình lần nữa. “Có lẽ cũng tốt khi một phần trí nhớ của tôi mất đi vĩnh viễn,” anh nói. “Nó giúp tôi quên đi một số cơn suy sụp tinh thần. Tôi quên chúng cũng dễ dàng như việc tôi quên mọi thứ khác.” Việc phục hồi diễn ra từ từ. “Có rất nhiều ý chí nhưng anh chẳng thể nào điều khiển quá trình hồi phục. Anh chẳng thể đoán được khi nào thì nó sẽ xảy ra, cũng giống như việc anh chẳng thể đoán khi nào thì một người sẽ qua đời.”
Stein thường ghé thăm một giáo đường của Do Thái giáo, đến đó hàng tuần cùng với một người bạn theo đạo. “Tôi về căn bản được tương trợ bởi đức tin. Theo một cách nào đó nó đã giải phóng sự căng thẳng trong tôi để tin vào một điều gì đó khác,” anh nói. “Tôi vẫn luôn tự hào là một người Do Thái và bị thu hút bởi những điều liên quan đến tôn giáo. Sau cơn trầm cảm lớn ấy, tôi cảm thấy rằng nếu tôi đủ tin tưởng, những gì có thể xảy ra có lẽ sẽ cứu được thế giới này. Tôi đã chìm sâu đến mức chẳng còn gì để tin vào nữa ngoại trừ Chúa trời. Tôi khá xấu hổ khi phát hiện ra mình bị cuốn vào tôn giáo; nhưng đó là một điều đúng. Đúng là dù cho một tuần có tồi tệ ra sao, thì vẫn luôn có buổi hành lễ vào mỗi ngày thứ Sáu.
“Nhưng mà thứ đã cứu tôi lại là Prazac, ra đời vào năm 1988, vừa đúng lúc. Đó đúng là một phép nhiệm màu. Đầu óc tôi bỗng nhiên cảm thấy, sau rất nhiều năm, như thể chưa từng có một vết rạn ngày một lớn trong đó vậy. Nếu như anh bảo với tôi vào năm 1987 rằng vào năm sau tôi sẽ có thể đi máy bay, làm việc với các thống đốc và thượng nghị sĩ - ôi, có lẽ tôi sẽ thấy buồn cười lắm. Tôi khi ấy thậm chí còn chẳng thể sang đường nữa kia.” Bill Stein hiện nay đang dùng Effexor và lithium. “Sợ hãi lớn nhất trong đời tôi là tôi không thể vượt qua cái chết của cha mình. Ông cụ mất năm chín mươi tuổi, và khi ông mất, tôi gần như phấn khích khi phát hiện ra rằng tôi có thể đối mặt với nó. Tôi đã đau khổ và đã khóc, nhưng tôi có thể làm được những việc bình thường: đóng vai một người con trai trong gia đình, nói chuyện với luật sư, viết điếu văn. Tôi đối mặt với điều đó tốt hơn nhiều so với tưởng tượng của tôi.
“Tôi vẫn phải thật cẩn thận. Tôi luôn cảm thấy như thể mọi người đều muốn một phần từ con người tôi vậy. Chừng ấy là quá nhiều để tôi có thể cho đi và rồi tôi sẽ thật sự, thật sự căng thẳng. Tôi nghĩ, có lẽ thật sai lầm, rằng mọi người sẽ coi thường tôi nếu như tôi hoàn toàn cởi mở về những trải nghiệm của đời mình. Tôi vẫn còn nhớ về việc từng bị xa lánh. Cuộc đời luôn nằm trên bờ vực chỉ chực rơi xuống một lần nữa. Tôi đã học được cách để che giấu nó, để khiến cho không một ai biết được khi nào thì tôi đang phải sử dụng tới ba loại thuốc và sắp gục ngã đến nơi. Tôi không nghĩ rằng mình đã từng cảm thấy thật sự hạnh phúc. Người ta chỉ có thể mong đợi rằng cuộc sống không khốn khổ. Khi mà anh cực kỳ có ý thức về bản thân, thật khó để có thể hạnh phúc trọn vẹn. Tôi thích môn bóng chày. Và khi tôi nhìn thấy những người khác ở sân vận động, uống bia, dường như không nhận biết gì về bản thân mình và mối tương quan của họ với thế giới này, tôi thấy thật ghen tị. Trời ơi, giá mà được như vậy thì tốt biết bao!
“Tôi cứ luôn nghĩ đến những tấm thị thực xuất cảnh đó. Nếu như bà tôi chỉ cần đợi thêm một chút nữa thôi. Câu chuyện về sự tự vẫn của bà đã dạy cho tôi về sự nhẫn nại. Không phải nghi ngờ gì về việc dù mọi chuyện có lại trở nên tồi tệ đến nhường nào, tôi sẽ vượt qua được nó. Nhưng tôi sẽ không phải là con người tôi của ngày hôm nay nếu không có được sự thông thái mà tôi gặt hái được sau những gì mình dã kinh qua, sự rụng rời của cái sự vị kỷ mà chúng mang đến cho tôi.”
Câu chuyện của Bill Stein tương đối tác động đến tôi. Tôi đã thường nghĩ về những tấm thị thực xuất cảnh kể từ khi gặp Bill lần đầu tiên. Tôi nghĩ về cái thị thực không bao giờ được dùng tới, và đồng thời, cả về tấm thị thực đã được dùng tới nữa. Việc vượt qua cơn trầm cảm đầu tiên của tôi liên quan tới việc kiên trì cố gắng. Một thời gian ngắn của sự yên bình vừa phải đến ngay sau đó. Khi tôi bắt đầu trải qua lo lắng và cơn trầm cảm lần thứ hai – trong khi tôi vẫn ở trong bóng tối của cơn trầm cảm đầu tiên và vẫn chưa rõ sự ám ảnh của mình với căn bệnh AIDS từ bỏ tôi từ đâu – tôi nhận ra được điều gì đang xảy ra. Tôi bị choáng ngợp với cái nhu cầu cần phải dừng lại. Đời sống tự thân nó dường như trở nên cấp thiết đến đáng lo ngại, đòi hỏi cái tôi quá nhiều. Quá khó khăn để có thể ghi nhớ và suy nghĩ và bày tỏ và thấu hiểu – tất cả những gì mà tôi muốn mình có thể làm được khi đó là nói chuyện. Để giữ cho gương mặt tôi có sinh khí cùng lúc cũng là một sự xúc phạm thêm tới vết thương. Giống như thể là việc cố gắng nấu ăn và trượt pa-tanh và hát hò và đánh máy trong cùng một lúc. Nhà thơ người Nga Daniil Kharms từng miêu tả về cơn đói: “Rồi bắt đầu sự yếu ớt. Rồi bắt đầu sự khó chịu. Rồi tiếp đó là việc mất đi khả năng suy luận nhanh chóng. Rồi tới sự an tĩnh. Và rồi là nỗi kinh hoàng.” Cũng trong tình trạng khủng khiếp và logic tương tự, cơn trầm cảm thứ hai xuất hiện – bị làm cho tệ thêm bởi nỗi sợ hãi về xét nghiệm HIV mà tôi đã lên lịch hẹn. Tôi không muốn quay lại dùng thuốc, và trong một thời gian tôi cố gắng không sử dụng nó. Rồi một ngày tôi nhận ra việc này không hề hiệu quả. Tôi biết trước những ba ngày rằng tôi sẽ rơi xuống đáy vực. Tôi bắt đầu dùng Paxil mà tôi cất sẵn trong tủ thuốc của mình. Tôi gọi điện cho nhà tâm thần dược học của mình. Tôi cảnh báo cha mình. Tôi cố gắng tiến hành sắp xếp mọi việc cho hợp lý: việc đánh mất tâm trí, cũng giống như việc bạn đánh mất chìa khóa xe vậy, thật sự rất khó chịu. Ngoài sự hoảng loạn, tôi nghe thấy tiếng mình đầy mỉa mai khi một người bạn gọi đến. “Tôi xin lỗi, tôi phải hủy cuộc hẹn thứ Ba tới thôi,” tôi nói. “Tôi lại thấy sợ những miếng thịt cừu rồi.” Các triệu chứng ập tới chóng vánh và đáng ngại. Trong vòng một tháng, tôi mất tới một phần năm trọng lượng cơ thể, khoảng ba mươi nhăm pound.
Nhà tâm thần dược học nghĩ rằng, bởi vì tôi cảm thấy mê sảng với Zoloft và căng thẳng với Paxil, nên đáng để thử một thứ gì đó mới, vì thế ông kê cho tôi Effexor và BuSpar, cả hai loại thuốc này tôi vẫn còn sử dụng cho tới tận bây giờ, sau sáu năm. Trong những cơn vật lộn với trầm cảm, một người có thể tiến tới một điểm kỳ lạ mà tại đó không thể nhìn thấy lằn ranh giữa tính cường điệu của bản thân và thực tế của sự điên rồ. Tôi đã nhận ra hai đặc điểm mâu thuẫn ấy của tính cách. Tôi là kẻ cường điệu về mặt bản chất; nhưng mặt khác, tôi có thể ra ngoài kia và “ra vẻ bình thường” dưới hầu hết các tình huống khác thường. Antonin Artaud từng viết trên một bức tranh của mình rằng, “Không bao giờ thật và luôn đúng,” là những gì mà trầm cảm mang lại. Bạn biết rằng nó không phải là thật, rằng bạn là một con người khác, nhưng bạn cũng biết rằng nó hoàn toàn đúng. Điều đó thật khó hiểu.
Vào tuần làm xét nghiệm HIV, tôi đã dùng mười hai đến mười sáu mg. Xanax (tôi đã tích trữ thêm một ít thứ thuốc này) mỗi ngày, để có thể ngủ vào mọi lúc và để không phải cảm thấy lo lắng. Vào ngày thứ Năm của tuần đó, tôi thức dậy và kiểm tra các tin nhắn trong hộp thoại. Y tá của phòng xét nghiệm nhắn tôi rằng: “Lượng cholesterol của anh đang thấp, điện tâm đồ bình thường, và xét nghiệm HIV của anh ổn.” Tôi gọi lại cho cô ấy ngay lập tức. Thông tin chính xác. Tôi có kết quả âm tính với HIV. Như Gatsby từng nói, “Tôi đã rất cố gắng để chết nhưng lại có một cuộc sống đầy mê hoặc.” Rồi sau đó tôi biết rằng tôi thực muốn sống, và tôi thấy biết ơn vì cái tin tức ấy. Nhưng tôi vẫn còn cảm thấy kinh khủng thêm hai tháng nữa. Tôi cắn răng chống lại ý muốn tự tử mỗi ngày.
Rồi, vào tháng Bảy, tôi quyết định nhận lời mời du lịch tàu biển với vài người bạn tới Thổ Nhĩ Kỳ. Với tôi việc đến đó sẽ rẻ hơn nhiều so với nhập viện, và nó ít nhất cũng ba lần hiệu quả hơn: dưới ánh mặt trời rực rỡ của Thổ Nhĩ Kỳ, cơn trầm cảm đã bốc hơi. Mọi thứ từ từ trở nên tốt đẹp hơn sau đó. Vào cuối mùa thu, tôi bỗng nhiên nhận ra mình thức giấc giữa đêm khuya, cả người tôi run rẩy, như khi tôi ở trong thời điểm tệ hại nhất của cơn trầm cảm của mình, nhưng lần này tôi thức dậy với niềm hạnh phúc. Tôi rời khỏi giường và viết về nó. Đã nhiều năm trôi qua kể từ khi tôi cảm thấy hạnh phúc, và tôi đã quên mất cái cảm giác muốn sống là như thế nào, cái cảm giác được tận hưởng một ngày mà ta đang sống và khao khát mong chờ đến ngày tiếp theo, khi biết rằng ta là một trong những kẻ may mắn vẫn còn có cuộc đời để mà sống. Cũng như là chiếc cầu vồng giao ước mà Chúa ban cho Noah, tôi cảm thấy mình có bằng chứng rằng sự tồn tại đã và sẽ luôn đáng giá. Tôi biết rằng cơn đau này có thể sẽ còn tiếp diễn, rằng trầm cảm có tính chu kỳ và sẽ quay trở lại để làm khổ sở bệnh nhân của nó hết lần này tới lần khác. Tôi cảm thấy an toàn trước bản thân mình. Tôi biết rằng nỗi buồn bất tận, dù có rất nhiều trong tôi, cũng không hề làm giảm niềm hạnh phúc. Tôi bước sang tuổi ba mươi ba không lâu sau đó, và cuối cùng thì đấy cũng là một sinh nhật thật sự vui vẻ.
Đó là tất cả những gì tôi học được từ chứng trầm cảm của mình qua một thời gian dài. Như nhà thơ Jane Kenyon từng viết:
Chúng tôi thử dùng thuốc mới, một sự kết hợp mới
của các loại thuốc, và bỗng nhiên
tôi lại rơi vào cuộc đời mình
như một chú chuột đồng bị cuốn đi trong gió bão
rồi bị thả xuống cách nhà mình
ba thung lũng và hai ngọn núi.
Tôi đã có thể tìm được đường về. Tôi biết
tôi sẽ nhận ra cửa hàng
nơi tôi từng mua sữa và dầu.
Tôi nhớ nhà và chuồng trại
cái cào, những chiếc cốc và cái đĩa màu xanh
cuốn tiểu thuyết của Nga mà tôi yêu thích,
và chiếc váy ngủ bằng lụa màu đen
mà anh từng thả
xuống bàn chân đi vớ của tôi.
------------------
[1] triệu chứng sinh dưỡng (vegetative symptom): mất khẩu vị, mất khả năng cảm nhận khoái lạc, khó ngủ, táo bón
[2] Trại tập trung Dachau (tiếng Đức: Konzentrationslager (kz) Dachau) là trại tập trung đầu tiên do Đức Quốc xã mở tại Đức, nằm trên phần đất của một nhà máy sản xuất đạn dược bị bỏ hoang gần thị trấn thời Trung cổ Dachau, khoảng 16 km phía tây bắc của Munich ở bang Bayern, nằm ở miền nam nước Đức. Trại tập trung Dachau có vai trò như là một nguyên mẫu và mô hình cho các trại tập trung Đức Quốc xã khác sau đó.
[3] Herman Munster: một nhân vật hư cấu trong bộ phim hài The Munster của đài CBS. Nhân vật này có diện mạo gần giống Frankenstein
[4] Josef Mengele (16/3/1911 – 7/2/1979) là một sĩ quan Schutzstaffel (SS) người Đức và cũng là một bác sĩ ở Trại tập trung Auschwitz trong chiến tranh thế giới thứ hai. Mengele khét tiếng về việc lựa chọn những nạn nhân để tiêu diệt tại các phòng hơi ngạt và thực hiện các thí nghiệm trên người lên các tù nhân. Sau chiến tranh, Mengele bỏ trốn đến Nam Mỹ và trốn tránh khỏi sự truy lùng trong suốt phần đời còn lại.
Và đối với tôi mọi thứ dường như đã quay trở lại, ban đầu thật lạ lùng, rồi bỗng nhiên trở nên quen thuộc, và tôi nhận ra rằng một nỗi buồn sâu sắc đã được nhen nhóm kể từ khi mẹ tôi bị bệnh, trở nên tồi tề hơn khi bà qua đời, đã biến nỗi đau khổ thành tuyệt vọng, đã khiến tôi bất lực, sẽ không còn tàn phá tôi được nữa. Tôi vẫn còn thấy buồn về những chuyện buồn, nhưng tôi lại là chính tôi, như đã từng trước đó, vì tôi luôn muốn được sống.
Bởi vì tôi đang viết một cuốn sách về trầm cảm, trong những tình huống xã hội tôi thường được yêu cầu mô tả lại trải nghiệm của bản thân trước căn bệnh, và tôi thường kết thúc bằng việc nói rằng tôi đang dùng thuốc. “Vẫn phải dùng à?” mọi người hỏi. “Nhưng anh trông có vẻ ổn mà!” Và tôi lúc nào cũng trả lời rằng tôi nom có vẻ ổn là bởi vì tôi ổn, và tôi ổn một phần là bởi vì thuốc. “Vậy anh định sẽ dùng thuốc trong bao lâu?” người ta hỏi. Khi tôi nói rằng tôi không biết sẽ phải sử dụng chúng đến bao giờ, những con người từng đối mặt một cách bình tĩnh và đầy cảm thông trước những tin tức về nỗ lực tự tử, rối loạn tâm lý, mất việc làm trong nhiều năm, sụt cân đáng kể, vân vân và vân vân sẽ nhìn tôi đầy hoảng hốt. “Nhưng uống thuốc như thế thì rất tệ,” họ nói. “Chắc chắc là hiện tại anh đã đủ khỏe để ngưng sử dụng những thứ thuốc ấy!” Nếu như bạn nói với họ rằng điều đó giống như việc loại bỏ bộ chế hòa khí ra khỏi xe của bạn hay tháo các cột trụ ra khỏi Nhà thờ Đức bà Paris vậy, thì họ sẽ bật cười. “Vậy thì có lẽ anh nên duy trì một liều lượng thấp thôi?” họ hỏi. Bạn giải thích rằng lượng thuốc bạn uống đã được lựa chọn bởi vì nó giúp bình thường hóa những hệ thống hoạt động chập chờn, và một liều thấp cũng giống như là việc tháo ra một nửa bộ chế hòa khí của xe vậy. Bạn thêm vào rằng bạn hầu như không gặp phải tác dụng phụ nào từ loại thuốc mà bạn đang sử dụng, và không có bằng chứng nào về tác dụng tiêu cực của việc dùng thuốc dài hạn hết cả. Bạn nói rằng bạn thật sự không muốn trở bệnh nữa. Nhưng sự khỏe mạnh, về mặt này, không chỉ liên quan tới khả năng kiểm soát được vấn đề của bản thân bạn, mà còn cả ở việc ngưng dùng thuốc nữa. “Ồ, tôi mong rằng anh sẽ sớm ngưng dùng thuốc,” họ nói.
“Có lẽ tôi không biết được tác động chính xác của việc dùng thuốc trong thời gian dài,” John Greden nói. “Chưa có ai từng dùng Prozac suốt tám mươi năm cả. Nhưng chắc chắn là tôi biết tác hại của việc không dùng thuốc, hay việc dùng thuốc ngắt quãng, hay là việc cố gắng giảm liều thuốc thích hợp ở một mức độ bất hợp lý – và những tác động đó sẽ gây tổn hại đến bộ não. Anh sẽ bắt đầu phải chịu những hậu quả mãn tính. Anh sẽ có những đợt tái phát ngày càng nghiêm trọng, với mức độ đau khổ khủng khiếp mà không vì lý do gì cả. Chúng ta không bao giờ điều trị bệnh tiểu đường hay huyết áp cao theo cái cách chữa rồi lại ngừng; vậy thì tại sao chúng ta lại làm thế với bệnh trầm cảm? Cái áp lực xã hội kỳ cục này đến từ đâu thế? Chứng bệnh này có tỷ lệ tái phát lên đến tám mươi phần trăm trong vòng một năm nếu không dùng thuốc, và có tỷ lệ khỏe mạnh lên tới tám mươi phần trăm nếu như dùng thuốc.” Robert Post, thuộc NIMH, đồng tình, “Mọi người lo lắng về những tác dụng phụ của việc dùng thuốc cả đời, nhưng những tác dụng phụ ấy có vẻ ít ỏi, vô cùng ít ỏi nếu đem so sánh với khả năng có thể gây chết người nếu xem nhẹ bệnh trầm cảm. Nếu như anh có người quen hay bệnh nhân đang sử dụng mao địa hoàng[1], anh sẽ nghĩ gì về việc khuyên người đó ngừng sử dụng nó, xem người đó có bị lên cơn nhồi máu cơ tim khác hay không, và khiến cho trái tim của người đó yếu đến mức nó không còn hoạt động như trước được nữa? Điều này cũng chẳng có gì khác cả.” Những tác dụng phụ của các loại thuốc này chỉ đáng kể với những ai khỏe mạnh hơn nhiều so với căn bệnh mà họ nói đến.
Có bằng chứng về việc con người ta có phản ứng dữ dội trước mọi thứ: chắc chắn là rất nhiều người có phản ứng mạnh với Prozac. Một mức độ thận trọng nhất định là hoàn toàn hợp lý khi bạn quyết định sử dụng một thứ gì đó, từ nấm dại cho tới thuốc ho. Một trong những đứa con nuôi của tôi suýt chết vì ăn phải quả óc chó trong một bữa tiệc sinh nhật ở London vì bị dị ứng; quy định yêu cầu các sản phẩm phải liệt kê chi tiết trên nhãn mác tất cả các loại hạt có trong sản phẩm là một điều đúng đắn. Những người sử dụng Prozac nên để ý ngay từ đầu về những phản ứng mạnh của cơ thể mình trước thuốc. Loại thuốc này có thể gây ra chứng giật mặt và căng cơ. Các loại thuốc chống trầm cảm cũng mang đến câu hỏi về việc nghiện thuốc, mà tôi sẽ đề cập ở phần sau của cuốn sách. Giảm ham muốn tình dục, có những giấc mơ lạ, và những tác dụng khác được nhắc đến trên nhãn của SSRI có lẽ là vô cùng khổ sở. Tôi thấy lo lắng trước những báo cáo rằng một số loại thuốc chống trầm cảm có thể liên quan đến việc tự tử; tôi tin rằng điều này liên quan đến việc chất lượng cho phép của các loại thuốc, bởi vì nó có thể giúp ai đó làm điều mà trước đây anh ta quá suy nhược để có thể thực hiện. Tôi thừa nhận rằng chúng ta không thể biết được chắc chắn về tác dụng dài hạn của các loại thuốc. Tuy nhiên, điều đáng tiếc là một số nhà khoa học đã chọn cách tận dụng những phản ứng bất lợi này để tạo nên một ngành công nghiệp của những kẻ phỉ báng Prozac, những kẻ xuyên tạc thứ thuốc này như một thứ hiểm họa chết người với công chúng vô tội. Trong một thế giới lý tưởng, sẽ không một ai phải dùng đến bất kỳ loại thuốc nào và cơ thể sẽ có khả năng tự chữa lành; nếu thế thì ai mà muốn uống thuốc kia chứ? Nhưng những sự quả quyết lố bịch kiểu ấy đã tạo nên một cuốn sách ngớ ngẩn như là Prozac Backlash[2] không thể làm được gì hơn ngoài việc gây nhiễu loạn và tạo nên nỗi hoảng sợ không cần thiết nơi một độc giả đang sợ hãi. Tôi thấy xót xa trước việc những kẻ chỉ trích cứ ngăn cản những bệnh nhân khổ sở khỏi những phương pháp điều trị cần thiết vô hại để được trở về với cuộc sống của mình.
Cũng giống như sinh con, trầm cảm là một sự đau đớn khủng khiếp đến mức không thể tưởng tượng được. Chứng bệnh này của tôi đã không phát triển thêm cho tới khi mối quan hệ tình cảm của tôi kết thúc tệ hại vào mùa đông năm 1997. Đấy là một sự chọc thủng phòng tuyến, như tôi từng nói với một người, rằng đừng để bị suy sụp khi chia tay. Nhưng bạn sẽ không bao giờ còn như trước nữa một khi bạn nhận thức được rằng không có bản ngã nào mà không sụp đổ. Chúng ta được bảo rằng hãy học cách tự chủ, nhưng điều ấy thật khó mà thực hiện khi bạn không có được một bản thể để mà tin tưởng vào. Những người khác đã giúp đỡ tôi, và có một số hóa chất đã giúp thực hiện việc điều chỉnh lại này, và tôi cảm thấy ổn với tất cả những điều ấy ở vào thời điểm này, nhưng những cơn ác mộng lặp đi lặp lại không còn là những điều sẽ xảy ra với tôi, những điều xảy ra bởi các yếu tố bên ngoài, mà là những điều xảy ra trong tôi. Sẽ thế nào nếu một mai tôi thức dậy và không còn là mình nữa mà là một con bọ hung? Mỗi buổi sáng đều bắt đầu như thế - với một sự vô định đến khó thở về việc tôi là ai, với sự kiểm tra về những căn bệnh ung thư dường như chẳng bao giờ xuất hiện, với một nỗi lo lắng nhất thời rằng liệu những ác mộng kia có trở thành sự thật. Cứ như thể bản thể của tôi quay lại và nhổ nước bọt vào mặt tôi và nói, đừng có thúc giục, đừng có cậy vào tôi quá, tôi cũng có vấn đề của mình cần phải lo lắng. Nhưng vậy thì ai là người đã phủ nhận sự điên loạn và đau đớn ở đây? Ai là người nhổ nước bọt vào ai? Tôi đã mất nhiều năm để tiến hành trị liệu tâm lý và sống và yêu và mất mát, và thú thật, đến giờ tôi vẫn chẳng biết. Có ai đó hay thứ gì đó tồn tại mà mạnh mẽ hơn cả những hóa chất hay ý chí kia, một cái tôi đã đưa tôi vượt qua sự chán ghét bản thể tôi, một cái tôi thuộc thành viên công đoàn vẫn nhất quyết bám trụ cho tới khi những hóa chất nổi loạn và những ý tưởng hệ quả của nó được đưa trở lại đường ngay. Liệu đó có phải là một bản thể của những hóa chất không? Tôi không phải là người theo thuyết duy linh và tôi lớn lên không theo tôn giáo, nhưng cái chất đặc quánh chảy trong cơ thể tôi ấy, lại càng chảy nhanh hơn khi bản thể của tôi bị xé ra thành từng mảnh khỏi chính nó: những người từng sống sót qua điều này đều biết rằng nó chẳng bao giờ đơn giản như những đặc tính hóa học phức tạp cả.
Một người có được lợi thế trong suốt thời kỳ suy sụp của mình vì đã ở trong đó, nơi mà người đó có thể thấy được những gì đang diễn ra. Từ bên ngoài, người ta chỉ có thể đoán định; nhưng bởi vì trầm cảm mang tính chu kỳ, có thể sẽ hữu ích khi học cách kiên trì chịu đựng và thừa nhận. Eve Kahn, một người bạn của tôi, kể cho tôi về những mất mát mà căn bệnh trầm cảm của cha chị gây ra cho gia đình: “Cha tôi đã có một cuộc đời vất vả, khởi đầu từ rất sớm. Ông nội tôi đã mất, và bà nội cấm không được theo đuổi tôn giáo trong nhà. Bà nói rằng, nếu như Chúa có thể cướp đi chồng của ta và để lại cho ta bốn đứa con như thế này, thì chẳng có Chúa nào hết cả. Và bà bắt đầu chuẩn bị món tôm và thịt lợn muối vào mọi ngày lễ của người Do Thái! Những cái đĩa đầy tôm và thịt lợn muối! Cha của tôi cao một thước chín, nặng hai trăm hai mươi pound, và chưa từng thua trong các trận đấu bóng ném cũng như là bóng chày và bóng bầu dục tại trường đại học, loại người mà anh không thể hình dung nổi là rất mong manh. Ông trở thành một bác sĩ tâm lý. Rồi, tôi đoán khi ông khoảng ba mươi tám tuổi, thật ra thì trình tự của mọi việc không được chính xác bởi vì mẹ tôi không muốn nói về nó và cha tôi không thực sự nhớ được nó và khi chuyện ấy bắt đầu thì tôi mới còn là đứa trẻ lên ba – một ngày nọ có ai đó ở bệnh viện nơi ông làm việc gọi cho mẹ tôi và nói rằng cha tôi đã biến mất, đã rời chỗ làm, và họ không biết ông ấy ở đâu. Vì vậy mà mẹ lôi tất cả chúng tôi ra xe và lái vòng quanh cho tới khi chúng tôi tìm thấy ông đang dựa vào một cái thùng thư và khóc. Ngay sau đó ông ấy được điều trị bằng phương pháp xung điện (ECT), và khi họ điều trị xong cho ông, họ bảo với mẹ tôi rằng hãy ly dị ông đi bởi vì ông sẽ không bao giờ còn như trước nữa. ‘Các con của bà sẽ không nhận ra ông ấy nữa,’ họ nói. Dù vậy bà không thực sự tin lời của họ, bà ngồi trong xe và khóc trong lúc lái xe về nhà sau cuộc điều trị. Khi ông thức dậy, ông giống như một phiên bản copy của chính mình. Một chút mơ hồ, trí nhớ không tốt, thận trọng với chính mình hơn, ít quan tâm tới chúng tôi hơn. Hồi chúng tôi còn nhỏ xíu, ông là một người cha vô cùng tận tâm – luôn về nhà sớm để xem chúng tôi học được gì ở trường vào ngày hôm đó và luôn mua đồ chơi cho chúng tôi. Sau ECT, ông có hơi xa cách. Và rồi sự việc lại diễn ra lần nữa vào bốn năm sau đó. Họ cố gắng sử dụng các loại thuốc và thực hiện ECT nhiều lần hơn. Ông phải nghỉ việc một thời gian. Hầu hết thời gian tâm trạng của ông rất xấu. Không còn có thể nhận ra gương mặt của ông nữa; chiếc cằm của ông đã thụt sâu vào khuôn mặt. Ông sẽ rời khỏi giường và gần như là lẩn thẩn đi quanh nhà với đôi tay run rẩy, đôi bàn tay rộng lớn ấy chỉ còn treo lơ lửng ở đó bên cơ thể ông. Anh đã từng nghe những câu chuyện về quỷ nhập thể chưa, bởi vì hẳn phải có kẻ nào đó đã chiếm lấy thân xác của cha tôi. Tôi khi ấy mới năm tuổi và tôi có thể thấy được điều đó. Ông trông vẫn vậy nhưng tôi cảm giác như thể không có ai ở nhà cả.
“Rồi ông ấy có vẻ khỏe hơn và có một giai đoạn ở vào trạng thái tuyệt vời trong khoảng hai năm, và rồi ông lại suy sụp. Và rồi ông cứ suy sụp và suy sụp mãi. Đôi khi ông khá hơn rồi suy sụp trở lại, hết lần này tới lần khác. Ông bị tai nạn xe khi ấy, khi tôi khoảng mười lăm tuổi, bởi vì ông bị chóng mặt hoặc bởi vì ông muốn tự sát – ai mà biết được? Sự việc ấy lại xảy ra lần nữa khi tôi học năm đầu đại học. Tôi nhận được điện thoại; tôi phải bỏ dở buổi thi và đến bệnh viện thăm ông. Họ đã phải lấy đi thắt lưng và cà vạt của ông ấy, toàn bộ mọi thứ. Và rồi ông lại vào viện năm năm sau đó. Rồi ông cảm thấy mệt mỏi. Và ông điều chỉnh lại cuộc sống của mình. Ông uống rất nhiều thuốc vitamin và ông tập thể dục chăm chỉ và ông không làm việc nữa. Và bất kỳ khi nào có sự việc làm ông căng thẳng, ông lại rời khỏi phòng. Con gái tôi khóc? Ông đội mũ vào và đi về nhà. Nhưng mẹ tôi vẫn ở bên ông trong suốt những thời điểm này và khi mà ông tỉnh táo, ông là một người chồng tuyệt vời. Ông có được mười năm tốt đẹp ở độ tuổi chín mươi, cho tới khi một cơn đột quỵ đánh bại ông vào năm 2001.”
Eve đã quyết định rằng không đẩy gia đình mình vào tình thế tương tự. “Bản thân tôi cũng phải trải qua vài cơn trầm cảm khủng khiếp,” cô nói. “Khi tôi khoảng ba mươi tuổi, tôi đã làm việc quá sức, nhận vào quá nhiều thứ, hoàn thành chúng, và rồi nằm trên giường một tuần liền mà không thể đối phó thêm được nữa. Có lúc tôi đã dùng thuốc Nortriptyline[3], mà chẳng ăn thua gì ngoại trừ việc khiến tôi tăng cân. Rồi vào tháng Chín năm 1995, chồng tôi nhận được công việc tại Budapest và chúng tôi phải chuyển tới đó, và tôi bắt đầu dùng Prozac nhằm đối phó với sự căng thẳng khi phải chuyển chỗ ở. Ở đấy, tôi hoàn toàn suy sụp. Hoặc là tôi nằm trên giường cả ngày hoặc trở nên vô cùng khó chịu. Cái nỗi căng thẳng của việc ở một nơi xa lạ và không có lấy một người bạn – và chồng tôi thì phải làm việc đến mười lăm tiếng một ngày khi chúng tôi vừa tới đó vì một vụ mua bán mới. Khi hợp đồng này kết thúc, vào bốn tháng sau đó, tôi hoàn toàn vỡ vụn. Tôi quay về Mỹ để gặp bác sĩ và tôi phải sử dụng rất nhiều loại thuốc: Klonopin, lithium, Prozac. Tôi không thể mơ mộng hay sáng tạo và lúc nào tôi cũng phải mang theo bên mình một hộp thuốc lớn, với những viên thuốc được đánh dấu sáng, trưa, chiều, tối bởi vì tôi không thể nhớ nổi những gì đang diễn ra. Rốt cuộc, tôi cũng có thể tạo lập được một cuộc sống ở nơi đó, quen được với một vài người bạn tốt, và có được một công việc khá ổn, nên tôi cắt giảm số thuốc xuống cho tới khi tôi chỉ phải uống vài viên vào mỗi tối. Rồi tôi có thai, ngưng dùng toàn bộ số thuốc, và cảm thấy thật tuyệt vời. Chúng tôi quay lại quê nhà, và rồi sau khi tôi sinh con ra, tất cả những hormone tuyệt vời ấy đều biến mất, và với việc chăm sóc một đứa trẻ sơ sinh – tôi không có được một đêm ngủ ngon trong suốt một năm – tôi lại suy sụp lần nữa. Tôi quyết định rằng mình sẽ không để con gái mình phải trải qua điều này. Hiện tôi đang dùng Depakote, thứ thuốc làm tôi cảm thấy ít uể oải hơn và là loại thuốc an toàn đối với những phụ nữ đang cho con bú. Tôi sẽ làm bất cứ những gì cần thiết để mang tới cho con gái tôi một môi trường sống ổn định, để không biến mất hay bỏ đi thường xuyên.
Hai năm tốt đẹp tiếp nối sau cơn suy sụp thứ hai của tôi. Tôi toại nguyện, và vui mừng khi được toại nguyện. Rồi vào tháng Chín năm 1999, tôi trải qua một trải nghiệm khủng khiếp khi bị bỏ rơi trong tình yêu, bởi một người mà tôi đã nghĩ rằng sẽ ở bên tôi mãi mãi, và đâm ra buồn bã – không phải tuyệt vọng, mà chỉ buồn thôi. Và rồi một tháng sau đó, tôi bị ngã cầu thang khi ở nhà và bị trật khớp vai và bị rách cơ. Tôi đến ngay bệnh viện. Tôi cố gắng giải thích với các nhân viên cứu hộ trên xe cấp cứu và rồi cả các nhân viên ở phòng cấp cứu rằng tôi muốn ngăn chặn sự tái phát của bệnh trầm cảm. Tôi giải thích về những viên sỏi thận và việc chúng đã kích thích cơn trầm cảm lúc trước như thế nào. Tôi hứa sẽ điền vào bất kỳ mẫu đơn nào được yêu cầu và trả lời các câu hỏi thuộc mọi chủ đề kể cả về lịch sử thời thuộc địa của Zanzibar nếu như chúng giúp làm giảm bớt nỗi đau thể xác mà tôi biết rằng quá đỗi mãnh liệt đối với sự thanh thản của tâm trí tôi. Tôi giải thích rằng tôi có lịch sử với những cơn suy sụp nghiêm trọng và yêu cầu họ xem xét bệnh án của tôi. Phải mất đến một giờ mới được nhận thuốc giảm đau; và vào lúc đó tôi được tiêm một liều morphine IV nhỏ đến mức không thể làm tôi bớt đau. Chiếc vai bị trật khớp là một vấn đề không hề phức tạp, nhưng phải tám tiếng sau khi tôi tới bệnh viện khớp vai của tôi mới được nắn lại. Tôi cuối cùng có được một liều thuốc giảm đau có nghĩa, thuốc Dilaudid, bốn tiếng rưỡi sau khi tôi đến viện – vì vậy ba tiếng rưỡi sau đó không quá đỗi khủng khiếp như những gì diễn ra vào mấy giờ trước.
Cố gắng duy trì sự bình tĩnh trong những giai đoạn đầu của tất cả điều này, tôi yêu cầu một cuộc tư vấn tâm lý. Một vị bác sĩ trực nói với tôi rằng, “Bị trật khớp vai quả thật rất đau và nó sẽ vẫn còn đau cho tới khi ta đưa nó trở về vị trí cũ, và anh chỉ cần kiên nhẫn và đừng nghĩ về nó nữa là được.” Cô ta cũng nói, “Anh đang mất kiểm soát bản thân, tức giận, thở quá gấp, và tôi sẽ không làm gì cho anh cả cho tới khi anh bình tĩnh trở lại.” Tôi được nghe rằng “chúng tôi không biết anh,” “chúng tôi không dễ dàng cho thuốc giảm đau mạnh,” và rằng tôi nên “cố gắng thở sâu và cố gắng tưởng tượng ra rằng anh đang ở trên một bãi biển với tiếng sóng vỗ bên tai và làn cát mịn dưới lòng bàn chân.” Một trong các bác sĩ nói với tôi, “Hãy tự chủ đi và ngừng thương hại bản thân. Nhiều người ở trong cái phòng cấp cứu này gặp phải nhiều vấn đề tồi tệ hơn anh nhiều.” Và khi tôi nói rằng tôi biết mình cần phải vượt qua nỗi đau nhưng muốn giảm thiểu sự mãnh liệt của nó lại, rằng tôi không quá quan tâm tới cơn đau thể xác này nhưng tôi lo lắng về các biến chứng tâm lý của nó, tôi được bảo rằng tôi đúng là “trẻ con” và “thiếu hợp tác.” Khi mà tôi nói rằng tôi từng có tiền sử về bệnh tâm thần, tôi được bảo rằng trong trường hợp đó tôi không thể kỳ vọng rằng bất kỳ ai cũng có cùng quan điểm với tôi về vấn đề này. “Tôi là một chuyên gia được đào tạo và tôi có mặt ở đây là để giúp anh,” vị bác sĩ ấy nói. Khi tôi nói rằng tôi là một bệnh nhân đã từng có trải nghiệm trước đó và biết rằng những gì mà cô ta đang làm thực sự gây tổn thương cho tôi, cô ta bảo với tôi rằng tôi đâu có học ngành y và sẽ phải tuân theo những đánh giá và phác đồ điều trị của cô ấy.
Tôi lặp lại yêu cầu của mình về việc được tư vấn tâm lý, nhưng không hề được đáp ứng. Hồ sơ ghi chép về tư vấn tâm lý không được lưu trữ trong phòng cấp cứu, và vì thế chẳng có cách nào để kiểm tra những lời phàn nàn của tôi, mặc dù bệnh viện này là một trong những nơi mà bác sĩ riêng và bác sĩ tâm lý của tôi từng hợp tác. Tôi tin rằng chính sách của một phòng cấp cứu mà tại đó câu nói “Tôi bị rối loạn trầm cảm nghiêm trọng bị làm trầm trọng thêm bởi một cơn đau tột bực” sẽ được đối xử giống như câu nói “Tôi cần phải có con gấu bông bên mình trước khi các vị có thể khâu vết thương” là không thể chấp nhận được. Sách giáo khoa tiêu chuẩn về thực hành tại phòng cấp cứu ở Hoa Kỳ không hề đề cập đến các khía cạnh tâm thần của các bệnh thể xác. Không một ai trong phòng cấp cứu được trang bị dù là ở mức nhỏ nhất để có thể đối phó với các biến chứng tâm thần. Tôi chẳng qua chỉ là một kẻ đòi món sườn lợn ở một cửa hàng bán cá.
Khi các cơn đau tích tụ, năm giờ đau đớn ít nhất cũng đau gấp sáu lần so với một giờ đau đớn. Tôi nhận thấy chấn thương thể xác là một trong những yếu tố chính dẫn đến chấn thương tâm thần, rằng để chữa trị thứ này theo cái cách mà bạn sẽ tạo ra thứ kia là một hành động ngớ ngẩn trong ngành y tế. Dĩ nhiên cơn đau diễn ra càng lâu, nó càng khiến tôi kiệt sức; các dây thần kinh của tôi càng bị kích thích; thì tình hình càng trở nên nghiêm trọng. Máu ở dưới da tụ lại cho tới khi bờ vai của tôi trông như một đốm đen trên mình con báo hoa. Tôi bị choáng khi thuốc Dilaudid[4] phát huy tác dụng. Quả thực có nhiều người trong phòng cấp cứu gặp phải nhiều thương tích nghiêm trọng hơn tôi nhiều; tại sao tất cả chúng tôi lại phải chịu đựng cơn đau vô lý này?
Trong vòng ba ngày kể từ thử thách tại phòng cấp cứu, tôi có cảm giác muốn tự tử mạnh mẽ mà tôi chưa từng trải qua kể từ cơn trầm cảm nghiêm trọng đầu tiên của mình; và nếu như tôi không nằm dưới sự giám sát hai mươi tư giờ một ngày của gia đình và bạn bè, tôi sẽ tìm đến sự giải thoát tức thời cực đoan nhất bởi vì tôi đã tiến tới mức độ đau đớn về thể xác và tinh thần vượt quá sức chịu đựng của bản thân mình. Một lần nữa đó lại là vấn đề của cây sồi và những sợi dây leo. Nếu như bạn nhìn thấy một chồi non vươn lên từ mặt đất và nhận thấy nó là chồi của cái cây leo nặng trĩu ấy, bạn có thể nhổ nó ra khỏi mặt đất bằng ngón tay cái và ngón tay trỏ của mình và mọi chuyện sẽ lại tốt đẹp. Nếu như bạn chờ đợi cho tới khi cái chồi non kia trở nên cứng cáp và ôm trọn lấy cây sồi, bạn có lẽ sẽ phải dùng đến cưa và có lẽ là cả một cái rìu và xẻng để loại bỏ thứ đó và đào phần rễ lên. Chắc hẳn bạn chẳng thể nào loại bỏ cái dây leo mà không làm tổn thương đến vài cành lá của cây sồi. Tôi thường có thể kiểm soát được cái khuynh hướng muốn tự tử trong mình, nhưng, như tôi chỉ ra với các nhân viên của bệnh viện sau khi cơn trầm cảm đã qua đi, việc từ chối chữa trị cho những than phiền về chứng bệnh tâm thần của bệnh nhân có thể biến một vấn đề nhỏ bé như là trật khớp vai trở nên nghiêm trọng và khiến nó trở thành chứng bệnh chết người. Nếu như có ai đó nói rằng anh ta đang đau khổ, thì các nhân viên của phòng cấp cứu cần phải hành động thích hợp. Nạn tự tử xảy ra ở đất nước này là bởi vì sự bảo thủ các bác sĩ như là người mà tôi đã gặp phải trong cái phòng cấp cứu đó, những người xem việc không chịu được cơn đau tột bực (cả về mặt thể xác lẫn tinh thần) là một sự yếu đuối trong tính cách.
Tuần tiếp theo, tôi lại suy sụp lần nữa. Tôi gặp phải vấn đề về nước mắt trong các lần trước đó, nhưng không bao giờ theo cái cách mà tôi có chúng vào lúc này. Tôi khóc vào mọi lúc, như một khối thạch nhũ. Thật là vô cùng mệt mỏi khi rơi từng đấy nước mắt, khiến cho khuôn mặt tôi cứ như bị nứt ra. Dường như phải dùng đến nỗ lực khổng lồ để làm những điều đơn giản. Tôi vẫn còn nhớ đã bật khóc nức nở bởi vì tôi đã dùng hết bánh xà phòng khi tắm. Tôi khóc bởi một phím chữ trên máy tính bị tắc trong vòng một giây. Tôi nhận thấy mọi việc đều trở nên khó khăn đến mức không thể chịu đựng nổi, và, ví dụ như, là cái viễn cảnh nhấc điện thoại lên đối với tôi cũng ngang ngửa với việc phải nâng lên một chiếc ghế nặng bốn trăm pound vậy. Cái thực tế rằng tôi phải đi vào không phải một mà là hai chiếc tất và rồi hai chiếc giày làm tôi nhụt chí đến mức chỉ muốn quay trở lại giường. Dù tôi không rơi vào sự lo âu mãnh liệt đã gây nên cơn suy sụp của tôi trước đó, nhưng sự hoang tưởng cũng bắt đầu xuất hiện: tôi bắt đầu sợ hãi, mỗi khi con chó của tôi rời khỏi phòng, rằng đó là bởi vì nó không còn yêu tôi nữa.
Có thêm một nỗi kinh hoàng trong cơn suy sụp lần này. Hai lần suy sụp trước đó của tôi diễn ra khi mà tôi không dùng thuốc. Sau cơn suy sụp thứ hai, tôi đã chấp nhận rằng tôi sẽ phải dùng thuốc mãi mãi nếu như muốn tránh khỏi những lần suy sụp về sau này. Ở mức độ chi phí tinh thần đáng kể, tôi đã uống thuốc mỗi ngày trong vòng bốn năm. Giờ đây tôi phát hiện ra mình hoàn toàn bị suy sụp bất kể cái thực tế rằng tôi đã sử dụng Effexor, BuSpar, và Wellbutrin. Điều này có nghĩa là gì? Trong quá trình viết cuốn sách này, tôi đã gặp gỡ những người từng trải qua một hay hai cơn suy sụp tinh thần, rồi bắt đầu uống thuốc, và trở nên ổn. Tôi cũng gặp gỡ cả những người ngưng dùng một loại thuốc nào đó trong vòng một năm, bị suy sụp, mất vài tháng để thoát khỏi một cơn suy sụp khác – những người chẳng bao giờ có thể đặt chứng trầm cảm của mình vào trong sự an toàn của thì quá khứ. Tôi từng tin rằng mình thuộc về nhóm số một. Nhưng giờ đây tôi dường như bỗng nhiên lại thuộc về nhóm thứ hai. Tôi đã chứng kiến những cuộc đời mà ở đó tinh thần khỏe mạnh chỉ là một điều thi thoảng diễn ra. Có lẽ là tôi đã vượt quá khả năng được giúp đỡ bằng Effexor – nhiều người cũng từng mệt mỏi với thứ thuốc này. Nếu là như vậy, thì tôi đã gia nhập vào một thế giới khủng khiếp. Trong tâm trí mình tôi nhìn thấy viễn cảnh một năm dùng thuốc này, một năm dùng thuốc kia, cho tới khi tôi sử dụng hết tất cả những tùy chọn sẵn có.
Giờ đây tôi đã nắm bắt được những việc cần thực hiện khi gặp phải cơn suy sụp tinh thần. Tôi biết phải gọi cho bác sĩ nào và nói những gì. Tôi biết khi nào thì phải giấu đi chiếc dao cạo râu và tiếp tục dẫn chó đi dạo. Tôi gọi cho mọi người và thẳng thắn trình bày rằng tôi bị trầm cảm. Một vài người bạn thân, mới vừa kết hôn, đến ngay nhà tôi và ở lại với tôi trong vòng hai tháng, giúp tôi vượt qua những phần khó khăn của những ngày tháng đó, nói chuyện với tôi về những lo lắng và sợ hãi của bản thân, kể cho tôi nghe những câu chuyện, giám sát việc tôi ăn uống, làm vơi bớt đi nỗi cô đơn – họ trở thành những tri kỷ của đời tôi. Em trai tôi bay về từ California và khiến tôi phải bất ngờ ngay trước thềm nhà mình vào thời điểm mà tôi suy sụp nhất. Cha tôi ở vào tư thế cảnh giác cao độ. Theo tôi biết đây là những gì đã cứu tôi: hành động nhanh; có được một bác sĩ giỏi sẵn sàng lắng nghe bạn; hiểu rõ những vấn đề bản thân; ăn và ngủ điều độ cho dù việc ấy có đáng ghét đến nhường nào; lập tức từ bỏ mọi khả năng gây căng thẳng; tập thể dục; huy động tình yêu.
Ngay lập tức tôi gọi cho người đại diện của mình và nói rằng tôi đang cảm thấy rất tệ và rằng tôi sẽ phải tạm dừng việc thực hiện cuốn sách này. Tôi nói rằng tôi không biết quá trình tệ hại này sẽ ra sao. “Cứ giả vờ như hôm qua tôi vừa mới bị đụng xe,” tôi nói, “và rằng tôi đang bị giữ lại ở bệnh viện để chờ chụp X quang. Ai mà biết được khi nào thì tôi mới có thể đánh máy lại?” Tôi uống Xanax ngay cả khi nó khiến tôi trở nên đờ đẫn và không thể đứng vững, bởi vì tôi biết rằng nếu như tôi để mặc cơn lo lắng đang ngự trị trong lồng ngực và ruột gan mình, nó sẽ trở nên tệ hại hơn và tôi sẽ gặp rắc rối. Tôi không hề mất trí, tôi giải thích với gia đình và bạn bè mình, nhưng tôi gần như chắc chắn rằng mình đã để nó thất lạc ở đâu đó. Tôi cảm thấy mình như đang ở trong thời chiến tại Dresden[5], như một thành phố đã bị phá hủy và chẳng thể tự bảo vệ mình trước đạn bom, nó chỉ đơn giản là bị đánh sập, và chỉ còn lại những tàn dư vàng son lấp lánh dưới đống đổ nát hoang tàn.
Bối rối khóc lóc thậm chí là trong cả thang máy của bệnh viện nơi mà nhà tâm thần dược học của tôi đặt văn phòng làm việc, tôi đã hỏi ông ấy rằng liệu có thể làm được gì không. Thật ngạc nhiên khi ông không thấy tình huống này kinh khủng giống như tôi. Ông nói rằng ông sẽ không cho tôi dừng thuốc Effexor – “nó có tác dụng với cậu trong thời gian dài và chẳng có lý do gì lại dừng nó vào lúc này cả.” Ông kê cho tôi Zyprexa, một loại thuốc chống rối loạn tâm thần mà đồng thời cũng có tác dụng chống lo âu. Ông tăng liều Effexor bởi vì, ông nói, cậu không bao giờ nên rời xa thứ sản phẩm đã giúp được cậu trừ khi cậu bắt buộc phải làm vậy. Effexor đã tỏ ra có tác dụng lúc trước và có lẽ với việc tăng liều nó sẽ mang lại hiệu quả lần nữa? Ông cắt giảm liều lượng Wellbutrin của tôi bởi vì Wellbutrin gây kích động, và trước tình trạng lo lắng cao độ tôi cần ít bị kích thích hơn. Chúng tôi giữ nguyên liều lượng BuSpar. Bác sĩ của tôi tăng một số thứ và giảm một số thứ và đọc phản hồi và sự mô tả bản thân của tôi và dựng nên một phiên bản gần “đúng” về tôi, có lẽ gần giống với trước đây, có lẽ hơi khác biệt một chút. Hiện tại tôi đã có được nhiều kiến thức chuyên môn và đọc về các loại thuốc mà tôi sử dụng (mặc dù tôi tránh việc tìm hiểu các tác dụng phụ của bất kỳ thứ gì cho tới khi tôi đã sử dụng nó được một thời gian; việc biết về các tác dụng phụ ước chừng là một sự đảm bảo về việc phát triển các tác dụng phụ). Tuy nhiên, tất cả chỉ là một thứ khoa học mơ hồ về những mùi và vị và sự kết hợp. Nhà tâm thần dược học của tôi đã giúp tôi vượt qua được cái thí nghiệm này: ông là nhà vô địch của việc liên tục trấn an tôi tin vào một tương lai chí ít cũng có thể ngang bằng với quá khứ.
Vào buổi tối sau cái ngày tôi bắt đầu dùng Zyprexa, tôi có kế hoạch tham gia buổi tọa đàm về Virginia Woolf. Tôi rất thích Virginia Woolf. Giảng về Virginia Woolf và đọc to lên những đoạn văn của bà đối với tôi mà nói cũng giống như là việc vừa giảng về socola và ăn nó luôn vậy. Tôi thực hiện buổi tọa đàm này ở nhà của một người bạn, trước một nhóm gồm khoảng năm mươi những con người thân thiện. Đó là một buổi hoạt động từ thiện vì một mục đích mà tôi tin tưởng. Dưới những tình huống thông thường, điều này sẽ thật là vui và chả đòi hỏi mấy nỗ lực, và tôi có thể sẽ đắm mình trong ánh đèn sân khấu – là điều mà tôi vẫn luôn thích thú nếu như tâm trạng của tôi ổn định. Một ai đó có thể sẽ cho rằng buổi giảng này sẽ khiến cho các vấn đề của tôi càng trở nên trầm trọng, nhưng thực ra khi ấy thần kinh tôi quá kích động nên buổi giảng ấy đã chẳng còn quan trọng: nội việc thức giấc thôi cũng đã đủ căng thẳng, và chẳng điều gì có thể khiến sự việc tệ hại hơn được nữa. Nên tôi tới đó và thực hiện những giao tế lịch sự nho nhỏ trong khi uống cocktail và rồi đứng dậy với cuốn sổ của mình và nhận thấy bản thân thật bình tĩnh, bình tĩnh một cách kỳ lạ, như thể tôi chỉ đang đưa ra một vài ý kiến bên bàn ăn tối, và như thể tôi đang rời khỏi cơ thể mình, tôi nhìn thấy mình đã giảng bài khá mạch lạc về Woolf từ những gì có trong trí nhớ và ghi chép của bản thân.
Sau bài giảng, tôi đi cùng với một nhóm bạn và những người tổ chức sự kiện này đến một nhà hàng ở gần đó. Bữa tối bao gồm đủ những người khác nhau nên đòi hỏi một vài nỗ lực để có thể gom góp lại cho đủ cái diện mạo của phép lịch sự hoàn hảo, nhưng dưới những tình huống thông thường đó sẽ là một niềm vui. Còn đây, cứ như thể không khí quanh tôi đang se lại, như cái cách mà keo dán se lại, trở nên cứng rắn đến kỳ lạ, khiến tiếng nói của những người khác như bị vỡ ra và nứt nẻ trong không khí rắn chắc, và những âm thanh vỡ vụn ấy khiến cho việc nghe họ nói trở nên càng khó khăn hơn. Tôi cần phải phá vỡ bầu không khí đó dù chỉ để nâng lên chiếc nĩa của mình. Tôi gọi món cá hồi và bắt đầu nhận ra tình cảnh kỳ cục mà tôi đang bộc lộ. Tôi hơi xấu hổ khi không biết phải làm gì trước điều đó. Những tình huống như thế này khá là bẽ mặt, dù bạn có biết bao nhiêu người đã dùng Prozac đi chăng nữa, dù cho mọi người dường như có vẻ bình thản ra sao trước trầm cảm. Mọi người bên bàn ăn đều biết rằng tôi đang viết một cuốn sách về chủ đề này và hầu hết bọn họ đều đã đọc các bài báo của tôi. Điều ấy cũng chẳng ích gì. Tôi lầm bầm và xin lỗi suốt cả bữa ăn như một nhà ngoại giao trong thời Chiến tranh lạnh. “Thật xin lỗi nếu như tôi có vẻ hơi mất tập trung, nhưng các vị biết đấy tôi vừa rơi vào một cơn trầm cảm nữa,” tôi có thể nói vậy nhưng rồi mọi người sẽ thấy buộc phải hỏi về những triệu chứng cụ thể và các nguyên nhân và cố gắng an ủi tôi, và những lời an ủi ấy thực ra lại càng làm cho cơn trầm cảm trở nên trầm trọng. Hoặc, “Tôi xin lỗi nhưng tôi thực sự không thể theo kịp những gì các bạn nói bởi vì tôi phải dùng năm mg Xanax mỗi ngày, dù dĩ nhiên là tôi không hề nghiện nó, và tôi cũng vừa mới bắt đầu dùng một loại thuốc làm dịu thần kinh mới mà tôi tin rằng có đặc tính an thần mạnh. Món salad của bạn ngon chứ?” Mặt khác, tôi có cảm giác rằng nếu như tôi cứ tiếp tục không nói gì, mọi người sẽ nhận ra tôi kỳ quặc ra sao.
Và rồi tôi nhận thấy không khí trở nên thật cứng rắn và giòn tan đến mức ngôn từ xuyên qua như những tiếng động huyên náo mà tôi chẳng thể nào kết nối lại được với nhau. Có lẽ bạn cũng đã từng tham dự một buổi học và nhận thấy rằng để có thể theo kịp những ý chính bạn cần phải tập trung; nhưng đầu óc bạn thì cứ lang thang tận đâu đâu và rồi bạn chẳng hiểu những gì được nói đến khi quay trở về với bài giảng. Sự logic đã biến mất. Và đó là những gì mà tôi cảm thấy, nhưng ở mức độ của từng câu chữ. Tôi cảm thấy logic biến mất ngay bên trong tôi lúc này. Có ai đó nói điều gì đó về Trung Quốc, nhưng tôi không biết chắc đó là chuyện gì. Tôi nghĩ có người nào đó đã nhắc tới ngà voi, nhưng tôi không biết đó có phải là cùng một người đã đề cập tới Trung Quốc hay không, dù tôi nhớ rằng người Trung Quốc có chế tác các sản phầm từ ngà voi. Có ai đó hỏi tôi điều gì đó về cá, phải chăng là món cá mà tôi vừa gọi? Có phải tôi đã gọi món cá không? Liệu tôi có thích câu cá không? Có phải có nhắc tới loài cá ở Trung Quốc hay không? Tôi nghe thấy có ai đó lặp lại câu hỏi (tôi nhận ra cấu trúc câu lúc trước), và rồi tôi cảm thấy mắt mình nhắm lại và tôi thầm nghĩ, thật bất lịch sự khi nhắm mắt ngủ lúc người ta hỏi mi một câu hỏi đến lần thứ hai. Tôi cần phải thức dậy. Nên tôi nâng đầu lên khỏi ngực mình và mỉm cười theo cái cách có nghĩa là tôi-không-theo-kịp-câu-chuyện. Tôi thấy những khuôn mặt bối rối đang nhìn tôi. “Anh có ổn không?” có ai đó hỏi, và tôi trả lời “Có lẽ là không,” và vài người bạn có mặt ở đó đã đỡ tôi đứng dậy và đưa tôi ra ngoài.
------------------
[1] Lá mao địa hoàng được sử dụng làm thuốc chữa suy tim.
[2] Prozac Backlash: Overcoming the Dangers of Prozac, Zoloft, Paxil, and Other Antidepressants with Safe, Effective Alternatives (tạm dịch: Khe hở của Prozac – Vượt qua những nguy hiểm của Prozac, Paxil, và các loại thuốc chống trầm cảm khác bằng những phương pháp an toàn, hiệu quả) của tác giả Joseph Glenmullen M.D.
[3] Nortriptyline: một loại thuốc chống trầm cảm
[4] Dilaudid: một loại thuốc giảm đau
[5] Dresden là thành phố thủ phủ của Bang tự do Sachsen tại Đức. Thành phố nằm trên một thung lũng ven con sông Elbe, gần biên giới với Cộng hòa Séc. Chùm đô thị Dresden là một phần của vùng đô thị Tam giác Sachsen. Dresden có một lịch sử lâu dài giữ vai trò là thủ đô hoặc nơi ở vương giả của các tuyển đế hầu và vua của Sachsen, trong nhiều thế kỷ, họ đã trang hoàng cho thành phố bằng các nét văn hóa và công trình nghệ thuật tráng lệ. Thành phố từng được gọi là "Chiếc hộp Đá quý", do trung tâm thành phố có các công trình theo kiến trúc baroque và phong cách nghệ thuật rococo.
Một vụ ném bom của Đồng Minh vào cuối Chiến tranh thế giới lần thứ hai giết chết hàng nghìn dân thường và phá hủy hoàn toàn trung tâm thành phố. Hậu quả của vụ ném bom và 40 năm phát triển đô thị hậu thế chiến đã làm thay đổi bộ mặt của thành phố. Sau khi tái thống nhất nước Đức vào năm 1990, Dresden lấy lại được vị thế quan trọng của mình, trở thành một trong các trung tâm văn hóa, giáo dục, chính trị và kinh tế của nước Đức.
“Tôi vô cùng xin lỗi,” tôi cứ nói vậy, lờ mờ nhận ra rằng tôi đã khiến mọi người ngồi ở bàn nghĩ rằng tôi có lẽ đang phê thuốc, và ước gì tôi chỉ đơn giản nói rằng mình bị trầm cảm, dùng quá nhiều thuốc, và không biết tôi có thể vượt qua tối nay thế nào. “Thật xin lỗi,” và mọi người cứ nói rằng chẳng có gì phải xin lỗi cả. Và những người bạn đã giải cứu tôi đã đưa tôi về nhà và đỡ tôi nằm xuống giường. Tôi tháo kính áp tròng ra và rồi cố gắng nói chuyện vài phút, để an ủi bản thân. “Vậy cậu thế nào?” tôi hỏi, nhưng khi bạn tôi bắt đầu trả lời, anh ấy trở nên thật hư ảo, như chú mèo Cheshire vậy, và rồi tôi lịm đi và rơi vào một giấc ngủ sâu suốt mười bảy tiếng đồng hồ và mơ về một cuộc chiến vĩ đại. Chúa ơi, tôi đã quên mất sự dữ dội của cơn trầm cảm. Nó tác động thật sâu, thật xa! Chúng ta bị quy định bởi các quy chuẩn vượt ra ngoài chúng ta. Những quy chuẩn mà tôi đã được nuôi dạy và tôi đã thiết lập cho bản thân mình khá là cao so với tiêu chuẩn của thế giới; nếu như tôi cảm thấy không thể viết sách, tôi cảm thấy bản thân mình có gì đó bất ổn. Tiêu chuẩn của nhiều người khác thì thấp hơn nhiều; trong khi có những người lại cao hơn nhiều. Nếu như George W. Bush thức dậy vào một ngày nào đó và cảm thấy rằng mình không thể là nhà lãnh đạo của một thế giới tự do, thì có lẽ đã có điều gì đó không ổn với ông ấy. Nhưng nhiều người cảm thấy rằng họ vẫn ổn chừng nào mà họ còn có thể kiếm được miếng ăn và tiếp tục sống. Còn với tôi, việc gục xuống trong bữa tối vượt xa mức độ mà tôi cho là ổn.
Khi tỉnh dậy tôi cảm thấy ít kinh khủng hơn so với ngày trước đó, mặc dù tôi vẫn buồn bã vì việc mất khả năng kiểm soát của mình. Cái ý tưởng ra khỏi nhà vẫn có vẻ khó khăn một cách đáng ngạc nhiên, nhưng tôi biết rằng tôi đã có thể xuống dưới nhà (dù tôi không chắc là tôi có muốn làm một việc như vậy hay không). Tôi có thể gửi một vài e-mail. Tôi uể oải gọi điện cho nhà tâm thần dược học của mình, và ông đề nghị rằng tôi nên giảm liều Zyprexa xuống còn một nửa và giảm cả thuốc Xanax nữa. Tôi hoài nghi khi các triệu chứng của tôi biến mất vào buổi chiều hôm đó. Vào buổi tối, tôi gần như ổn, như một con ốc mượn hồn giờ đã lớn hơn so với cái vỏ của mình và phải rời bỏ nó, yếu ớt bò trên bãi biển, và rồi tìm thấy chiếc vỏ mới ở một nơi nào đó. Dù tôi vẫn còn có những chặng đường chờ đợi ở phía trước, tôi thấy vui khi biết rằng mình đang hồi phục.
Và đó là cơn suy sụp tinh thần thứ ba. Đó là một sự mặc khải. Trong khi cơn suy sụp thứ nhất và thứ hai diễn ra ác liệt nhất trong sáu tuần và mỗi đợt kéo dài khoảng tám tháng, cơn suy sụp tinh thần thứ ba, mà tôi gọi là cơn suy sụp-nhỏ, diễn ra ác liệt trong sáu ngày và kéo dài khoảng hai tháng. Tôi thật may mắn vì có phản ứng tốt với thuốc Zyprexa, nhưng tôi cũng nhận ra rằng những nghiên cứu mà tôi thực hiện để viết cuốn sách này, dù nó có giá trị với một ai đó hay không, thì cũng cực kỳ hữu ích đối với tôi. Tôi đã buồn bã trong vài tháng vì nhiều nguyên nhân khác nhau và ở trong mức độ căng thẳng đáng kể, vẫn có thể xoay sở với mọi việc, nhưng chẳng dễ dàng gì. Bởi vì tôi đã tìm hiểu rất nhiều về trầm cảm, tôi nhận ra nó ngay lập tức. Tôi đã gặp được một nhà tâm thần dược học giỏi – người có thể có thể khéo léo điều biến việc điều trị bằng việc kết hợp nhiều thứ thuốc với nhau. Tôi tin rằng nếu như tôi bắt đầu uống thuốc từ trước khi cơn suy sụp tinh thần đầu tiên của tôi đẩy tôi xuống vực sâu, tôi đã có thể khiến nó phải quy phục trước khi nó trở nên mất kiểm soát, và có lẽ tôi đã có thể tránh được các cơn suy sụp tinh thần tiếp theo. Nếu như tôi không ngưng các loại thuốc đã giúp tôi thoát khỏi cơn suy sụp ấy, thì có lẽ tôi sẽ chẳng bao giờ phải rơi vào cơn suy sụp thứ hai. Vào thời điểm tôi bắt đầu rơi vào cơn suy sụp thứ ba, tôi đã quyết tâm rằng sẽ không bao giờ phạm phải sai lầm ngu ngốc như vậy nữa.
Sự thuyên giảm của bệnh tâm thần đòi hỏi sự duy trì: tất cả chúng ta đều có thời kỳ phải trải qua chấn thương về tinh thần và thể xác, và có nhiều khả năng là những ai trong chúng ta có sự yếu đuối nhất định về mặt tính cách sẽ có những lúc lặp lại những tổn thương này khi đối mặt với các vấn đề. Một cuộc đời tự do tương đối có thể mở ra tốt nhất với sự thận trọng và có trách nhiệm trong việc dùng thuốc, kết hợp với việc thực hiện tư vấn tâm lý đều đặn, chuyên sâu. Hầu hết những người bị trầm cảm nghiêm trọng buộc phải sử dụng kết hợp nhiều loại thuốc, đôi khi là theo liều không chính thống. Họ cũng cần phải hiểu về sự thay đổi của bản thân, một điều mà các chuyên gia có thể hỗ trợ. Rất nhiều người trong số những người mà tôi gặp từng trải qua những chuyện đau thương đều bị trầm cảm, đã tìm kiếm sự giúp đỡ, và đã được ném cho những loại thuốc mà họ nhận lấy, thường là sai liều lượng, để chế ngự nửa vời các triệu chứng mà đáng lý ra đã có thể chữa trị hoàn toàn. Có lẽ những người bất hạnh nhất là những người biết rằng mình đang nhận được sự điều trị tệ hại nhưng chương trình bảo hiểm sức khỏe (HMO) và các gói bảo hiểm của họ khiến họ không được tiếp cận với sự điều trị tốt hơn.
Có một câu chuyện ngụ ngôn cổ thường được kể trong gia đình tôi về một gia đình nghèo khổ, nhà hiền triết, và con dê. Gia đình nghèo nọ sống trong tình trạng nghèo khổ và bẩn thỉu, chín người cùng chia sẻ một túp lều, và không ai đủ ăn và quần áo của mọi người đều rách nát và cuộc đời họ là một chuỗi đau khổ khôn nguôi. Cuối cùng một ngày nọ ông chủ của gia đình đi tới gặp nhà hiền triết và nói với ngài rằng, “Thưa thầy, chúng con khổ quá nên không sống nổi. Các tiếng ồn thật kinh khủng, rác rưởi thật kinh khủng, và sự thiếu riêng tư có thể giết chết một người, và chúng con chẳng bao giờ đủ ăn, và chúng con bắt đầu căm hận lẫn nhau, và điều đó thật kinh khủng. Chúng con nên làm thế nào bây giờ?” Nhà hiền triết chỉ trả lời đơn giản, “Anh cần phải kiếm một con dê và để cho con dê sống trong nhà của anh trong vòng một tháng. Rồi thì các vấn đề của anh sẽ được giải quyết.” Người đàn ông kinh ngạc nhìn nhà hiền triết. “Con dê ấy ạ? Sống chung với dê á?” Nhưng nhà hiền triết vẫn khăng khăng như vậy, và bởi vì đó là một nhà hiền triết vô cùng thông thái, người đàn ông làm theo những gì được dạy. Trong tháng sau đó, cuộc sống địa ngục của gia đình người đàn ông kia trở nên không thể nào chịu đựng nổi. Tiếng ồn ào càng thêm tệ hại; rác rưởi càng nhiều thêm; chả có gì là gần giống với sự riêng tư cả; chẳng còn gì để ăn bởi vì con dê đã ăn tất cả mọi thứ; và chẳng có gì để mặc bởi vì con dễ cũng ăn luôn cả quần áo của mọi người. Sự oán giận trong ngôi nhà bùng nổ. Đến cuối tháng, người đàn ông tức tối đến gặp nhà hiền triết. “Chúng con đã sống cùng với con dê suốt một tháng trong túp lều của chúng con,” ông ta nói. “Thật là kinh khủng. Sao thầy lại có thể đưa ra một lời khuyên lố bịch như thế được?” Nhà hiền triết gật đầu và nói, “Giờ thì hãy đưa con dê đi và anh sẽ thấy cuộc sống của mình bình yên và đẹp đẽ ra sao.”
Trầm cảm cũng giống như vậy đấy. Nếu bạn có thể đánh bại cơn trầm cảm của mình, bạn sẽ có thể sống một cuộc đời tuyệt vời bình an với những vấn đề của thế giới thực mà bạn có thể sẽ phải đối mặt, mà dường như sẽ nhỏ bé hơn nhiều nếu đem ra so sánh. Tôi gọi điện cho một người mà tôi từng phỏng vấn trong quá trình viết cuốn sách này và bắt đầu câu chuyện một cách lịch sự bằng việc hỏi rằng anh ta có khỏe không. “Ồ,” anh ta nói, “lưng tôi đau; tôi bị bong gân ở mắt cá chân; bọn trẻ đang giận tôi; trời thì đang mưa to; con mèo đã chết; và tôi thì đang phải đối mặt với phá sản. Mặt khác, tôi không có triệu chứng bệnh tâm lý vào lúc này, vì thế tôi sẽ nói là nhìn chung mọi thứ đều tuyệt vời.” Cơn suy sụp tinh thần của tôi quả thực là một chú dê của sự suy sụp; nó diễn ra vào thời điểm mà tôi cảm thấy bất mãn về nhiều điều khác nhau trong cuộc sống của mình mà tôi biết rằng, theo lý trí, cuối cùng cũng có thể giải quyết được. Khi tôi vượt qua được nó, tôi cảm thấy như thể cần phải tổ chức một bữa tiệc nhỏ để ăn mừng niềm vui hiện diện trong cuộc đời đầy hỗn loạn của mình. Và tôi cảm thấy đã sẵn sàng một cách đáng ngạc nhiên, thực ra là hạnh phúc một cách lạ kỳ, khi được quay trở về với cuốn sách này, mà tôi đã phải đặt sang một bên vào hai tháng trước đó. Như tất cả những gì đã nói ở trên, đó là một cơn suy sụp tinh thần và nó đã diễn ra trong lúc tôi vẫn đang điều trị bằng thuốc, và tôi chưa bao giờ cảm thấy hoàn toàn an tâm đến thế. Vào thời điểm gần cuối của quá trình viết cuốn sách này tôi thình lình cảm thấy sợ hãi và cô đơn. Đó không phải là sự suy sụp tinh thần, nhưng đôi khi tôi sẽ soạn thảo một trang sách và rồi tôi phải nằm xuống trong nửa giờ để hồi phục trước những câu chữ của mình. Đôi khi tôi bật khóc; đôi khi tôi thấy bất an và nằm trên giường suốt một hoặc hai ngày. Tôi nghĩ rằng những trải nghiệm này phản ánh chính xác sự khó khăn của việc viết lách và một sự không chắc chắn đáng sợ về phần đời còn lại của tôi, nhưng tôi không hề cảm thấy tự do; tôi không hề được giải thoát.
Tôi khá ổn trước các tác dụng phụ của thuốc. Nhà tâm thần dược học của tôi là một chuyên gia trong việc kiểm soát các tác dụng phụ. Tôi gặp phải tác dụng phụ liên quan đến tính dục khi dùng thuốc – một sự giảm nhẹ ham muốn tình dục và vấn đề mang tính toàn cầu về việc chậm đạt được cực khoái. Một vài năm trước, tôi thêm Wellbutrin vào chương trình điều trị của mình; nó dường như khiến sự ham muốn tình dục của tôi hoạt động trở lại, dù cho mọi việc không bao giờ còn được như lúc trước. Bác sĩ của tôi cũng kê cho tôi cả thuốc Viagra, phòng trường hợp tôi gặp phải cái tác dụng phụ ấy, và rồi thêm vào dexamphetamin[1], nhằm mục đích tăng ham muốn tình dục. Tôi nghĩ rằng nó có hiệu quả nhưng đồng thời cũng khiến tôi sợ hãi. Cơ thể tôi dường như trải qua những thay đổi nằm ngoài khả năng nhận thức của tôi, và những gì tỏ ra tuyệt vời vào đêm này có thể sẽ trở nên khó khăn vào đêm tiếp theo. Zyprexa thì có tính an thần và khiến tôi ngủ quá nhiều, khoảng mười tiếng mỗi tối, nhưng tôi còn có Xanax bên mình cho những đêm hiếm hoi khi mà tôi bị tấn công bởi sự xúc động mạnh và không thể chợp mắt.
Có một sự thân mật lạ kỳ đến từ việc chia sẻ những câu chuyện về các cơn suy sụp tinh thần. Laura Anderson và tôi đã liên lạc với nhau gần như hàng ngày trong hơn ba năm, và trong suốt cơn suy sụp tinh thần thứ ba của tôi, cô đã tỏ ra rất chu đáo. Cô ấy đột nhiên xuất hiện trong cuộc đời tôi và chúng tôi đã phát triển một thứ tình bạn lạ kỳ và thân thiết: chỉ trong vòng vài tháng sau lá thư đầu tiên mà cô gửi cho tôi, tôi cảm thấy như thể tôi đã quen biết cô từ rất lâu rồi, và mặc dù sự liên lạc của chúng tôi – hầu hết là qua email nhưng đôi khi cũng bằng cả thư giấy hoặc bưu thiếp, thỉnh thoảng qua điện thoại, và một lần gặp mặt trực tiếp – vẫn hoàn toàn tách biệt với những phần khác của cuộc đời tôi, dù sao nó cũng quen thuộc đến mức trở nên, rất nhanh, gây nghiện. Nó mang hình hài của một câu chuyện tình, trải qua sự khám phá, hưng phấn, mệt mỏi, hồi sinh, thói quen, và sự sâu sắc. Ở những thời điểm mà Laura trở nên “quá cuồng nhiệt”, và trong giai đoạn đầu tiếp xúc tôi đôi khi đã chống lại cô ấy hoặc cố gắng hạn chế sự tiếp xúc giữa chúng tôi – nhưng tôi sớm cảm thấy trong những ngày hiếm hoi khi mà tôi không nghe được tin gì từ Laura như thể tôi vừa bỏ một bữa ăn hay mất ngủ một đêm vậy. Mặc dù Laura Anderson là một người bị chứng rối loạn lưỡng cực, những cơn hưng cảm của cô ấy ít rõ rệt hơn so với những cơn trầm cảm, và chúng dễ kiểm soát hơn hẳn – một tình trạng được biết đến với tên gọi rối loạn lưỡng cực loại hai. Cô ấy là một trong số rất nhiều người mà, bất kể việc kiểm soát dùng thuốc và điều trị và hành vi có cẩn thận ra sao, trầm cảm vẫn luôn trực chờ sẵn – có những ngày cô ấy có thể thoát khỏi nó nhưng vào những ngày khác thì không, và cô ấy chẳng thể làm gì được để ngăn nó lại.
Cô gửi cho tôi lá thư đầu tiên vào tháng Một năm 1998. Đó là một bức thư tràn đầy hi vọng. Cô ấy đã đọc câu chuyện trên báo của tôi về chứng trầm cảm, và cô cảm thấy rằng chúng tôi như đã quen biết từ lâu. Cô cho tôi số điện thoại nhà và bảo rằng tôi có thể gọi vào bất kỳ khi nào bất kỳ giờ nào mà tôi muốn, và cô ấy cũng ghi ra một danh sách những album nhạc đã giúp cô ấy vượt qua được những khoảng thời gian tồi tệ và một trong những cuốn sách mà cô ấy nghĩ rằng tôi sẽ trở nên như vậy khi bị bệnh. Cô sống ở Austin, Texas, bởi vì đó là nơi mà bạn trai cô sống, nhưng cô có phần cô đơn và buồn chán ở đó. Cô bị trầm cảm quá nặng để có thể làm việc, dù rằng cô có hứng thú với mảng dịch vụ công và hi vọng rằng mình sẽ tìm được một công việc ở nghị viện bang Texas. Cô kể với tôi với tôi rằng cô đã dùng Prozac, Paxil, Zoloft, Wellbutrin, Klonopin, BuSpar, Valium, Librium, Ativan, và “dĩ nhiên là Xanax” và hiện đang dùng một số loại thuốc trong đó và cả Depakote và Ambien. Cô gặp vấn đề với vị bác sĩ tâm thần của mình, “từ bỏ-bác sĩ-đoán xem để chuyển sang vị bác sĩ thứ bốn mươi chín.” Có điều gì đó ở cô đã hấp dẫn tôi, và tôi hồi âm theo cách nồng nhiệt nhất có thể.
Lần tiếp theo tôi nghe được từ cô ấy là vào tháng Hai. “Thuốc Depakote không phát huy tác dụng,” cô viết. “Tôi thấy nản lòng vì việc mất ký ức và bị run tay và nói lắp và quên mất chỗ để bật lửa trong khi đã phải mất tới bốn mươi phút để tìm ra thuốc lá và cái gạt tàn. Tôi nản lòng bởi vì căn bệnh đối với tôi dường như rành rành là chứng rối loạn đa cực trong nhiều trường hợp – nó khiến cho tôi ước gì Lévi-Strauss[2] chưa từng khiến ta biết tới sự đối lập nhị phân. Việc đạp xe đối với tôi cũng phức tạp như là định nghĩa về tiền tố. Tôi tin rằng có tới bốn mươi sắc độ khác nhau của màu đen, và tôi không thích nhìn vào điều này trên thang đo tuyến tính – tôi nhìn nhận nó như một vòng tròn nhiều hơn và một chu kỳ nơi mà bánh xe quay quá nhanh và ham muốn được chết có thể thâm nhập vào bất kỳ một cuộc nói chuyện nào. Tôi nghĩ tới việc đến bệnh viện kiểm tra trong tuần này, nhưng tôi đã tới đó đủ nhiều để biết rằng tôi sẽ không được sử dụng chế độ cài đặt stereo cho chiếc tai nghe của mình, hay dùng kéo để làm thiệp Valentine, và rằng tôi sẽ nhớ những chú chó của mình, và rằng tôi sẽ hoảng sợ nếu như không có bạn trai Peter bên cạnh, và sẽ thấy nhớ anh ấy khủng khiếp, người vẫn yêu tôi sau tất cả những trận nôn mửa và giận dữ và sự không ngơi nghỉ và việc không làm tình và rằng tôi sẽ phải nằm trong hành lang bệnh viện hoặc bị nhốt trong một căn phòng để bị giám sát trước ý định tự tử và những điều tương tự như thế - ôi, không xin cảm ơn. Tôi khá tự tin rằng với những loại thuốc đang giữ cho tôi ở trên đường xích đạo – giữa hai đầu cực của trái đất – rằng tôi sẽ không sao cả.”
Khi mùa xuân đến, tinh thần của cô ấy được cải thiện. Vào tháng Năm, cô có thai và rất phấn khởi về việc sinh em bé. Tuy nhiên, cô cũng biết rằng thuốc Depakote có liên quan tới tật nứt đốt sống và phát triển não bộ không bình thường; cố gắng ngưng sử dụng nó; lo lắng rằng mình ngừng thuốc quá trễ; bắt đầu mất ổn định; và rồi viết ngay cho tôi, “Lúc này đây tôi đang ở trong tâm trạng buồn và sốc sau khi phá thai. Tôi đoán rằng việc trở lại dùng thuốc là mặt tốt đẹp đối với tôi vào lúc này. Tôi cố gắng không tức giận hay phẫn uất về điều này, nhưng đôi khi nó dường như thật bất công. Hôm nay là một ngày trời trong xanh, có gió nhẹ ở Austin và tôi tự hỏi rằng tại sao mình lại cảm thấy trống rỗng đến thế. Anh thấy không? Bất cứ điều gì – dù là một phản ứng thông thường trước một khó chịu nhỏ – cũng khiến tôi rơi vào lo lắng về một cơn trầm cảm có thể sắp diễn ra. Mặc dù tôi đang ở trong một làn sương mù của sự lờ đờ, cục cằn khi dùng Valium: đau đầu và căng thẳng vì khóc.”
Mười ngày sau đó, cô ấy viết, “Tôi đã ổn định lại – có lẽ là rơi xuống sâu hơn mức tôi muốn, nhưng không ở vào mức độ đáng lo ngại. Tôi đã thay bác sĩ và đổi thuốc – từ Depakote sang Tegretol, cùng với Zyprexa để đẩy nhanh tác dụng của Tegretol. Zyprexa thực sự khiến tôi trở nên chậm chạp. Các tác dụng phụ về mặt cơ thể đối với chứng bệnh tâm thần dường như là một sự sỉ nhục! Tôi nghĩ rằng với tất cả những thứ thuốc mà tôi sử dụng, hiện giờ tôi đã đủ điều kiện để được xếp vào hạng Chuyên gia Trầm cảm. Dầu vậy – tôi gặp phải chứng quên kỳ lạ này – tôi đâm ra không tài nào nhớ được, khi nào một giờ là một giờ chân thật, rằng trầm cảm đáng sợ đến nhường nào – đẩy một người vào những phút giây bất tận. Tôi quá đỗi mệt mỏi, quá kiệt sức trước việc cố gắng luận ra tôi là ai khi mà tôi ‘ổn’ – những gì là bình thường hay có thể chấp nhận được ở nơi tôi.”
Vài ngày sau đó cô viết, “Sự nhận biết về bản thân mang đến rất nhiều chiều sâu về tính cách con người – như là một kết quả, hầu hết những người bạn mà tôi có được trong suốt tám hay chín năm qua đều khá bình thường. Điều này khiến tôi trở nên cô đơn, khiến tôi cảm thấy mình ngu ngốc. Ví dụ như, tôi vừa gọi cho một người bạn rất thân (và khắt khe) ở West Virginia, muốn được nghe giải thích rằng vì sao tôi lại không tới thăm cô ấy và em bé mới sinh của mình. Tôi phải nói gì bây giờ? Rằng tôi cũng muốn tới đó lắm nhưng lại bận rộn với việc làm sao để không phải vào viện tâm thần ư? Điều ấy thật nhục nhã – thật hèn hạ. Nếu như tôi biết rằng mình sẽ không bị phát hiện, tôi sẽ muốn nói dối về điều đó – bịa ra một chứng bệnh ung thư có lẽ là điều có thể chấp nhận được, rằng nó đã xuất hiện và biến mất, rằng mọi người có thể sẽ hiểu – rằng điều đó sẽ không khiến họ hoảng sợ và cảm thấy khó chịu.”
Laura vẫn luôn bị cản trở; mọi phần của đời cô đều được định nghĩa quanh căn bệnh của cô. “Chẳng hạn như là trong chuyện hẹn hò yêu đương: tôi cần người tôi hẹn hò phải tự chăm sóc được cho bản thân mình, bởi vì việc tôi tự lo cho mình cũng đã ngốn rất nhiều năng lượng, và tôi không thể chịu trách nhiệm trước mọi cảm giác tổn thương nhỏ xíu mà người đó gặp phải. Có phải thật kinh khủng khi cảm nhận như vậy về tình yêu hay không? Cũng rất khó để kiểm soát sự nghiệp nữa – những công việc ngắn hạn, rồi cả quãng thời gian trống giữa chúng. Ai mà thèm nghe cái hi vọng của anh về một loại thuốc mới kia chứ? Làm sao mà anh đòi người khác phải hiểu cho mình được? Trước khi tôi từng mắc phải căn bệnh này, tôi có một người bạn thân bị bệnh trầm cảm. Tôi đã lắng nghe mọi điều mà cậu ấy nói như thể chúng tôi hiểu cùng một thứ ngôn ngữ vậy, rồi tôi nhận ra rằng đó là bởi vì trầm cảm đã lên tiếng, hay dạy cho anh, một ngôn ngữ hoàn toàn khác.”
Trong những tháng tiếp theo, cô ấy có vẻ như đang vật lộn với điều gì đó mà cô có thể cảm nhận được. Trong khi ấy, cô và tôi tiếp tục cái công việc tìm hiểu nhau. Tôi biết được rằng cô ấy từng bị lạm dụng khi còn là một thiếu niên và bị cưỡng hiếp ở tuổi đôi mươi, và mỗi một sự kiện ấy đều để lại một dấu ấn sâu sắc. Cô đã kết hôn khi hai mươi sáu tuổi và trải qua cơn trầm cảm đầu tiên vào một năm sau đó. Chồng cô dường như không thể đối mặt được với điều đó, và cô ấy thì đối mặt với chuyện này bằng cách uống rượu vô độ. Vào mùa thu, cô trở nên hơi hưng cảm và đi khám bác sĩ, bác sĩ nói rằng cô chỉ đang căng thẳng thôi và cho cô dùng Valium. “Sự hưng cảm bao trùm lấy tâm trí tôi nhưng cơ thể tôi lại trở nên chậm chạp kinh khủng,” sau này cô ấy nói với tôi. Trong bữa tiệc Giáng sinh mà cô và chồng mình tổ chức vào một tháng sau đó, cô đã nổi điên và ném đĩa cá hồi vào người chồng. Rồi cô lên lầu và uống cả lọ Valium. Anh ấy phải đưa cô đi cấp cứu và nói với các nhân viên y tế rằng anh không thể đối phó với cô; cô được đưa vào khoa tâm thần và ở lại đó qua dịp lễ Giáng sinh. Khi cô ra viện, bị tác động bởi việc dùng thuốc quá nhiều, “cuộc hôn nhân này kết thúc. Chúng tôi gần như lê lết qua năm mới, nhưng Giáng sinh tiếp theo tôi đã tới Paris, và tôi nhìn anh ấy ở phía bên kia bàn ăn và nghĩ, ‘Lúc này mình chẳng hề hạnh phúc hơn so với khi ở bệnh viện vào một năm trước.’ ” Cô rời khỏi ngôi nhà của họ; gặp được người bạn trai mới không lâu sau đó; và chuyển tới Austin với anh ta. Căn bệnh trầm cảm diễn ra khá thường xuyên sau đó, ít nhất là một năm một lần.
Vào tháng Chín năm 1998, Laura viết cho tôi để kể vắn tắt về “nỗi âu lo khủng khiếp.” Vào giữa tháng Mười cô bắt đầu chìm sâu và cô biết điều đó. “Tôi chưa hoàn toàn ở trong tình trạng trầm cảm, nhưng tôi đang suy sụp một chút – ý tôi là tôi cần phải tập trung vào mỗi việc tôi làm hơn rất nhiều. Lúc này tôi chưa hoàn toàn bị trầm cảm, nhưng tôi đã bước vào sự suy thoái.” Cô bắt đầu sử dụng Wellbutrin. “Tôi ghét cái cảm giác xa cách với mọi thứ,” cô ca thán. Ngay sau đó, cô dành nhiều ngày ở trên giường. Các loại thuốc đã thất bại một lần nữa. Cô cách ly bản thân mình khỏi những người xa lạ và chỉ chú ý tới những con chó của mình. “Khi sự thèm ăn bình thường của tôi bị giảm sút bởi trầm cảm – hay những nhu cầu của tôi trước việc cười đùa, sex, thức ăn – chỉ có những chú chó mới mang tới cho tôi những khoảng khắc thực sự quý giá.”
Vào đầu tháng Mười một cô thông báo, “Hiện giờ tôi tắm bồn bởi vì nước từ vòi sen đập vào người tôi quá nhiều vào buổi sáng và dường như, vào những ngày này, đó là một cách quá đỗi dữ dội để bắt đầu ngày mới. Việc lái xe đòi hỏi cả một nỗ lực. Cũng như là việc đi tới quầy ATM, hay mua sắm vậy – bất kỳ điều gì mà anh có thể kể ra.” Cô thuê bộ phim The Wizard of Oz để làm mình xao nhãng, nhưng “những đoạn buồn khiến tôi bật khóc.” Sự thèm ăn của cô hoàn toàn biến mất. “Hôm nay tôi thử ăn món cá ngừ, nhưng nó khiến tôi bị nôn, nên tôi chỉ ăn một ít cơm mà tôi đã nấu cho lũ chó.” Cô than thở rằng thậm chí cả việc đi khám cũng khiến cô cảm thấy tồi tệ. “Thật khó để có thể thành thật với ông ấy về việc tôi cảm thấy thế nào bởi vì tôi không muốn làm ông ấy thất vọng.”
Chúng tôi tiếp tục duy trì việc trao đổi thư từ hàng ngày; khi tôi hỏi Laura rằng chẳng lẽ cô không cảm thấy việc viết thư cũng khó khăn hay sao, cô nói, “Chú ý tới người khác là cách thức đơn giản nhất để nhận được sự chú ý từ họ. Đó cũng là cách đơn giản nhất để giữ ý thức về bản thân. Tôi cần phải chia sẻ sự ám ảnh về bản thân. Vào lúc này tôi nhận thức được nó rất rõ trong cuộc đời mình nên tôi rên lên mỗi khi gõ chữ ‘tôi.’ (Ôi. Ôi.) Toàn bộ ngày cho tới lúc này trở thành một bài tập của việc ÉP BUỘC bản thân tôi làm những điều nhỏ nhặt nhất và cố gắng đánh giá tình trạng của mình nghiêm trọng ra sao – Tôi có thật sự trầm cảm không? Hay tôi chỉ lười thôi? Liệu nỗi lo lắng này xuất phát từ việc uống quá nhiều cà phê hay là bởi quá nhiều thuốc chống trầm cảm? Cái quá trình tự vấn này khiến tôi bật khóc. Điều làm cho mọi người khó chịu là họ không thể LÀM được gì để giúp cho người khác ngoại trừ việc có mặt ở đó. Tôi tin rằng email là thứ giúp cho tôi được tỉnh táo! Dấu chấm than là một sự phóng đại nho nhỏ.”
Cuối tuần đó: “Lúc này đang là mười giờ sáng và tôi đã bị choáng ngợp bởi ý tưởng về ngày hôm nay. Tôi cứ cố gắng, và cố gắng. Tôi cứ đi vòng quanh khi những giọt nước mắt rơi đều như lời tụng kinh vậy, ‘Không sao. Không sao đâu,’ và hít vào thật sâu. Mục tiêu của tôi là giữ cho mình được an toàn giữa sự phân tích bản thân và hủy hoại bản thân. Tôi chỉ cảm thấy như thể lúc này mình đang khiến những người khác cũng phải kiệt sức, trong đấy có cả anh nữa. Tôi đòi hỏi quá nhiều trong khi chẳng thể đáp lại bất cứ điều gì. Dù vậy, tôi nghĩ là nếu như tôi mặc vào bộ đồ mà mình yêu thích, búi tóc lên và dẫn chó đi dạo, thì có lẽ tôi sẽ cảm thấy đủ tự tin để đi tới cửa hàng và mua một hộp nước cam.”
Ngay trước lễ Tạ ơn cô viết, “Ngày hôm nay tôi xem lại những tấm ảnh cũ, và chúng có vẻ như được chụp lại từ cuộc đời của một ai đó khác. Đúng là một sự đánh đổi của thuốc men.” Nhưng ngay sau đó, ít nhất là cô đã có được sự tiến triển. “Hôm nay tôi có được một vài thời điểm tốt đẹp,” cô viết cho tôi vào cuối tháng. “Xin hãy cho tôi có thêm được những khoảnh khắc như vậy nữa, từ bất kỳ ai sẵn lòng bố thí chúng. Tôi đã có thể đi giữa đám đông và không cảm thấy tự ti.” Ngày hôm sau cô lại bị tái phát nhẹ. “Tôi đã cảm thấy khá hơn và hi vọng rằng đó là sự khởi đầu của một điều gì đó tuyệt vời, nhưng hôm nay tôi có nhiều lo lắng, về sự thụt lùi, chiếc túi dây rút của vô số những điều hỗn loạn. Nhưng tôi vẫn còn hi vọng, là điều sẽ hữu ích vào lúc này.” Ngày tiếp theo, mọi việc trở tệ hơn. “Tâm trạng tôi tiếp tục ảm đạm. Hoảng loạn vào buổi sáng và khốn khổ bất lực lúc chiều muộn.” Cô tả lại việc đi dạo công viên cùng bạn trai của mình. “Anh ấy mua một cuốn bách khoa thư nhỏ về các loại cây. Trong miêu tả về một loại cây, có ghi, ‘MỌI BỘ PHẬN ĐỀU CÓ CHẤT ĐỘC GÂY CHẾT NGƯỜI’ Tôi nghĩ rằng có lẽ tôi sẽ tìm được cái cây ấy, ăn một hoặc hai chiếc lá, và nằm co ro dưới hàng rào đá bao quanh nó và cứ thế chết đi. Ngày hôm nay tôi thấy nhớ cái con người Laura thích được mặc vào bộ đồ bơi và nằm sưởi nắng và nhìn về phía bầu trời xanh, xanh ngắt! Con người ấy đã bị lôi ra khỏi tôi bởi một tên phù thủy độc ác và bị thay thế vào đó bằng một kẻ khủng khiếp! Trầm cảm đã lấy đi bất cứ điều gì mà tôi thật sự, thật sự thích về bản thân mình (mà ngay từ đầu cũng chẳng nhiều nhặn gì cho lắm). Cảm thấy vô vọng và đầy tuyệt vọng chỉ là một cách thức chậm chạp hơn để đi đến cái chết. Tôi cố gắng vượt qua những tảng đá sợ hãi ấy. Tôi có thể thấy được vì sao người ta lại gọi như thế là ‘tang thương’ ”
Nhưng một tuần sau đó cô ấy cảm thấy khá hơn rõ rệt. Rồi đột nhiên, ở cửa hàng 7-Eleven, cô mất tự chủ khi một người đàn ông đứng sau quầy thanh toán gọi tên người khác tiến lên thanh toán trước cô. Với một cơn thịnh nộ hoàn toàn không phải là tính cách của cô, cô hét lên, “CHÚA ƠI! Đây là cửa hàng tiện dụng hay chỗ bán xúc xích chó chết đây?” và bỏ lại lon soda mà lao ra ngoài. “Đó chỉ là một cuộc leo núi. Tôi thấy quá mệt khi nói về nó, nghĩ về nó.” Khi bạn trai cô nói rằng anh yêu cô, cô bật khóc nức nở. Ngày hôm sau cô cảm thấy khá hơn và ăn hai bữa và mua cho mình một đôi tất. Cô vào công viên đi dạo và bỗng nhiên muốn được ngồi xích đu. “Trong khi tôi trải qua tuần vừa rồi với cảm giác bị tụt lùi trở lại, cảm giác được ngồi xích đu thật là tuyệt vời. Anh sẽ có cái cảm giác trái ngược: một cảm giác nhẹ bỗng dâng lên trong lồng ngực, và gió thổi bên tai, như khi anh lái xe lên một ngọn đồi vừa đủ nhanh. Thật là tuyệt khi thực hiện một việc đơn giản đến thế; tôi bắt đầu cảm thấy về bản thân mình nhiều hơn một chút, và một cảm giác về việc trở nên nhẹ nhõm và cảm giác về sự thông minh và sáng sủa quay trở lại. Tôi sẽ không hi vọng quá nhiều nữa, mà chỉ là cảm giác rằng không có những lo lắng khó hiểu, không có cái gánh nặng hay sự buồn bã không thể giải nghĩa được, cảm thấy thật giàu có và thật và tốt đẹp trong cùng một lúc, tôi không cảm thấy muốn khóc. Tôi biết những cảm giác khác rồi sẽ quay trở lại, nhưng tôi nghĩ rằng tôi sẽ có được sự nhẹ nhõm vào đêm nay, từ Chúa và từ chiếc xích đu, như một lời nhắc nhở rằng cần phải biết hi vọng và nhẫn nại, những điềm may rồi sẽ tới.” Vào tháng Mười hai, cô có phản ứng xấu với lithium; nó khiến cho da cô khô nẻ. Cô giảm liều lượng thuốc và chuyển sang dùng Neurontin. Có vẻ như là hiệu quả. “Cảm giác được quay trở lại trung tâm, một trung tâm, được biết đến với tên gọi TÔI thật là tốt đẹp và chân thật,” cô viết.
Tháng Mười tiếp theo, chúng tôi cuối cùng cũng gặp nhau. Cô đang ở cùng với mẹ mình ở Waterford, Virginia, một thị trấn cổ xinh đẹp ở bên ngoài Washington, nơi mà cô từng lớn lên. Khi ấy tôi quý cô đến mức tôi chẳng thể tin rằng chúng tôi chưa từng gặp gỡ. Tôi bắt tàu đến đó và cô tới gặp tôi tại nhà ga, mang theo người bạn Walt của cô, người mà tôi cũng mới gặp lần đầu tiên. Cô có mái tóc vàng, vóc người thon thả, và xinh đẹp. Nhưng thời gian ở bên gia đình đã gợi lại quá nhiều ký ức và cô không ổn cho lắm. Cô vô cùng lo lắng, lo lắng đến mức cô gặp khó khăn trong việc nói chuyện. Trong tiếng thì thầm khàn khàn, cô xin lỗi vì điều kiện sức khỏe của mình. Mỗi cử động của cô rõ ràng là một nỗ lực khổng lồ. Cô nói rằng tâm trạng cô rất xấu suốt cả tuần nay. Tôi hỏi rằng liệu có phải tôi đã góp phần gây thêm căng thẳng, cô khăng khăng với tôi rằng không phải vậy. Chúng tôi đi ăn trưa, và cô gọi món sò. Cô có vẻ như không thể ăn nổi chúng; tay cô run rẩy dữ dội, và trong lúc cô cố gắng cậy mở lớp vỏ của một vài con sò, cô làm cho nước sốt văng tung tóe. Cô có vẻ như chẳng thể vừa ăn và vừa nói chuyện trong cùng lúc, vì vậy nên Walt và tôi nói chuyện với nhau. Anh ấy tả lại sự xuống dốc từ từ của Laura trong tuần này, và cô tạo nên một ít âm thanh của sự đồng ý. Giờ thì cô đã từ bỏ hẳn món sò và tập trung toàn bộ sự chú ý vào ly rượu vang trắng. Tôi khá là sốc; cô ấy đã cảnh báo tôi rằng sự việc khá nặng nề, nhưng tôi chưa kịp chuẩn bị trước tình cảnh này.
Chúng tôi đưa Walt về và rồi tôi lái xe thay Laura bởi vì cô quá run rẩy để có thể lái xe. Khi chúng tôi về đến nhà, mẹ cô tỏ ra lo lắng. Laura và tôi nói chuyện một cách rời rạc; cô ấy dường như đang nói chuyện từ một chốn xa xôi nào đó. Và rồi khi chúng tôi cùng xem một vài bức hình, cô bỗng nhiên bị ‘mắc kẹt’. Nó không hề giống với bất kỳ điều gì mà tôi từng chứng kiến hay tưởng tượng đến. Cô kể cho tôi về người ở trong những bức hình và cô cứ tự nhắc đi nhắc lại. “Đấy là Geraldine,” cô nói, và rồi cô nhăn nhó và bắt đầu lại, chỉ vào bức hình, “Đấy là Geraldine,” và rồi lặp lại, “Đấy là Geraldine,” mỗi lần lại mất nhiều thời gian hơn để phát âm những âm tiết ấy. Mặt cô cứng lại và cô có vẻ gặp vấn đề với đôi môi của mình. Tôi gọi mẹ cô và anh trai của cô, Michael. Michael đặt tay lên vai Laura và nói, “Ổn rồi, Laura. Ổn rồi.” Cuối cùng chúng tôi cũng đưa được cô lên gác; cô vẫn cứ nói đi nói lại, “Đấy là Geraldine.” Mẹ cô thay quần áo cho cô và đỡ cô nằm xuống giường và ngồi bên cạnh và vuốt ve tay cô. Buổi hẹn hầu như không giống với những gì mà tôi dự đoán.
Hóa ra, một số loại thuốc mà cô sử dụng có ảnh hưởng xấu nên đã gây ra sự co giật này; thực ra chúng là nguyên nhân gây nên sự co cứng kỳ lạ lúc chiều, việc mất giọng nói, sự lo lắng thái quá. Vào cuối ngày, cô trải qua thời điểm tệ nhất, “tất cả màu sắc đều đã rút hết khỏi tâm hồn tôi, tất cả những phần tôi của tôi mà tôi từng yêu; tôi trở thành cái xác búp bê của những gì tôi đã từng là.” Cô nhanh chóng chuyển sang chế độ sinh dưỡng mới. Cho tới tận Giáng sinh cô mới có thể bắt đầu cảm thấy là chính mình một lần nữa; và rồi vào tháng Ba năm 2000, khi mà mọi việc đang tiến triển tốt đẹp, cô lại lên cơn co giật. “Tôi rất sợ,” cô viết cho tôi’. “Và rất nhục nhã. Thật thảm hại khi cái tin tức tốt nhất mà anh có thể chia sẻ chính là anh không bị co giật.” Sáu tháng sau đó, chúng lại diễn ra. “Tôi không thể tiếp tục đón nhận cuộc sống của mình nữa,” cô nói với tôi. “Tôi sợ những cơn co giật đến nỗi tôi bắt đầu lo lắng – hôm nay tôi rời khỏi nhà để đi làm và tôi bị nôn trong lúc lái xe. Tôi đã phải về nhà và thay quần áo để có thể tới được chỗ làm, và vì vậy mà tôi đã đi trễ, và tôi bảo với họ rằng tôi bị co giật nhưng họ lại gửi thư cảnh cáo tôi. Bác sĩ của tôi muốn tôi dùng Valium, nhưng thứ thuốc ấy khiến tôi bị mê man. Đây là cuộc sống của tôi vào lúc này. Nó sẽ luôn là cuộc sống của tôi, những chuyến lao dốc kinh khủng xuống đi ngục. Những kí ức kinh hoàng. Liệu tôi còn có thể chịu được cuộc sống kiểu này bao lâu nữa?”
Liệu tôi còn có thể tiếp tục sống theo cái cách mà tôi đang sống? Ôi, liệu có ai trong chúng ta có thể chịu đựng được cái cuộc sống với những khó khăn của chính mình hay không? Rốt cuộc, hầu hết chúng ta đều làm được. Chúng ta vẫn tiến về phía trước. Những tiếng nói trong quá khứ quay trở lại như những tiếng vọng của người chết để thương cảm về sự thay đổi và trôi qua của năm tháng. Khi tôi buồn, tôi nhớ được quá nhiều, quá rõ: vẫn luôn là mẹ và tôi khi chúng tôi ngồi trong gian bếp và nói chuyện, từ lúc tôi năm tuổi cho tới khi bà mất năm tôi hai mươi bảy tuổi; về cái cây xương rồng của bà tôi luôn nở hoa vào dịp Giáng sinh cho tới khi bà mất năm tôi hai nhăm tuổi; khoảng thời gian ở Paris giữa những năm tám mươi cùng với người bạn Sandy của mẹ, người muốn tặng chiếc mũ màu xanh của bà cho Joan of Arc, cô Sandy mất vào hai năm sau đó; ông bác Don và bà dì Betty và những viên kẹo sô-cô-la trong ngăn ngăn tủ; những người anh em họ Helen và Alan của cha tôi, dì tôi Dorothy, và tất cả những người đã mất. Tôi nghe thấy giọng người đã khuất vào mọi lúc. Ban đêm là khi mà những con người ấy và cái bản thể xưa cũ của tôi viếng thăm mình, và khi tôi thức dậy và nhận ra rằng họ không ở trong cùng một thế giới với tôi, tôi cảm thấy tuyệt vọng đến lạ, có gì đó vượt xa cả nỗi buồn thông thường và gần giống như vậy, trong một khoảnh khắc, trước nỗi thống khổ của sự tuyệt vọng. Và mặc dù nếu như tôi nhớ họ và cái quá khứ mà họ đã tạo nên và với tôi, cái cách mà tình yêu vắng mặt của họ ngự trị, tôi biết, trong sự sống, trong việc tiếp tục ở lại. Liệu có phải bởi vì trầm cảm mà tôi mới muốn được đến nơi họ đang ở đến thế, và để dừng lại cái cuộc đấu tranh điên cuồng nhằm duy trì sự sống này? Hay đó chỉ đơn giản là một phần của cuộc sống, để tiếp tục sống theo tất cả những cách mà ta không tài nào chịu đựng nổi?
Tôi nhận thấy sự thật về quá khứ, về thực tế rằng sự trôi đi của thời gian, thật vô cùng khó khăn. Ngôi nhà của tôi chứa đầy những quyển sách mà tôi không thể đọc và những bản ghi âm mà tôi không thể nghe và những bức ảnh mà tôi chẳng thể nhìn vào bởi vì chúng liên kết quá mạnh mẽ với quá khứ. Khi tôi gặp các bạn đại học của mình, tôi cố gắng không đả động nhiều về thời đại học bởi vì hồi ấy tôi hạnh phúc quá – không nhất thiết là hạnh phúc hơn tôi vào lúc này, nhưng là với một niềm hạnh phúc thật đặc biệt và cụ thể trong những tâm trạng đó và rằng nó sẽ chẳng bao giờ trở lại nữa. Những ngày tháng tuổi trẻ huy hoàng ấy nuốt trọn tôi. Tôi lao vào bức tường của niềm mãn nguyện về quá khứ trong mọi thời điểm, và đối với tôi sự mãn nguyện về quá khứ khó vượt qua hơn nhiều so với những đớn đau trong quá khứ. Để nghĩ về một quãng thời gian khủng khiếp đã trôi qua: ôi, tôi biết rằng sự căng thẳng sau chấn thương là một nỗi ưu phiền sâu sắc, nhưng với tôi những tổn thương trong quá khứ thật may mắn làm sao đều đã qua rồi. Tuy nhiên, niềm mãn nguyện của quá khứ lại thật khó quên. Ký ức về những khoảng thời gian tươi đẹp cùng với những người không còn tại thế, hay với những người không còn là con người họ trước kia nữa: đó là khi tôi cảm thấy đau đớn tồi tệ nhất trong hiện tại. Đừng bắt tôi phải nhớ lại, tôi nói vậy với những mảnh vụn của những niềm vui trong quá khứ. Trầm cảm có thể dễ dàng là hệ quả của quá nhiều điều vui vẻ cũng như của quá nhiều điều khủng khiếp. Trên đời này cũng có cả thứ gọi là sự căng thẳng hậu-vui vẻ nữa. Sự trầm cảm tệ hại nhất nằm ở trong giây phút hiện tại khi mà ta không thể thoát khỏi cái quá khứ được lý tưởng hóa hoặc nỗi ân hận khôn nguôi.
(Hết chương 2)
[1] dexamphetamine: (tên thường gọi: dexamfetamine sulfate; tên thương mại: Aspen Dexamfetamine) loại thuốc dùng để chữa chứng bệnh rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD) ở trẻ em và chứng ngủ rũ (narcolepsy).